phale
19-03-11, 10:58 AM
Giáp Hải tự là Tiềm Phu, hiệu Tiết Trai, tục gọi là Trạng Kế. Ông quê làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhăn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Năm 23 tuổi, Giáp Hải đỗ Trạng nguyên năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ chín (1538) đời Mạc Thái Tông. Dưới triều Mạc, ông giữ chức Tuyên phủ đồng tri, thăng Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông các đại học sĩ Nhập thị kinh diên, thăng hàm Thiếu bảo tước Sách quốc công, trông coi cả lục bộ.
Giáp Hải tính t́nh ôn nhă, phong cách đàng hoàng, từ tốn, nói năng khúc chiết nhỏ nhẹ sâu lắng. Ông là nhà thơ, nhà chính trị yêu nước thương dân sâu sắc. Thấy triều đ́nh đổ nát, quan lại tham nhũng, dân t́nh lầm than, nhiều lần ông đă dâng kế sách chấn hưng đất nước.
Giáp Hải rất giỏi về văn học và ngoại giao, nhiều lần đi sứ phương Bắc, ông được người Minh kính phục và trang trọng gọi là Giáp Trạng Nguyên. Vua Mạc Mậu Hợp tặng ông lá cờ thêu hàng chữ khi về hưu: "Trạng đầu tể tướng Đẩu Nam tuấn, Quốc lăo, đế sư, thiên hạ tôn" (Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh tựa Nam Đẩu. Là quốc lăo, làm thầy vua, được mọi người kính trọng).
Giai thoại "Bài thơ vịnh bèo":
Năm Đinh Dậu, nhà Minh mượn cớ pḥ Lê diệt Mạc ḥng thôn tính nước ta, sai đô đốc Cừu Loan và tướng Mao Bá Ôn đem quân hùng hổ tiến vào cửa ải Pha Luỹ. Chúng gửi chiến thư cho triều đ́nh Mạc, bảo phải đầu hàng th́ mới tránh khỏi hoạ. Kèm theo thư là một bài thơ Bèo thách hoạ, dưới kư tên Mao Bá Ôn.
Tuỳ điền trục thuỷ mạc ương châm
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu căn miêu không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
Đản thức phù thời ná thức trầm
Đại để trung thiên phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.
(Mọc theo ruộng nước hóp như kim
Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
Nào có gốc sâu, nào có lá
Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
Tụ rồi đă chắc không tan tác
Nổi đó nào hay chẳng đắm ch́m
Đến lúc trời cao bùng gió dữ
Quét về hồ bể hẳn khôn t́m)
Vịnh bèo nhưng dụng ư của Mao Bá Ôn là coi khinh nước Nam sức yếu lực nhỏ, mong manh trôi dạt như cánh bèo mặt nước lênh đênh, chỉ một cơn gió là tan tác. Vua Mạc Đăng Dung giao cho Giáp Hải lên tận biên ải. Trong khi giao tiếp, Trạng Giáp Hải đă hoạ đáp:
Cẩm lâm mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thuỷ diện
Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lăng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng giá lư
Thái công vô kế hạ câu tầm.
(Ken dầy vải gấm khó luồn kim
Rễ lá liền nhau, động vẫn im
Tranh với bóng mây che mặt nước
Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
Sóng dồi muôn lớp thường không vỡ
Gió táp ngàn cơn cũng chẳng ch́m
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lă Vọng biết đâu t́m).
Trong bài thơ hoạ, thấy lời lẽ mạnh mẽ, Mao Bá Ôn và Cừu Loan bàn bạc với nhau, nhận định rằng nước Nam có thực lực, chưa thể nuốt trôi được, lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.
(St)
MaxReading
Giáp Hải tính t́nh ôn nhă, phong cách đàng hoàng, từ tốn, nói năng khúc chiết nhỏ nhẹ sâu lắng. Ông là nhà thơ, nhà chính trị yêu nước thương dân sâu sắc. Thấy triều đ́nh đổ nát, quan lại tham nhũng, dân t́nh lầm than, nhiều lần ông đă dâng kế sách chấn hưng đất nước.
Giáp Hải rất giỏi về văn học và ngoại giao, nhiều lần đi sứ phương Bắc, ông được người Minh kính phục và trang trọng gọi là Giáp Trạng Nguyên. Vua Mạc Mậu Hợp tặng ông lá cờ thêu hàng chữ khi về hưu: "Trạng đầu tể tướng Đẩu Nam tuấn, Quốc lăo, đế sư, thiên hạ tôn" (Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh tựa Nam Đẩu. Là quốc lăo, làm thầy vua, được mọi người kính trọng).
Giai thoại "Bài thơ vịnh bèo":
Năm Đinh Dậu, nhà Minh mượn cớ pḥ Lê diệt Mạc ḥng thôn tính nước ta, sai đô đốc Cừu Loan và tướng Mao Bá Ôn đem quân hùng hổ tiến vào cửa ải Pha Luỹ. Chúng gửi chiến thư cho triều đ́nh Mạc, bảo phải đầu hàng th́ mới tránh khỏi hoạ. Kèm theo thư là một bài thơ Bèo thách hoạ, dưới kư tên Mao Bá Ôn.
Tuỳ điền trục thuỷ mạc ương châm
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu căn miêu không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
Đản thức phù thời ná thức trầm
Đại để trung thiên phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.
(Mọc theo ruộng nước hóp như kim
Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
Nào có gốc sâu, nào có lá
Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
Tụ rồi đă chắc không tan tác
Nổi đó nào hay chẳng đắm ch́m
Đến lúc trời cao bùng gió dữ
Quét về hồ bể hẳn khôn t́m)
Vịnh bèo nhưng dụng ư của Mao Bá Ôn là coi khinh nước Nam sức yếu lực nhỏ, mong manh trôi dạt như cánh bèo mặt nước lênh đênh, chỉ một cơn gió là tan tác. Vua Mạc Đăng Dung giao cho Giáp Hải lên tận biên ải. Trong khi giao tiếp, Trạng Giáp Hải đă hoạ đáp:
Cẩm lâm mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thuỷ diện
Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lăng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng giá lư
Thái công vô kế hạ câu tầm.
(Ken dầy vải gấm khó luồn kim
Rễ lá liền nhau, động vẫn im
Tranh với bóng mây che mặt nước
Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
Sóng dồi muôn lớp thường không vỡ
Gió táp ngàn cơn cũng chẳng ch́m
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lă Vọng biết đâu t́m).
Trong bài thơ hoạ, thấy lời lẽ mạnh mẽ, Mao Bá Ôn và Cừu Loan bàn bạc với nhau, nhận định rằng nước Nam có thực lực, chưa thể nuốt trôi được, lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.
(St)
MaxReading