PDA

View Full Version : Rượu và Thơ


phale
11-01-11, 03:04 PM
Rượu và Thơ
Sức Khỏe Đời Sống

Từ xưa đến nay, có rượu th́ ra thơ, mà thơ th́ ca tụng rượu. Đó là chân lư dưới mọi bầu trời.
Facebook Rượu và ThơTwitter 0 b́nh chọn Viết b́nh luận Lưu bài này

Nơi đâu cũng mượn chén rượu để quên hoặc vượt qua cái hiện thực đáng buồn hoặc ngược lại, để mừng công, chúc tụng nhau. Nhưng thái độ với người say và với rượu khác nhau, tùy theo từng nền văn hóa.

Ở phương Tây, nói chung nghiện rượu bị coi là một bệnh xă hội, đạo lư lên án. Ở ta và các nước Đông Á, trừ những tay nát rượu bê tha, rượu lại được đề cao, coi là đồ cúng thiêng liêng. Rượu không những là cách tiêu sầu cho các bậc tao nhă mà c̣n là phương tiện giải thoát “phận người”, đạt tới cái lâng lâng, tâm nhập vào vũ trụ, tan biến vào hư vô của Phật Lăo.

Trong Đường thi, Lư Bạch là ngôi sao “rượu và thơ”. Ông rất thích rượu, nhưng không hề bị chê trách là bê tha. Trái lại, trong cuộc đời riêng, đối với gia đ́nh, bè bạn, nhân dân và bản thân, ông luôn tỏ ra chân thành, nhân hậu và b́nh dị. Rượu giúp ông thể hiện bản sắc thơ ông, mà đời sau đánh giá là “phiêu dạt, hào phóng” (khoáng đạt, thanh thoát tự nhiên), vươn tới cái cao xa. Bài Thơ trước khi chuốc rượu của ông nổi tiếng: Nước sông Hoàng Hà chảy ra biển mất hút, tóc con người thoắt từ đen thành trắng, vậy hăy uống đi, mong say, không mong tỉnh. Hăy bán ngựa và áo quư lấy tiền mua rượu ngon để cùng nhau tiêu tan “vạn cổ sầu” của kiếp người.

Ở ta, Tản Đà cũng có cái “ngông” của Lư Bạch. Ông mượn thơ và rượu để nói lên cái u uất, khát vọng và t́nh người của ḿnh:

Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ

Mạch nước sông Đà tuôn róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
C̣n thơ c̣n rượu c̣n xuân măi
C̣n măi xuân c̣n rượu với thơ

(Ngày xuân thơ rượu)

C̣n thơ c̣n rượu là để:

Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười!
Cuộc lợi danh như chiêm bao, vậy th́:
Thương ai cho bận ḷng đây
Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ
Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng t́nh
Rượu thơ ḿnh lại với ḿnh
Khi say quên cả cái h́nh phù du

Bầu rượu túi thơ, lăng du giang hồ là điển h́nh cho văn nhân thời trước, muốn t́m lối thoát cho cái tôi bị Khổng giáo và xă hội đè nén.

Trong truyện Kiều, có những câu thơ nói đến rượu cùng cảm xúc thơ như:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ
Mảng vui rượu sớm cờ trưa

Vị chúa thơ rượu nổi danh Đông Tây là Omar Khayyam (thế kỷ 10). Có điều lạ là vị giáo sĩ thần rượu này lại là người nước Ba Tư cấm rượu v́ dân theo đạo Hồi. Tôi có dịp đi Iran (tên mới của Ba Tư) th́ thấy các buổi tiệc tùng đều không có rượu. Người ta kể lại là Khayyam thường ngồi trên sân thượng uống rượu và đàm đạo với bạn bè. Có làn gió mạnh làm rơi vỡ ṿ rượu. Ông ngẫu hứng làm bài thơ:

Hỡi thượng đế, Người đă đập vỡ ṿ rượu của con
Đă đóng cửa niềm vui của con, Thượng đế hỡi!
Thế là con uống mà Người lại say
Chao ơi, Người có say chăng khi mồm con đầy đất?

Thơ Khayyam qua rượu, thể hiện một triết lư hưởng lạc và bi quan về số phận con người, ư nghĩa vũ trụ, nhiều khi đi ngược giáo lư chính thống của đạo Hồi.

Ở phương Tây, thơ chuốc rượu và ca tụng rượu xuất phát từ lễ hội thờ Thần Rượu cổ Hy Lạp là Diomisos, Thần Rượu cổ La Mă là Bacchus. Lễ hội gồm nhảy múa, ca hát, truy hoan… có những đám cuới đeo mặt nạ, là nguồn gốc thể loại bi kịch và hài kịch cổ Hy Lạp.

Khi tôi đi Thụy Điển t́m hiểu văn hóa Bắc Âu, được biết nhà thơ Bellman (thế kỷ 18) cũng trong truyền thống dùng thơ rượu. Ông không phải là nhà thơ vĩ đại của dân tộc nhưng khi tôi nói chuyện với ai, cũng thấy ông được mọi người ưa thích. Bài ca chuốc rượu theo kiểu ca tụng thần Rượu Bacchus là sở trường của Bellman. Ông sử dụng những khuôn sáo cổ điển của thể loại: T́nh tri kỷ của các đệ tử rượu, thoát ly cái thống khổ của xă hội. Bacchus được tôn là lănh chúa của Vương quốc Hạnh phúc. Trong say sưa, hưởng lạc khoảnh khắc, ông làm thơ rất sinh động, đưa vào thơ cả cảnh sinh hoạt hiện thực.

Người ta thường ví Bellman với nhà thơ Pháp thời Trung cổ là Villon. Hai nhà thơ chỉ giống nhau ở rượu chè lang bạt, nhưng tâm t́nh và rung cảm khác nhau. Villon đắm ḿnh trong tội ác của giới trộm cướp, để rồi hối hận, sám hối trước Chúa, luyến tiếc cái trong sáng đă mất. C̣n Bellman là viên chức tiểu tư sản vui đời, say sưa rượu chè ca hát, la cà quán rượu không hối tiếc. Nhảy múa, nhạc ca vui. Rượu là chất men những bài ca của Bellman. Rượu đây không có nghĩa hành lạc, chỉ khoảnh khắc cho khuây nỗi chán chường như trong văn học cổ La-Hy. Nó cũng không gợi lên cái say, các nhà thơ Ba Tư cảm thấy thú vui trong cay đắng hay do băn khoăn siêu h́nh. Rượu của Bellman bắt nguồn từ thần Rượu La-Hy nhập vào cuộc đời với vui buồn trần thế. Đọc thơ Bellman đừng quên đó là bài ca kèm nhạc, ngọc phải lắp vào nhẫn mới thấy hết giá trị.

Hàng năm ở Thụy Điển, ngày 26/7 là ngày Hội Bellman. Từ 1920, có giải thưởng Bellman cho nhà thơ xuất sắc.

Hữu Ngọc