PDA

View Full Version : 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ - Huyền Li


phale
20-04-11, 02:25 PM
Lời người biên soạn: Về Nguyễn Công Trứ có rất nhiều giai thoại. Trong số 81 câu chuyện vừa kịp sưu tầm trong dịp này, chúng tôi xin chọn lọc biên soạn lại để đưa vào tập sách 36 giai thoại tiêu biểu, với mong muốn dựng lên một chân dung Nguyễn Công Trứ qua cái nh́n “dân gian” - từ góc độ khác với những lí giải, nghiên cứu hàn lâm - của hậu thế về con người của cụ Thượng Uy Viễn.

1. NGÔNG NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI… CHO ĐẾN TẬN KHI CHẾT!

Ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Tuất (1778), tại tư gia của viên quan Tri huyện Quỳnh Côi, Thái B́nh, bà huyện họ Nguyễn, sau cuộc vượt cạn kinh hoàng đă sinh hạ được một cậu con trai thân dài, trán rộng, mũi cao.
Các cụ xưa nói “Trai mồng một, gái ngày rằm” quả không sai - vừa mới lọt ra khỏi ḷng mẹ, cậu bé đă tỏ ngay sự ngông bướng của ḿnh bằng cách không chịu mở mắt nḥm và không thèm mở miệng khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác. Người nhà và hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gơ liên hồi, cậu cũng điềm nhiên mặc! Chỉ đến khi cả đám người lớn đă mỏi ră rời, xuôi tay lắc đầu th́ cậu mới dơng dạc cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng!
Người cha của đứa bé mừng khôn xiết, v́ ông vốn hiếm muộn, năm đó đă ngót nghét lục tuần mới có được cậu con trai nối dơi(1). Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây cũng là một điềm triệu báo điều hỉ, ông bèn ra thư pḥng lấy giấy bút đặt tên cho con trai. Ông chọn cho cậu quư tử bướng bỉnh tên huư là Củng - theo chữ Nho có nghĩa là bền chặt, vững vàng; c̣n tên chữ là Trứ - nghĩa là rơ ràng, nổi trội.
Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ tương lai, và cũng là nhà thơ trác việt kiêm tay chơi số một một thời. Cả cuộc đời của cậu Củng - Trứ về sau quả đúng như những quan sát dân gian và ước vọng thầm kín của người cha già - bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ!
Nhưng đó chỉ mới là cái ngông khởi đầu. Tới tận khi đón cái chết, Nguyễn Công Trứ vẫn ngông.
Theo lời truyền, trước khi sang thế giới bên kia - chắc là cũng sẽ tiếp tục cái cuộc chơi bất tuyệt - Cụ dặn con cháu không nên bày cuộc tang lễ để khỏi tốn kém, làm khổ dân làng, mà cứ để Cụ nằm nguyên trên chơng như khi đang ngủ, thả xuống huyệt là xong! Nhưng không biết là các con cháu có dám nghe theo lời Cụ hay không? Xưa nay người đời sau vốn coi trọng cái “lễ” của ḿnh hơn là hiểu và tuân theo được cái lí, cái ḷng giản dị và khoáng đạt, không chấp nê của những bậc vĩ nhân vừa khuất.
Cụ mất, theo Niên biểu ghi là ngày 14 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), nhưng chính trong Gia phả lại chép là ngày Rằm. Nếu như vậy, th́ quả là Cụ lại “chơi ngông” quả chót: lựa đúng ngày Sóc (mồng một) để đến nhập cuộc tang bồng, rồi chọn đúng ngày Vọng trăng tṛn (15 Âm lịch) để vĩnh viễn rũ trường danh lợi ra đi(2).
Đúng là… đến cả chết cũng ngông!

2. NGOÀI VƯỜN - TRONG BUỒNG!

Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh dĩnh ngộ hơn thiên hạ, lại tinh nghịch, lém lỉnh chẳng ai b́, nổi tiếng “Thần đồng”. Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị.

Khoang 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt; ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và trong đám học tṛ đó có cậu bé Củng.

Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các tṛ một vế đối. Được thầy đồng ư, ông Đồ Trung nói:

- Ta có câu đối này, tṛ nào đối hay và đối nhanh trước sẽ được thưởng một quan tiền!

Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối:“Ngoài vườn cây đại nở hoa đại”.
Các học tṛ ngồi nh́n nhau, mặc dù rất thèm quan tiền (với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai t́m được vế đối lại để lấy.

Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, th́ chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi:

- Tṛ Củng, sao không đối đi?

Củng khép nép thưa:

- Thưa, con sợ bị quở phạt ạ.
- Tṛ cứ đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng, - nếu hay th́ ta sẽ thưởng cho, c̣n nếu có điều ǵ sơ suất th́ ta và thầy cũng không bắt lỗi tṛ đâu.

Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc:

- Thưa, con xin đối là“Trong buồng ông Trung ấp bà Trung” ạ!
- Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở th́ tất nhiên phải đối với ấp rồi!

Thầy và tṛ cả lớp được một trận cười nghiêng ngả, c̣n ông chủ nhà Đồ Trung th́ đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một quan tiền!

3. TƯỞNG MẦN BA TRỰ…

Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường về Củng gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ ham chơi khác, Củng liền nhập bọn; và cũng như những đứa trẻ mải chơi khác, cậu say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác của Củng là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm chí cả khóc nữa, c̣n Củng th́ vừa đi về nhà vừa đọc:

Tưởng mần ba trự mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đạ sướng chưa?!(3)

Thật ra, đây có thể chỉ là một câu nói buột miệng, lúc đó cậu tṛ Củng chắc không cố ư làm thơ; nhưng nó đă bộc lộ tính cách ngang tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ.

4. SẴN GÁNH CÀN KHÔN GHÉ THẲNG VAI

Vào một ngày hè nóng nực, thầy học dẫn cả đám học tṛ đi ra con sông cách trường độ hơn một cây số để tắm mát, ḥng làm dịu bớt cái nóng ghê người của xứ Nghệ. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép bằng những tảng đá xanh, thầy tức cảnh nghĩ ra một vế đối Nôm, bảo các tṛ cùng đối:

Đá xanh ghép cống, ḥn dưới nống ḥn trên.

Trong khi các tṛ khác đang vắt óc suy nghĩ th́ cậu Củng đă có ngay vế đối:

Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước.

Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài t́nh: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều nhà Nguyễn); c̣n “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương (từ này nay đă ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người đời c̣n t́m thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uư, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước!(4).

Đang nói chuyện th́ một trận mưa to ập đến, thầy tṛ phải vội vàng chạy vào xin trú trong một quán nước ven đường. Ngay lúc đó có một người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đă vội vă ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các tṛ thử làm vài câu thơ tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang ṿ đầu t́m chữ nghĩa th́ tṛ Củng đă ứng khẩu đọc hai câu:

Tạnh cơn phong vũ ḷ ngay mặt,
Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai.

Thầy học và tất cả mọi người trong quán đều tấm tắc khen hai câu thơ tuyệt diệu của Củng, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một đấng trượng phu tương lai. C̣n về phép đối th́ khỏi phải nói: hoàn chỉnh, chan chát từng ư, từng chữ - “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối với “thẳng vai”…
Và thầy càng khẳng định dự đoán tṛ Củng về sau sẽ làm nên công to nghiệp lớn.

5. NÍN HƠI BIỂN ĐỘNG BA TẦNG SÓNG

Một hôm, thầy học đến thăm nhà tṛ Củng, cùng với thân phụ của cậu ngồi đàm đạo, lâu lâu hai người lại kéo thuốc lào, thả khói thơm lừng từng đám bay ra như mây. Củng được phép đúng bên hầu thầy và cha để hóng chuyện. Chợt thấy cha đưa tay vê vê điếu thuốc nạp vào nơ, cậu vội đốt đóm đưa lên. Cụ Đức Ngạn Hầu rít một hơi dài khoan khoái, rồi nhả khói bay ra thành luồng như một con rồng uốn khúc. Cúi ḿnh đón cái điếu cày từ tay cha, bất ngờ cậu bé Củng ứng khẩu đọc luôn hai câu:

Nín hơi, biển động ba tầng sóng,
Há miệng, rồng bay chín khúc mây.

Thầy học không nín được, vỗ đùi khen hay. Cha của Củng cũng tṛn mắt nh́n, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Như được động viên, Củng sung sướng đọc tiếp:

Ba tầng sóng dội vang trời bể
Năm sắc mây bay thấp thoáng trời.

Thấy tṛ Củng đọc bốn câu thơ xuất thần đó, thầy học đắc ư lắm, gọi cậu đến gần, xoa đầu khen ngợi rồi nói với cụ thân sinh của cậu:

- Tṛ Củng sẽ có một tương lai phong vân đắc lộ, sự nghiệp kinh nhân, tôi rất hănh diện có một môn sinh như Củng. Nhưng ở đây trường t*&#ư nhỏ bé, tŕnh độ các học sinh c̣n thấp kém nhiều so với Củng. Nếu Củng c̣n lư*&#u học ở đây, tôi e sẽ làm uổng phí th́ giờ của Củng. Vậy tôi khuyên ngài nên cho Củng xin lên trường quan Đốc trên tỉnh theo đ̣i bút nghiên để chóng thành tài...

Nghe theo lời khuyên của thầy, Củng từ đó được lên tỉnh thành Hà Tĩnh học.
Trước ngày lên đường đi học với thầy khác, Củng đến dâng thầy học cũ của ḿnh đôi câu đối để tạ ơn:

Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi cầu viễn;
Nhi quốc gia chi học quy hữu định, tương sử tự hạ tiệm thăng cao.

Nghĩa là:

Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần mà đi t́m nơi xa;
Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ chỗ thấp mà bước lên chỗ cao.

Thế là “túi đàn, cặp sách đề huề”, tṛ Củng rời đất Nghi Xuân lên đường vào thành Hà Tĩnh học.
Lúc này cậu đă 15 tuổi, trở thành Nho sinh trường Đốc học của tỉnh.

6. KHẢ ÚY ĐOAN ĐOAN ĐÍCH HẬU SINH

Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, Nho sinh Củng lang thang dạo phố th́ bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán. Đang lớ ngớ không biết đường tránh, cậu vô t́nh cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới tŕnh quan về tội vô lễ. Cậu tṛ vừa bị giải đến nơi, đă nghe quan quát hỏi:

- Sao cậu dám thất lễ với bản quan?
- Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rơ các nghi lễ nên mới vô t́nh vô lễ, xin quan lớn dung thứ.
- À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan sẽ ra một vế đối, cậu đối hay th́ được tha, bằng không sẽ bị giam về tội “phạm thượng”!

Rồi quan đọc:

- Khách khoa bảng, khách văn ch*&#ương, giữa quan khách, khách lại gặp khách.

Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay:

- Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai!

Củng lại tung ra một câu thơ khẩu khí! Quan Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà c̣n thưởng thêm một quan tiền đồng (trị giá bằng sáu quan tiền kẽm).
Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành:

- Quả là Khả úy đoan đoan đích hậu sinh.

Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh nầy rất đáng sợ”.

phale
20-04-11, 02:30 PM
7. ĐỐI ĐÁP VỚI SƯ

Gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi chùa, vị sư trụ tŕ ở đây là người tài cao học rộng nhưng rất kiêu ngạo, hiếu thắng. Ông này thường tự cho ḿnh là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn từ lâu đă nổi tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, Nho Củng cũng hiếu thắng t́m dịp gặp thử tài cao thấp.

Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho Củng bèn t́m tới chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, Củng lại đang khát nên đi thẳng vào bếp chùa để t́m nước uống, th́ gặp sư trụ tŕ đang lúi húi bên bếp. Quay lại nh́n người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách:

Khách khứa kể chi ông núc bếp(5).

Cậu Củng nh́n quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành dùng để muối cà hay dưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:

Trai chay mà có vại cà sư?(6)

Câu này thực ra được nói lên rất vô t́nh, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nho Củng thâm ư châm biếm ḿnh có tư t́nh với bà văi, nên chắp tay nh́n lên tượng Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của ḿnh:

Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật.

Nho Củng chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối lại:

Có giám sát đó, Đông Trù Tư mệnh Táo quân!

Đông trù Tư mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản mệnh của gia chủ. Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại Đông đối với Nam, Quân đối với Phật th́ thật là tài!
Đến đây th́ vị sư vừa tức vừa hoảng, không ngờ gặp phải đối thủ trẻ tuổi mà cao cường đến vậy, liền hạ một chiêu cuối cùng, vừa vỗ ngực ta đây vừa hăm doạ đối thủ:

Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh thần nhưng khác tục!

Nho Củng cũng quyết định tung một đ̣n hạ gục:

Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người!(7)

Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc, từ đó không dám cao ngạo nữa.
Lại có người kể, chuyện chưa dừng ở đấy. Nho Củng đắc thắng ra về, nhưng vừa bước đến giữa sân th́ hai con chó nhà chùa xổ ra cắn, cắn quyết liệt như thể trả thù cho chủ vậy. May có chú tiểu ngăn măi mới được. Nho Củng dừng lại nh́n quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi:

Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,
C̣n hai con chó chửa từ bi.

8. CÓ AI VÔ LÍ NHƯ THI SĨ

Gần làng Uy Viễn có bến Giang Đ́nh trên bờ sông Lam, là một trong “Nghi Xuân bát cảnh” (tám cảnh đẹp của Nghi Xuân), trên bến có khu chợ nổi tiếng với những đặc sản miền quê và cũng là nơi thường lượn lờ, gặp gỡ của trai thanh gái tú. Và một điều thú vị là trên con đường dẫn vào chợ, nơi ngă ba, có một mảnh đất nhỏ không hiểu sao mọi bàn chân đều không dẫm lên, đi ṿng qua, nên chỗ đó cỏ xanh bốn mùa, những bụi cây nở hoa đẹp tươi và duyên dáng.

Một chiều xuân nọ, Nguyễn Công Trứ vừa thơ thẩn đến ngă ba đó th́ thấy từ đằng xa một cô gái cũng đang đi lại. Chàng trai làm ra vẻ đang mê mải ngắm hoa, nhưng thực ra là câu giờ để đợi giai nhân đến. Biết tỏng chàng Nho sinh kia là ai và vốn không lạ ǵ những mẹo vặt kiểu đó, khi đến gần cô gái mỉm cười đọc, như bâng quơ:

Có ai vô lí như thi sĩ,
Hoa nở giữa đường cũng vấn vương.

Cô gái ấy vốn là một nghệ sĩ dân gian làng nghệ thuật Ca Trù Cổ Đạm, tài sắc có thừa. Biết đă gặp “đối thủ” cao tay, chàng thi sĩ dù vô lí vẫn không hề bối rối, mà lại buông giọng ỡm ờ như nói với bông hoa ven đường:

Trời đà cho sắc cho hương,
Hoa kia nỡ để gió sương đăi đằng.

Chuyện đến đây, có người nói cô gái tự biết ḿnh không phải là “ḱ phùng địch thủ” của chàng “thi sĩ vô lí” kia nên e thẹn bước đi, kéo theo cái nh́n xao xuyến của kẻ đa t́nh; nhưng cũng có người kể, sau một phút lúng túng, nàng đă trả đ̣n ngoạn mục:

Sắc hương là của đất trời,
Phận ai ai giữ, ai người phải lo!

Rồi không đợi chàng thi sĩ kịp đáp lời, sắc hương đă nhẹ gót xa dần với tiếng cười khúc khích…

9. KÉM TÀI, TIỆN ĐỆ XIN NHƯỜNG LÀM ANH

Ở phủ Thạch Hà (Hà Tĩnh) có Đầu phủ(8) Nguyễn Trùng Quang cũng hay tự thị, tự đắc là hay chữ, học rộng nhất trong vùng. Nghe đồn thần đồng Củng phong lưu, tài giỏi, anh ta chưa tin, những muốn gặp để thử hơn thua thế nào.
Một lần, Trùng Quang cho người mời thần đồng Củng tới nhà ḿnh chơi. Đúng ngày hẹn, Nho Củng tới th́ thấy ngoài cửa chủ nhà có dán một đôi câu đối chữ Hán:

Sinh nê nhi bất nhiễm,
Hữu xạ tự nhiên hương.

Nghĩa là:

Sinh nơi bùn mà không nhiễm,
Có chất xạ tự nhiên thơm.

Vào trong nhà, lại thấy trên bàn có một tờ giấy trắng, một cây bút lông và một đĩa mực mài sẵn, Nho Củng biết ngay chủ nhà muốn thử tài ḿnh, bèn xin phép cầm bút viết liền một đôi câu đối Nôm như sau:

Cửa sấm dám đâu mang trống lại,
Đất người đành phải vác chiêng đi(9).

Đọc xong hai câu thơ, Đầu phủ họ Nguyễn, người tự đặt cho ḿnh tên là Trùng Quang, có nghĩa là hai lần sáng, lập tức lấy làm tâm phục khẩu phục, liền viết tặng khách hai câu thơ chữ Hán:

Khắc chấn danh gia năng hữu tử;
Bất tài tiện đệ nhượng vi huynh.

Nghĩa là:

Nối nghiệp, danh gia sinh con tài giỏi,
Kém tài, tiện đệ xin nhường làm anh.

và Đầu phủ Quang nhất định tôn Nho Củng làm anh, mặc dầu nhiều hơn Nho Củng đến năm sáu tuổi.
Đến khi chia tay, Nguyễn Trùng Quang lại viết tặng “Đại huynh” thêm hai câu thơ Hán văn như sau:

Kinh nhân văn tự đề giai cú,
Tuyệt thế anh tài kiến thiếu niên.

Nghĩa là:

Đề câu thơ hay văn tự kinh người,
Thấy kẻ thiếu niên anh tài tuyệt thế.

10. BA VẠN ANH HÙNG ĐÈ XUỐNG DƯỚI

Một lần có việc đi xa, trời rét, chàng học tṛ Nguyễn Công Trứ ghé vào quán nước bên đường nghỉ chân, rồi rúc vào ổ rơm trong quán ngủ nhờ. Vừa lúc đó, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn một đạo quân đi ngang qua cũng ghé vào quán. Những người trong quán thấy quan quân rầm rập th́ sợ hăi nép tận vào các góc xa, riêng Nguyễn Công Trứ vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ kh́ như không có chuyện ǵ xảy ra. Một viên quản cơ thấy vậy nạt nộ om ṣm, hất chiếu đánh thức kẻ vô lễ dậy. Chàng thư sinh điềm nhiên, chậm răi ngồi lên, không tỏ vẻ ǵ là sợ hăi cả. Thấy vậy, Tả quân Lê Văn Duyệt lấy làm lạ, hỏi:

- Nhà ngươi là ai, mà thấy đạo quân của ta đến vẫn cứ nằm ĺ, không đứng dậy chào cho phải phép? Ngươi không sợ ta trách phạt hay sao?

Chàng học tṛ khôn khéo đáp lời quan:

- Bẩm quan lớn, tiểu sinh vốn biết đạo quân của ngài là đạo quân nhân nghĩa, chẳng vô cớ làm hại ai bao giờ, nên không việc ǵ phải sợ. Vả lại, tiểu sinh là học tṛ, đi đường xa mệt, gặp trời mưa lạnh lại có ổ rơm ấm quá nên trót ngủ quên mất ạ.

Thấy Nguyễn Công Trứ quả có dáng vẻ nho nhă, Tả quân liền bảo:

- Nếu ngươi đúng là học tṛ th́ hăy làm vài câu thơ vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu như vừa rồi, nếu hay ta sẽ tha, bằng không sẽ chịu phạt đó.

Cậu Nho sinh dường như chỉ đợi có thế, ứng khẩu đọc ngay:

Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín lần thiên tử đội lên trên(10).

Tả quân Lê Văn Duyệt nghe xong, giật ḿnh khen hay, hỏi tên tuổi, thưởng cho Trứ một số tiền rồi thả cho đi, và ghi nhớ trong ḷng về người học tṛ ḱ tài ấy.

11. SAO KHÔNG LO LIỆU C̉N NGỒI CHI ĐÂY

Thuở c̣n hàn vi, Nguyễn Công Trứ treo trong nhà một bức tranh vẽ cảnh buổi chiều tà, ngang trời là đàn chim vỗ cánh giăng giăng bay về núi, lại có một ngư ông ngồi bên cầu buông cần câu cá nhưng lại có dáng đang nghĩ ngợi điều ǵ. Chàng hàn sĩ họ Nguyễn làng Uy Viễn đề vào bức tranh ấy đôi câu thơ:

Chim bay về núi tối rồi,
Sao không lo liệu c̣n ngồi chi đây.

Câu thơ như một sự tự nhắc nhở ḿnh, dù vui thú yên hà cũng không quên sự nghiệp nam nhi cần lo liệu khi đời c̣n chưa quá muộn. Tuy nhiên, tương truyền khi hai câu thơ được đồn ra ngoài, có những kẻ quyền thế, biết chàng trai họ Nguyễn quả có tài lại ngang tàng, nên tâu về triều đ́nh t́m cách thu dụng để khỏi ngại về sau.
Người ta kể, cái “hùng khí” đó đă được thể hiện ở cậu bé Củng/Trứ từ rất sớm. Khi c̣n để chỏm đi học, cậu đă vẽ một bức tranh con gà trống hùng dũng vươn cổ gáy đem dán ngoài cửa nhà và đề hai câu thơ vừa ngộ nghĩnh trẻ con vừa đầy khẩu khí:

Cộc cồ cô, cộc cồ cô
Nhà bay không dậy tau vô mổ giừ (11).

12. THƠ… VẠN NĂNG

Có thể nói Nguyễn Công Trứ là Người - Thơ, nghĩa là chỗ nào cũng thơ, cái ǵ cũng thơ, sống bằng/với thơ, dùng thơ như một công cụ giao tiếp, như vũ khí, như t́nh ái…
Sau đây là mấy cách Nguyễn Công Trứ “dụng thơ” từ hồi c̣n trẻ:

Dùng thơ khất nợ

Sau một lần đánh tổ tôm, tay chơi Công Trứ bị thua rồi mang nợ. Chủ nợ là một ông già đ̣i măi không được, cuối cùng ông đến tận nhà ăn vạ. Trước mặt ông lăo, con nợ lục lọi hết mọi rương ḥm xem có ǵ đáng giá đem đi cầm, nhưng khốn thay chỉ thấy có mấy quyển sách đă cũ sờn. Bí quá, chàng Nho sinh đành phải “cầu cứu” đến… Nàng Thơ, tức cảnh ngâm nga:

Thân "bát văn" tôi đă xác vờ,
Trong nhà c̣n biết "bán chi" giờ?
Của trời cũng muốn, "không thang" bắc,
Lộc thánh c̣n mong "lục sách" chờ.
Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu,
Nhân sinh "tam vạn" hăy c̣n thừa.
Đă không "nhất sách" kêu chi nữa?
"Ông lăo" tha cho cũng được nhờ!(12)

Ông lăo vốn rắp tâm đến là để đ̣i cho bằng được nợ, thấy Nguyễn Công Trứ giở thơ thẩn ra đă có ư bực, nhưng rồi nghe hết cả bài th́ thấy thơ hay quá, lại tài nữa, câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm mà lại nói lên được cảnh học tṛ nghèo kiết không tiền... Vừa thương vừa phục, ông lăo đă bằng ḷng cho nhà thơ khất nợ.
Dùng thơ chuộc tội

Một lần, v́ lỡ… si, cậu học tṛ Trứ táo gan trêu chọc một tiểu thư xinh đẹp nhưng cũng khá kiêu ḱ bằng cáchdẫm bắn nước bẩn tung toé lên vạt tấm áo lụa mới tinh của nàng. Bị bắt giải vào tŕnh quan Đốc học là cha của cô gái, chàng Nho sinh Nguyễn Công Trứ đă chuộc tội bằng bài thơ tinh nghịch sau:

Thoắt chốc tai nghe một tiếng ồ,
Bầu trời vần vũ kín vầng ô(13),
Tưởng rằng gió cuốn màn mây lại.
Ai biết trời tuôn lộc nước cho.
Khi năy nắng nôi ra thế ấy,
Bây giờ mát mẻ biết chừng mô(14).
Hỡi người ướt áo đừng năn nỉ,
Có rứa rồi ra mới được mùa.

Cả hai cha con quan Đốc học nghe thơ xong tha luôn tội cho Nguyễn Công Trứ, tiểu thư c̣n đỏ ửng má cúi đầu mỉm cười kín đáo.

Dùng thơ cảm ơn

Một ngày trời nắng chang chang có việc phải đi qua ngọn đèo toàn đá, mà đôi chân hàn sĩ Trứ lại… không giày. Vừa may có hai cô gái gánh giầy đi cùng đường thương t́nh cho mượn tạm đôi giầy để đi. Khi đă qua đèo an toàn, chàng học tṛ Trứ liền cởi giầy, hai tay nâng lên ngang mày trả cho hai cô và xin phép đọc bài thơ “cây nhà lá vườn” gọi là cám ơn:

Lật đật qua đèo nóng nực(15) thay,
Hai cô thương đến lại cho giày.
Ơn này biết lấy chi mà giả,
Xin quỳ hai gối, chống hai tay!
Nghe nói, chàng học tṛ hiền lành vừa xong câu cuối, hai cô hàng giầy mặt đă đỏ nhừ như say nắng và… ù té chạy!

Dùng thơ khuyên giải

Một lần có chị nhà quê mất mấn(16)! Ṛng ră đứng chửi đă hai ngày liền, chị ta doạ sẽ chửi đủ tám ngày nữa mới thôi làm mọi người xung quanh xanh mắt. Đầu xứ Trứ nghe chuyện vừa thương vừa buồn cười, liền làm một bài thơ Nôm khuyên chị ta như sau:

Thằng cha con bợm thật gớm ghê!
Trộm mấn bà đi đă độc hề!
Những chắc ra đi c̣n có bận,
Nào hay mất trộm lấy chi che?
Thương thay lạnh lẽo ba mùa rét,
Tội nhỉ trần truồng một nố tê(17)!
Của mất, người c̣n, c̣n có của,
Thôi thôi đừng chửi, xóm làng chê!

Sau khi nghe bài thơ của Đầu xứ Trứ, chị ta liền thôi không chửi nữa.

phale
20-04-11, 03:00 PM
13. TẾT CỦA HỌC TR̉ NGHÈO

Đă sang tuổi “tam thập nhi lập” mà Nguyễn Công Trứ vẫn là “Bạch diện thư sinh”!
Thêm một Tết lại đến, nhà nghèo không có tiền, nợ đáo hạn chưa biết lấy ǵ để trả, nhưng chàng thư sinh họ Nguyễn vẫn bảo vợ đi chợ sắm sửa ít món ǵ đó gọi là, c̣n tự ḿnh quét dọn, trang trí nhà cửa cho có không khí Tết.
Đầu tiên chàng viết một đôi câu đối Nôm bằng chữ lớn trên tờ giấy đỏ:

Bầu(18) một cái lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái;
Nhà ba gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn(19).

Tiếp đó chàng lại soạn một đôi câu đối bằng chữ Hán:

Tuế phùng Xuân, tân cảnh, tân thiều, tân vũ lộ;
Thời hành Hạ(20), cựu bang, cựu điển, cựu xa thư.

Nghĩa là:

Năm vừa gặp mùa Xuân, cảnh sắc mới, thiều quang mới,
mưa móc mới;
Thời vẫn theo nhà Hạ, nước non xưa, điển chế xưa, sách vở xưa.

Dán xong hai câu đối, chàng lấy đàn ra gảy chơi để vui cửa vui nhà. Mấy người hàng xóm đi ngang qua nghe tiếng đàn, ghé vào nghe và hỏi thăm t́nh h́nh sắm sửa tết nhất của chàng. Đầu xứ Trứ lấy chai rượu con rót mời mọi người rồi chỉ quanh bếp c̣n trống trơn và hóm hỉnh đọc như phân bua:

Tết có cóc ǵ đâu, uống vài be củ tỏi(21);
Nợ c̣n ư*&#ơng ra đó, nói ba chuyện cà riềng(22)!

14. MƠ ƯỚC NGÀY XUÂN

Sáng ngày mùng một Tết, chàng Đầu xứ khoan thai làm lễ cúng Nguyên Đán rồi cùng bạn bè người thân uống một bữa say s*&#ưa, và tức cảnh làm thêm hai câu đối nữa:

Chiều ba mươi công nợ rối Nhâm Th́n,
những muốn mười năm dồn lại một;
Sáng mùng một rượu chè tràn Quư Tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.

Mọi người tấm tắc khen hay, bàn tán một hồi lâu, nhưng cũng có người ngậm ngùi than:

- Nhưng cám cảnh bà con ḿnh lắm, cái mơ ước hăo huyền ấy bao giờ mà có được đây! Ông Đầu xứ làm một câu nào cho khí thế hơn đi!

Đầu xứ Trứ nghiêng đầu nh́n người vừa nói, lẳng lặng lấy thêm tờ giấy đỏ, phóng bút viết luôn:
Chiều ba mươi công nợ tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa;
Sáng mồng một rượu chè tuư luư, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà!

Nhưng muốn co cẳng đạp thầng Bần ra cửa đâu phải dễ, nói chi định bồng ông Phúc vào nhà!
Để đạt được ư nguyện ấy, không thể rong chơi tràn quư tị được. Qua mấy ngày Xuân tạm thời “xả láng” với vài be củ tỏi, ba chuyện cà riềng rồi, chàng Nho sinh Nguyễn Công Trứ lại vừa đi dạy học kiếm tiền độ nhật, vừa kiên tŕ sôi kinh nấu sử*&# quyết trang trả món nợ th*&#ư trái cho phỉ chí tang bồng. Nhưng học th́ học, chàng vẫn không quên tự trào bằng một đôi câu đối ngông nghênh mà ra nước mắt:

Anh em ơi! Đă băm mấy tuổi rồi, khắp Đông Tây Nam Bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác;
Trời đất nhẽ! Quyết một phen nầy nữa, xếp cung kiếm cầm thi vào một túi, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh!

15. Ứ HỰ ANH HÙNG NHỚ CHĂNG

Thuở hàn vi, và cả khi đă công thành danh toại, chức trọng quyền cao, hay khi đă về già cưỡi ḅ ngao du sơn thuỷ, Nguyễn Công Trứ vẫn rất mê ca hát - nhất là hát Phường Vải và Ca Trù.

Gần làng Uy Viễn có làng Cổ Đạm là một phường Ca Trù nổi tiếng vào loại nhất nước, có nhiều đào nương tài giỏi và xinh đẹp, trong số đó có nàng tên là Hiệu Thư. Tương truyền cô đào ấy phong tư diễm lệ, tài hoa xuất chúng, giọng hát tuyệt hay, nhưng tính t́nh có lẽ v́ thế mà kiêu ḱ, chỉ tiếp những vương tôn công tử, những người nổi danh trong chốn. Nguyễn Công Trứ say mê Hiệu Thư, nhưng v́ nhà nghèo, không thể quen thân gần gũi được nên đành “kính nhi viễn chi” mà thôi. Nhân vốn là một tay đàn giỏi có tiếng trong vùng, cậu Nho sinh Trứ liền t́m cách xin vào làm kép cho Hiệu Thư, thường nàng đi hát ở đâu th́ chàng cũng được cắp đàn đi theo.

Một tối nọ gánh Ca Trù Cổ Đạm được mời sang hát ở Vĩnh Yên cách đó khá xa, Hiệu Thư được điều đi phục vụ, và nàng xin ông bầu gánh mời Nguyễn Công Trứ - lúc này vừa đậu Giải nguyên nhưng chưa được triều đ́nh gọi, vẫn là hàn sĩ sống ở quê - đi theo cùng để vừa hoạ đàn vừa đặt lời ca. Trên đường đi, không biết v́ cớ ǵ mà hai người - chàng và nàng - tụt lại sau mọi người, chỉ có một đứa tiểu đồng nhỏ theo hầu. Mải mê nói chuyện, lúc đến giữa cánh đồng rộng, Nguyễn Công Trứ giả vờ sửng sốt v́ phát hiện ra ḿnh đă bỏ quên dây đàn ở nhà, và ngon ngọt nhờ chú tiểu đồng chạy về lấy hộ. Thế rồi… trên cánh đồng lúa giập giờn chỉ c̣n trai tài gái sắc… cũng giập giờn… và…tiếng “Ứ hự” vang lên ḱ diệu, lạ lùng.

Ít ngày sau đêm đó, Giải nguyên Trứ được triệu vào Kinh nhậm chức…
Rồi nhiều năm trôi qua…Nguyễn Công Trứ đă trở thành Tham tri bộ Binh kiêm Tổng đốc Hải An. Một lần, nhân ngày vui ông cho tổ chức cuộc hát xướng tại tư dinh, nhờ các quan sở tại mời các danh ca đến phục vụ. Chẳng ngờ trong số những người được mời đến lại có cả cô đào Hiệu Thư. Khi bước ra tŕnh diễn, ngước mắt trông lên, nhận ra quan Tổng đốc ngồi nghe hát kia chính là chàng kép Trứ ngày nào trên cánh đồng lúa huyện nhà, nàng liền cất giọng:

Giang san một gánh giữa đồng,
Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?

Nghe câu hát, Nguyễn Công Trứ như giật ḿnh bởi một cảm giác vừa nhói đau, vừa ngọt ngào từ đâu đó sâu trong kí ức hiện về. Định thần nh́n lại nàng ca kĩ vừa hát lên câu đó, quan Tổng đốc chợt thảng thốt hỏi:

- Có phải… Hiệu Thư đó không?

Khi cuộc hát tàn, hai người ngồi lại tâm sự, nàng kể cho chàng nghe quăng đời ch́m nổi, phiêu bạt của ḿnh kể từ đêm cánh đồng năm ấy… Khi biết Hiệu Thư vẫn chưa có chồng, quan Tổng đốc liền quyết định cưới nàng làm thiếp.
Ghi lại câu chuyện trên, thi sĩ Nguyễn Công Trứ để lại một bài thơ:

Liếc trông đáng giá mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười,
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết
Hoa tàn song lại nhuỵ c̣n tươi.
Chia đôi duyên nợ, đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười,
V́ chút t́nh duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi.

16. MỞ ĐẦU MỘT T̀NH BẠN TRI KỈ VONG NIÊN

Nguyễn Công Trứ có người bạn vong niên tri âm tri kỉ kém ḿnh đến ba giáp (36 năm) là Nguyễn Quư Tân, thường được gọi là Nghè Tân, cũng là một “hào kiệt” thuộc loại ngang tàng, ngất ngưỡng, thích sống với bầu rượu túi thơ, không ưa chốn quan trường bó buộc, thi đỗ làm quan chưa được bao lâu th́ từ chức để ngao du sơn thuỷ, và cũng để lại rất nhiều giai thoại trong sự ngưỡng mộ của dân gian.

Nguyễn Quư Tân xuất thân trong gia đ́nh Nho gia ḍng dơi ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, thuở nhỏ nổi tiếng “thần đồng”. Bảy tuổi cậu đă làm thơ, nhưng ương bướng nhất định không cho cha chữa thơ ḿnh; 22 tuổi đỗ Cử nhân, 29 tuổi đỗ Tiến sĩ, thường làm thơ văn châm biếm, chế diễu đám quan trường bất tài, tham lam luồn cúi.

Khi Nguyễn Công Trứ về lĩnh chức Tổng đốc Hải An, thường được gọi là Tổng đốc Đông, th́ Nguyễn Quư Tân mới ngoài hai mươi tuổi vừa đậu Tú tài. Nghe tiếng quan Tổng đốc là bậc tài hoa, Nguyễn Quư Tân đă muốn gặp, nhất là khi ông nghe kể chuyện, trong một buổi đàm đạo về thơ ca cụ Trứ đă gọi đùa thơ văn tỉnh Đông là “thơ văn phó cối”, Tú tài Tân lại càng muốn t́m cách gặp mặt để “làm cho rơ mặt anh tài”.

Hồi đó có lệ các quan lĩnh lương bằng thóc, cụ Trứ cũng vừa lĩnh thóc về đang cho gọi người đến đóng cối xay. Nguyễn Quư Tân nghĩ ra một kế và ra ngồi nơi Cổng Cầu trên đường vào dinh Tổng đốc để chờ. Một lúc sau th́ ông phó cối mà quan Tổng đốc thuê đi đến; Tú Tân đón gặp và nằn ń xin được theo làm phó nhỏ, để giúp đỡ và “học hỏi không công”. Vào dinh nhận việc, hai người làm đến trưa th́ ông phó cả ra phố ăn cơm, Nguyễn Quư Tân nhân cơ hội liền đi lên công đường, lúc đó vắng người, thấy một cái sập gụ liền nằm lên đánh giấc. Được một lúc, lính hầu đi ra thấy vậy bèn vào tŕnh quan lớn. Cụ Trứ cho đánh thức dậy và tra hỏi, cậu phó nhỏ lễ phép thưa:

- Bẩm quan, con là học tṛ, v́ thiếu ăn nên theo ông phó đến đây hầu cụ lớn, đói và mệt, lại thấy nhà mát quá, nên nằm mà ngủ quên, xin cụ lớn lượng thứ.

Quan Tổng đốc nh́n kĩ người thanh niên tuấn tú, rồi chỉ con chim cu nuôi trong lồng son treo bên cửa sổ, nói:

- Nếu anh đúng là học tṛ th́ thử làm bài thơ vịnh con chim kia. Không làm được, ta sẽ phạt 30 trượng.

Vừa nh́n sang chiếc lồng, anh học tṛ đă cất giọng đọc ngay:

Cu hời cu hỡi, bảo cu hay:
Cu ở đâu mà cu đến đây?
Đừng cậy lồng son và ống sứ
Có ngày thớt nghiến với dao phay!

Nguyễn Công Trứ vốn là người liên tài, thấy bài thơ tuy có ư hỗn xược và trêu cợt nhưng lại tỏ rơ tác giả là một thanh niên có tài và ngàng tàng rất hợp ư ḿnh, nên chẳng những không tức giận, mà c̣n khen ngợi.
Và từ đó hai người kết bạn thân thiết với nhau.

17. MỪNG CỤ TRỨ SINH CON TRAI

Một lần, nhân dịp phu nhân sinh con trai, Nguyễn Công Trứ mở tiệc mừng, có mời cả Nguyễn Quư Tân, lúc đó đă đỗ Tiến sĩ, đến dự. Khi rượu đă ngà ngà say, Nghè Tân đi vào thư pḥng của chủ nhà, lấy bút đề lên tờ giấy hoa tiên một bài thơ:

Mừng ông sinh được cậu con trai,
Thực giống con nhà, chẳng giống ai!
Mong cho chóng lớn đi ăn cướp,

Nhưng viết được ba câu th́ ông Nghè ngả lưng, ngủ kh́. Nguyễn Công Trứ bước vào, đọc thấy, lay Nghè Tân dậy hỏi:

- Thế nào, ông bảo con trai ta sau này lớn lên đi ăn cướp đấy phỏng?

Nghè Tân tỉnh dậy, dụi mắt viết nốt câu cuối:

Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!

18. THỨ NGHỀ ÁO MŨ

Nguyễn Quư Tân đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri phủ Quốc Oai, nhưng ông chẳng lấy làm thích thú. Chán cảnh quan trường tù túng, Nghè Tân bèn bày một bữa đánh bạc thật to, sau đó bỏ cả ấn tín, bỏ cả quan tước, rời công đường đi ngao du, và tất nhiên như vậy là thường xuyên rơi vào cảnh túng thiếu. Một lần, thương bạn, Nguyễn Công Trứ xin cho Nghè Tân được bổ đi làm Giáo thụ ở B́nh Giang. Có lẽ v́ quá nể quan Tổng đốc nên Nghè Tân miễn cưỡng nhận lời, nhưng vẫn t́m cách “gây sự”: ông sai con trai đem một bức thư cùng mũ áo, cờ biển Tiến sĩ sang dinh cụ Trứ xin cầm lấy chút tiền làm lộ phí. Nguyễn Công Trứ mở thư xem th́ thấy đó là một bài thơ Đường luật, mỗi câu thơ có tên một con vật:

Có nghề mà lại cậy chi(23) nghề,
Nghề thế ai ngờ lại hóa nghê!
Vạn sự bất như, thân cũng hổ
Nhất văn vô hữu, nợ c̣n bê.
Công danh chỉ tổ đồ khoe mă,
Cờ biển c̣n hơn của ướt sề.
Bôn tẩu làm chi cho rách gấu
Thà rằng ngồi đó vuốt râu dê.

Tổng đốc Trứ đọc xong tuy giận nhưng không nói ǵ, chỉ sai người lấy tiền, trả lại mũ áo cờ biển cho cậu con trai Nghè Tân mang về, và gửi kèm thêm bài thơ hoạ nguyên vận, mà số từ chỉ thú vật trong đó c̣n nhiều hơn… những 3 con so với trong bài của Nghè Tân!

Tám vạn ngh́n tư thứ ngỗng nghề
Thứ nghề áo mũ thứ nghề nghê!
Mày râu ngẫm lại ḷng thêm hổ,
Thư kiếm sao đành dạ bỏ bê.
Xanh đỏ rẻ cùi(24) khoe tốt mă
Phong lưu khỉ gió hót đầy sề
Xin đừng giở thói văn chương(25) nữa
Bán chó sao ngoài lại thủ dê?

phale
20-04-11, 03:06 PM
19. “ĐÔI SÂN KHẤU” - MỘT KHÚC CẦM”!

Nguyễn Công Trứ là kẻ rất phong lưu, đào hoa, thích hát xướng, cô đầu, trăng gió, khi c̣n bạch diện thư sinh hay đă đỗ làm quan lẫn lúc về già trí sĩ, vẫn mê rong chơi, hát xướng.
Chuyện kể rằng, một lần Nghè Tân gửi tặng cụ Trứ đôi câu đối:

Giang sơn tóm lấy đôi sân khấu
Văn vũ ra tay một khúc cầm.

Nhận được, mọi người xem xong xúm vào khen rối rít. Đúng là câu chữ nói về cụ Thượng Trứ: nào “giang sơn”, nào “sân khấu”, nào “văn vũ”, nào “khúc cầm” (khúc đàn)... Riêng khổ chủ Nguyễn Công Trứ chỉ lặng im tủm tỉm cười ruồi. Thấy thế, mấy người bạn của cụ lấy làm lạ, họ cố suy nghĩ, và cuối cùng rồi cũng hiểu. Th́ ra “giang sơn” ở đây là từ câu thơ của một đào nương tặng cụ mà ai cũng biết:.

Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ... hự... anh hùng nhớ chăng?

C̣n “tóm lấy đôi sân khấu” đối với “ra tay một khúc cầm” (cầm một khúc!) th́ quả là vừa hay, chuẩn, vừa… nghịch ngợm... Người được nói tới làm sao không cười tủm cho được!

20. XƯỚNG HÁN - HOẠ NÔM

Năm 70 tuổi, Nguyễn Công Trứ làm bài thơ chữ Hán (có lẽ là duy nhất của cụ?) để mời các bạn cùng hoạ nhân dịp “thất thập cổ lai hi”. Rất nhiều người hưởng ứng, trong số đó có những văn tài nổi tiếng như Cao Bá Quát, (xem nguyên văn bài xướng và các bài hoạ ở trang….), nhưng cụ Thượng Trứ lại thích nhất bài của của ông Nghè Nguyễn Quư Tân. Sở dĩ như vậy là v́ trong khi mọi người đều hoạ bằng chữ Hán th́ duy nhất một Nghè Tân viết bằng tiếng Nôm Việt - là thứ tiếng của dân tộc, dân gian mà ông yêu quư và suốt đời dùng - trong cuộc sống hàng ngày, trong thơ và trong những cuộc chơi ca hát.
Sau đây là bản dịch nghĩa bài xướng viết bằng chữ Hán của cụ Uy Viễn:

Hằng ngày ta sẽ cùng chơi đùa với trẻ con
Ta hôm nay không c̣n giống ta ngày xưa nữa
Ta theo thời mà làm con rối mua cười cho thiên hạ
Thấm thoát nay đă đến tuổi cổ lai hi
Cái chân chất không cần trau tria mày mặt nữa
Vẻ tốt tươi đem nhuộm cho râu tóc để làm ǵ
Ta tự lấy làm thẹn chẳng có chút công trạng ǵ
Thôi hăy phó mặc cho núi Hồng hạ lời khen chê.

Và bài hoạ bằng thơ Nôm của Nghè Tân:

Bẩy mươi tuổi tác vẫn nhường ri
Mới biết xưa kia buổi thiếu th́
Rượu tỉnh thơ say hồn Lí Bạch
Trúc cười hoa cợt thú Vương Hi
Giang sơn nắm lại đôi tay khẩu
Văn vơ buông ra một ngón t́
Cùng kiếp phù sinh hay dở sạch
Dẫu ai tiếng thị với lời phi!

Lấy vần Nôm hoạ lại vần chữ Hán là một việc rất khó, v́ đó thực chất là hai ngôn ngữ, một âm vần nhưng ở hai trường nghĩa khác nhau, nhưng ông bạn trẻ Nghè Tân (lúc đó mới 34 tuổi) tài hoa đă tài t́nh chọn được những từ, những ư rất đắt, rất hợp tâm hợp ư của người bạn già: không gợi đến cái thời “làm con rối mua cười cho thiên hạ”, màchỉ nhắc lại “buổi thiếu th́” xưa kia với những thú vui của cầm ḱ, thi tửu; c̣n bây giờ lại vẫn cuộc chơi “ngoài ṿng cương toả”, bất chấp miệng thế gian(26) thị phi hay dở.

21. NGUYỄN CÔNG TRỨ CHÍNH LÀ TÔI!

Năm Thiệu Trị thứ tư 1844, đang làm Tuần vũ An Giang, Nguyễn Công Trứ bị Nguyễn Công Nhàn(27) vu cáo chở thuyền gian, buôn hàng lậu nên bị nhà vua cách hết chức tước, bắt làm lính trơn sung vào đội quân tuần thú ở Quảng Ngăi.
Trên đường từ An Giang đi Quảng Ngăi, không có ngựa xe, ông lính Trứ đi bộ, ḿnh mặc cái áo cộc màu chàm, đầu đội chiếc nón dấu, vai quàng ruột tượng, con dao tu vỏ bằng gỗ cài bên hông. Một hôm, đi đến huyện Tuy Phước th́ trời đă tối, liên hỏi thăm t́m chỗ trú nhờ qua dêm đâu. Nghe giọng nói biết ông lính này là người xứ Nghệ, lại thấy ông già cả thương t́nh nên một người dân sở tại ân cần chỉ cho ông nhà quan Huấn đạo huyện ḿnh và bảo: “Quan là người đồng hương với ông đấy, t́nh ngài hiền và trọng người lắm, ông nên vào chào ngài rồi xin ngủ nhờ luôn cho đỡ vất vả”. Nguyễn Công Trứ nghe lời người dân tốt bụng.
Chủ nhà đúng là vị quan tử tế, nhận ra giọng đồng hương của người lính già lỡ độ đường, quan Huấn bảo người nhà dọn cơm nước mời ăn tươm tất rồi cùng ngồi nói chuyện tự nhiên. Khi được biết người lính vừa từ An Giang ra, quan hỏi:

- Ông ở trong đó chắc có biết quan Tuần vũ Nguyễn Công Trứ?
- Thưa, tôi có biết. Th́ ra quan Huấn cũng có quen biết với quan Tuần vũ?
- Không, chúng tôi không có cái vinh dự đó, nhưng đă được nghe tiếng cụ rất nhiều, v́ cụ cũng là đồng hương với chúng tôi mà! Nào cầm quân đánh giặc, nào khẩn điền, nào thi ca, việc ǵ cụ cũng giỏi, cũng lừng danh khắp nước! Chúng tôi chỉ coi ḿnh như bậc học tṛ của cụ, ai ai cũng ao ước được gặp cụ một lần!

Thấy viên quan Huấn đạo này chân t́nh, lại có ḷng quư mến ḿnh như vậy mà ḿnh không nói thực ra th́ thật không tiện nên người lính già liền nói:

- Thưa… tôi chính là Nguyễn Công Trứ đây ạ!

Quan Huấn kinh ngạc, nh́n kĩ diện mạo người khách rồi liền sụp xuống lạy. Nguyễn Công Trứ vội vàng đỡ dậy, rồi hai người đồng hương t́nh cờ gặp nhau ngồi nói chuyện văn chương, thời thế cho đến tận khuya.

22. LÀM TƯỚNG KHÔNG VINH, LÀM LÍNH KHÔNG NHỤC

Đến Quảng Ngăi, Nguyễn Công Trứ, lúc đó chỉ là một tay lính trơn, thản nhiên vào tŕnh diện quan Tổng đốc sở tại. Vốn v́ trước kia đă có lần chịu ơn Nguyễn Công Trứ nên viên quan đầu tỉnh tiếp đăi ông lính già rất tử tế, thấy t́nh cảnh một người từng là Thượng thư nay thất thế đến mức như vậy th́ tỏ ra rất áy náy, bất yên, muốn cho phép Cụ cởi đồ lính ra, nhưng Nguyễn Công Trứ nói:

- Xin ngài cứ để vậy. Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, th́ nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa v́ nào, có nghĩa vụ đối với địa vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy th́ sao gọi là lính được.
Lúc ấy Nguyễn Công Trứ vừa 65 tuổi. Cái tư cách của con người khi làm Đại tướng chẳng cậy làm vinh mà khi làm lính không lấy làm nhục càng khiến viên quan đầu tỉnh kính phục. Ông tâu vua, xin xét lại vụ án buôn lậu ở An Giang. Quan Án sát Trần Ngọc Đao được lệnh điều tra đầy đủ chi tiết, khi trở về kinh tâu tŕnh lại với vua rằng Nguyễn Công Nhàn đă phạm tội vu cáo; Nhàn bị trị tội nặng và Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhiệm chức Chủ Sự ở Bộ H́nh rồi lại Án Sát Quảng Ngăi, kế đến Thự Phủ Thừa Thiên.

23. BẤT ĐẮC DĨ DỤNG QUƯ ÔNG

Hà Tôn Quyền (1790-1848) quê ở Thanh Oai, Hà Đông, đỗ Tiến sĩ năm 1822, là người nổi tiếng thời bấy giờ về văn tài và học lực, được ba triều vua là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trọng vọng, tác giả của các tập sách Tôn phủ Thi văn tập và Mộng dương thi tập được đương thời lưu hành rộng răi. Tuy hơn Hà Tôn Quyền gần hai chục tuổi, nhưng Nguyễn Công Trứ măi ngoài 40 tuổi mới đậu Giải nguyên, c̣n Hà Tôn Quyền th́ 25 tuổi đă đỗ Tiến sĩ, v́ vậy hai ng*&#ười trở thành bạn đồng liêu, và cũng là bạn văn thơ với nhau. Người ta nói, b́nh thường, hai người vẫn giao du xướng họa cùng nhau, đều có mặt trong Hương B́nh Thi Xă, vẫn vừa phục văn tài, học lực của nhau, nhưng vẫn vừa ngầm đua tài với nhau. Hơn nữa, Nguyễn Công Trứ không ư*&#a Hà Tôn Quyền về chỗ miệng l*&#ưỡi khéo léo, nịnh hót lấy ḷng nhà vua của ông ta.

Nhân một bữa, sau lúc băi triều Hà Tôn Quyền vừa gặp Nguyễn Công Trứ, liền đọc một vế đối hóc hiểm:

Quân tử ố ḱ văn chi Cụ lớn.

Nguyên đây là một câu cổ văn trong sách Trung Dung “Quân tử ố ḱ văn chi trứ”, nghĩa là “Người quân tử ghét lối vănchương loè loẹt bề ngoài” (Trứ tiếng Hán nghĩa là nổi trội, loè loẹt), nhưng ông Quyền lại thay tên “Trứ” thành “Cụ lớn”, vừa tỏ vẻ kính trọng, vừa hóm hỉnh thách đối, nhưng ḱ thực thâm ư của ông ta muốn nói: nhà vua ghét văn chương phù hoa của cụ lớn/Trứ. Nhưng thật bất ngờ đối với Hà Tôn Quyền, không cần phải nghĩ ngợi lâu, Nguyễn Công Trứ đọc liền một câu đối lại:

Thánh nhân bất đắc dĩ dụng Quư ông.

Đây cũng là một câu cổ văn Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền, nghĩa là “Đức Thánh nhân bắt đắc dĩ phải dùng quyền biến”. Nguyễn Công Trứ cũng thật tài t́nh thay tên “Quyền” thành “Quư ông”, cũng vừa lịch sự và vô cùng thâm thuư: nhà vua bất đắc dĩ mới phải dùng ông đấy thôi!

Người đời c̣n tán rằng vế đối của cụ Trứ không chỉ là đ̣n nhằm vào Hà Tôn Quyền, mà c̣n ngụ cả ư chê nhà vua nữa. “Ư tại ngôn ngoại” của câu này là phê phán nhà vua dùng người không đúng, bởi v́ lúc thường th́ nên dùng “kinh”, lúc biến mới phải dùng “quyền”; nay đang thời b́nh trị mà nhà vua dùng “quyền” th́ không phải là đấng minh quân!

24. VỊNH CÂY VÔNG

Nhân đà đối đáp, Nguyễn Công Trứ lại đọc thêm một câu cổ văn nữa:

- Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó ḱ quyền.

Nghĩa là: Cùng,thông, thua, được, trời xanh giao phó quyền hành.

Câu này cũng có chữ “quyền” ở sau cùng, và cũng để thách thức Hà Tôn Quyền đối lại, nhưng Nguyễn Công Trứ c̣n có thâm ư nói rằng Hà Tôn Quyền khéo nịnh nên mới được nhà vua giao phó cho quyền hành.
Không t́m được câu cổ văn nào có chữ “trứ” sau cùng để đối lại, Hà Tôn Quyền đành ấm ức chịu một phen “lấm lưng trắng bụng”, chờ dịp phục thù.
Nhân có con vừa thi đậu Cử nhân, Hà Tôn Quyền mở tiệc ăn mừng, có mời cả Nguyễn Công Trứ cùng dự. Giữa bữa tiệc, mượn hơi rượu, Hà Tôn Quyền chỉ ra cây vông đang nở hoa ngoài sân, ra một đề thơ “Vịnh cây vông” yêu cầu các quan khách cùng vịnh chơi, tất nhiên người mà ông chủ nhắm vào đầu tiên là Cụ Trứ. Để bắt bí, ông ta lại hạn bài thơ phải lấy vần “ông/bông”.
Trong số quan khách không thiếu những người hay chữ, nhiều người đă tham gia cuộc chơi, nhưng rốt cuộc bài của Nguyễn Công Trứ được mọi người công nhận là hay nhất.

VỊNH CÂY VÔNG

Biền, nam, khởi tử chẳng vun trồng
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp
Ruột gan không có, có gai chông.
Ra tài lương đống không nên mặt
Dựa chốn phiên li chút đỡ ḷng.
Đă biết ṇi nào th́ giống nấy
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

Bài thơ đúng là một cái tát vào mặt chủ nhân! Nguyễn Công Trứ vịnh cây vông, nhưng cả tám câu thơ đều nhằm vào công kích ông Quyền. Hai câu luận 5 và câu 6 chỉ rơ Hà Tôn Quyền không phải là lương đống quốc gia mà chỉ là hạng người nương tựa uy thế nhà vua mà thôi. Nhưng đặc biệt nặng đ̣n và hợp cảnh là hai câu kết “Đă biết ṇi nào th́ giống nấy / Khen cho rứa cũng trổ ra bông!”

phale
20-04-11, 03:08 PM
25. TÂM SỰ QUA NHỮNG CÂU CA DAO

Cuộc đời Nguyễn Công Trứ thật lắm phen lên voi xuống chó, mà thật ra không phải ông là người có thực lỗi, chủ yếu là do ḷng ganh ghét và cái nh́n thiển cận của triều đ́nh và người đời, trước hết là của những ông vua đầy nghi kị, hẹp ḥi. Chẳng hạn, năm Minh Mệnh thứ 17, chỉ v́ việc một tên trọng tù vượt ngục, nhà vua hạ chiếu giáng ông bốn cấp, sau được phục ba cấp, rồi vài năm sau lại phải giáng xuống Binh bộ Hữu tham tri và đổi về Kinh. Một hôm ông vào trực trong thành Nội, vua trông thấy, hỏi:

- Khanh thường đi tuần hành các chốn dân gian, có nghe được việc ǵ hay không?

Nguyễn Công Trứ thuận miệng tâu:

- Tâu bệ hạ, thần chỉ nghe những câu da dao, dân ca thường hát ở chốn nhà quê là hay nhất, chẳng hạn như câu này:

Một ngọn đèn chong, hai ngọn đèn chong,
Quốc sĩ vô song là người Hàn Tín,
Anh chẳng thương em, anh đến chi đây,
Tứ bề rồng ấp lấy mây.

Câu ấy tuy ca dao thực, song khi thuật lại, Nguyễn cũng ngụ ư ḿnh là một kẻ có tài như Hàn Tín thuở xưa, và có ư trách nhà vua hay nghi ngờ, rày thăng mai giáng, mà h́nh như không biết như con rồng kia c̣n biết ấp yêu lấy mây.
Lại có chuyện kể rằng, sau một thời gian dài gian truân lặn lội dẹp loạn nơi biên ải, cụ Thượng Trứ lai kinh, nh́n thấy mấy viên quan “bảnh bao nhẵn nhụi” ngựa xe vơng lọng chơi rong trong triều, liền đặt ra mấy câu đồng dao dạy cho trẻ con hát khắp nơi:

Con mèo nằm bếp lo xo,
Ít ăn th́ lại ít lo ít làm.
Con ngựa đi bắc về nam,
Hay ăn th́ lại hay làm hay lo!

26. NGAY L̉NG Ở VỚI NƯỚC NHÀ

Khi cụ Trứ đă về hưu nhưng vẫn được nhân dân hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn nhớ ơn khẩn điền cho họ làng quê, việc làm nên lập sinh từ Cụ rồi rước Cụ từ quê Hà Tĩnh ra chơi. Có một viên Thị vệ thấy thế, bèn bịa đặt mật tâu về Kinh là cụ Trứ đang t́m cách thu phục nhân tâm, có ư mưu đồ làm phản. Nhà vua vội vàng cho triệu cụ vào Kinh để t́m cớ trừ “hậu hoạ”. Tuy nhiên, khi tỉnh táo lại suy xét, triều đ́nh cũng hiểu được rằng đó chỉ là những lời đồn xằng bậy,xấu xa. Tương truyền, lúc cụ đă vượt hàng ngàn dặm đường đất về Kinh, vua Tự Đức vời Cụ vào bệ kiến để Cụ giăi bày tâm sự cho rơ thực hư. Nhân nhà vua hỏi Cụ: “Ở hạt Tiền Hải và Kim Sơn dân t́nh làm ăn thế nào?”, Cụ mới tâu rằng:

- Thưa bệ hạ, dân hai huyện ấy làm ăn rất là vui vẻ, ngày th́ chăm lo cày cấy, tối về đập lúa ca hát, thật đúng là cảnh “Muôn dân trăm họ, thái b́nh âu ca”. Họ thường đặt ra những câu hát đố rất là thú vị để hát đối đáp với nhau.

Nhà vua hỏi:

- Như những câu ǵ, có thể đọc cho trẫm nghe được không?
- Tâu Bệ hạ, chẳng hạn như câu này:

Đem thân cho thế gian ngồi,
Rồi ra lại nói những lời bất trung.

Vua hỏi là cái ǵ, cụ Trứ đáp:

- Tâu Bệ hạ, họ bảo đấy là cái phản.

Tự Đức lại hỏi:

- C̣n câu ǵ hay nữa không?
- Tâu Bệ hạ: c̣n câu này cũng hay lắm:

Ngay ḷng ở với nước nhà,
Người dù không biết trời đà biết cho.

Vua hỏi: Là cái ǵ?

- Tâu Bệ hạ, họ giảng đấy là cái máng nước.

Tự Đức biết ư Cụ ám chỉ việc Cụ bị vu oan và trách triều đ́nh không biết xét việc minh bạch có trước có sau, nên t́m lời an ủi cụ rồi cho cụ trở về nguyên quán ở Hà Tĩnh.

27. TRÊN DƯỚI, TRONG NGOÀI, LỚN BÉ ĐỀU CHÓ CẢ!

Gàn ba chục năm tận tâm lăn lộn chốn quan trường, càng về già càng thấy nhiều, nghe nhiều, người mang chí nam nhi tang bồng năm nào đă mỏi mệt lắm rồi, mấy lần dâng sớ xin nghỉ hưu nhưng vua vẫn không cho. Rồi khi đă qua tuổi thất thập, Cụ lại lần nữa dâng sớ lên vua mới Tự Đức vừa lên ngôi, và lần này th́ được Ngài phê duyệt, được về với chức quan Phủ doăn Thừa Thiên. Ngày “nhận sổ hưu”, với 170 quan tiền được lĩnh, Nguyễn Công Trứ liền rầm rộ tổ chức một bữa tiệc chia tay bạn bè, đồng liêu trên dưới. Gia nhân tấp nập mượn nhà, mua sắm lễ vật, cơm rượu đề huề. Và thật nhiều chó, những 40 con chó đủ loại sắc thể! Các quan khách kéo đến rất đông (nghe nói nhà vua cũng vi hành đi bộ đến dự), ngửi mùi cầy do bàn tay những đầu bếp xứ Nghệ chế biến thơm lừng, chỗ này chỗ kia dậy tiếng trầm trồ to nhỏ: “Ôi, thịt chó, chó, nhiều quá!” Và h́nh như chỉ chợ có vậy, cụ Thượng hưu đứng dậy vuốt râu dơng dạc và khoan thai nói: “Dạ thưa, đúng như vậy đấy ạ, - Cụ đưa tay chỉ quanh khắp lượt, tiếp: đúng là trên dưới, trong ngoài, lớn bé, tất cả đều là chó hết cả ạ!”

28. CHE MIỆNG THẾ GIAN

Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giă kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe ḅ cái kéo, cổ ḅ lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giă những người quen.

Khi đến nhà Hà Tôn Quyền - vị đại thần trước kia đă từng dèm pha gây cho ông nhiều bước thăng trầm lận đận, Nguyễn Công Trứ lấy một cái mo cau, chép một bài thơ buộc vào phía sau đuôi ḅ, che... lại. Thiên hạ xúm lại xem, rúc rích cười khiến họ Hà thêm ṭ ṃ. Nguyễn Công Trứ gạt mọi người và úp sấp mo cau lại. Hà Tôn Quyền đ̣i coi cho ḱ được, sấn lại, lật ngửa tấm mo cau lên. Hoá ra trên mo cau có bài thơ:

Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe ḅ... cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.

Hà Tôn Quyền đỏ ngay mặt, hiểu ra là Nguyễn Công Trứ xỏ ḿnh, “miệng thế gian” hay dèm pha có khác chi miệng họ Hà.
Về hưu nhưng cụ Thượng Trứ không ở lại làng Uy Viễn, mà vào ở một cạnh ngôi chùa trên núi Cảm Sơn, thuộc xă Đại Nại gần tỉnh lị Hà Tĩnh bây giờ, và thường cưỡi ḅ vàng đạc ngựa đi chơi đây đó. Người đời truyền tụng, để diễu và răn dạy những kẻ hay đàm tiếu những chuyện thị phi ganh ghét, cụ viết thơ lên chiếc mo cau rồi buộc sau đít ḅ. Có người c̣n nhớ hai câu sau:

Miệng thế khó đem b*&#ưng nó lại.
Ḷng ḿnh chưa dễ bóc ai coi.

Thiên hạ thấy vậy lại đua nhau bàn tán, kẻ bảo Cụ chán đời, người bảo Cụ ngạo thế; Cụ chỉ ngất ngưởng cười, nghêu ngao thơ, bất tận chơi mà chẳng bận ḷng.*&#

29. GIỄU LỐI VĂN SÁO RỖNG

Một lần Cụ đang cưỡi ḅ rong ruổi chơi theo con đường thiên lí th́ gặp một toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của ḿnh. Cụ cưỡi ḅ đi cùng các thầy một quăng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:

- Lăo nghe các thầy từ năy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. T́nh cờ hôm nọ lăo có nghe lỏm đ*&#ược một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lăo với nhé.

Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:

- Được thôi, cụ cứ đọc đi, có ǵ chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.

Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng ḅ tủm mỉm c*&#ười rồi đọc một mạch:

"Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở x*&#a vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân. Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại ḅ vàng chi liếm lá!..."(28).
Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ư lạ; nhưng b́nh giải cho rơ ràng cụ thể th́ các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại cho ḅ ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quăng đường cứ bàn luận măi mà vẫn không ai hiểu nghĩa ư đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng được nghe tới…

30. PHONG LƯU ĐÁO LĂO THẾ GIAN VÔ

Nghỉ hưu rồi, về quê, Cụ Trứ nhờ nhân dân giúp đỡ, dựng một ngôi nhà lá rất nhỏ cạnh chùa Cảm Sơn dưới chân núi Đại Nài, cách lị sở tỉnh Hà Tĩnh chừng vài dặm. Thường cưỡi ḅ vàng đạc ngựa cùng cô vợ trẻ (hầu non) vừa mới cưới, cô này cũng là ca kĩ, đi ngao du và ca hát. Có lần ông gọi cả gánh ca trù đến hát ngay giữa sân chùa. Vị sư trụ tŕ tại đây sợ quá, bèn t́m đến nhờ quan Bố chính Hà Tĩnh lúc đó là Hoàng Nho Nhă can thiệp giúp. Hoàng bèn đích thân đến xem, từ xa nghe lời ca trong tiếng đàn réo rắt:

…Đạc ngựa ḅ vàng đeo ngất ngưởng,
Ḱa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi ǵ,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

Quan Bố chánh cũng say sưa với thơ hay, đào đẹp, giọng ngọt, đàn êm, quay lại bảo với nhà sư trụ tŕ:

- Thôi đừng can thiệp vào thú vui của Cụ, mà có muốn ta cũng không can thiệp được đâu!

Nghe kể, cuối buổi, Hoàng Nho Nhă làm tặng cụ Trứ đôi câu đối rất hay:

Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu,
Phong lưu đáo lăo thế gian vô!

Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn c̣n, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) th́ thế gian không có!

phale
20-04-11, 03:25 PM
31. CÀNG GIÀ CÀNG DẺO CÀNG DAI!

Trong thời gian trú tại Núi Nài, hát xướng, ngao du cùng bạn bè, khi tuổi đă ngoại thất tuần, Nguyễn Công Trứ gặp một cô gái mười bảy tuổi. Như có duyên trời định, hai người - một lăo già tóc bạc và một thiếu nữ má hồng - đă đem ḷng yêu nhau và gắn bó. Cụ Thượng Trứ hỏi nàng làm thiếp, và nàng đă đồng ư làm lễ cưới. Trong đêm hợp hôn, Cụ cùng nàng bày rượu, đập trống hát ca trù và sáng tác một bài hát nói ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng: và cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, thuộc một đôi câu.

Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Ḱa kia người mái tuyết đă phau phau,
Run rẩy kẻ đào tơ c̣n mảnh khảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường…

Và có lẽ cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, không thuộc hai câu sau đây:

Tân nhân nhược vấn lang niên kỉ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
(Nếu thiếp mới hỏi chàng bao tuổi,
Năm mươi năm trước hai mươi ba!)

Và Cụ kết thúc khúc hát bằng một tuyên bố… xanh rờn:

Xưa nay mấy kẻ đa t́nh,
Lăo Trần là một với ḿnh là hai.
Càng già càng dẻo càng dai!

32. NHỮNG Đ̉N TRỪNG PHẠT BẰNG CHỮ NGHĨA

Làm quan, Nguyễn Công Trứ được dân chúng cảm phục, quư mến nhưng cũng bị không ít kẻ ghen ghét, hăm hại, khiến cụ đă bao phen lên voi xuống chó. Nhưng là một văn nhân nhân văn, những ân oán đó cụ không trả bằng những mưu mô thảm độc, máu chảy đầu rơi, mà chỉ bằng trí tuệ sắc sảo, bằng lời nói thâm thuư đôi khi cay độc - những đ̣n trừng phạt bằng chữ nghĩa nhiều khi c̣n đau hơn hoạn, có khi c̣n hơn cả án tử h́nh!
Sau đây là một vài câu chuyện:

Với quan tỉnh Bắc Ninh

Tương truyền, một trong những người đă từng vu khống Nguyễn Công Trứ là quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm, và Nguyễn Công Trứ đă trừng phạt như sau:

Trong một bữa tiệc có quan Tổng đốc Bắc Ninh cùng dự, khi chén rượu đă ngà ngà, đáp lời mọi người mời mọc, thúc dục kể chuyện vui, cụ Trứ nói:

- Thư*&#a các quan, cách đây mấy năm, khi đương làm quan ở đất Bắc, nhân đi hành hạt tại huyện lị Nam Sách gặp một đứa bé con mới lên bảy tám tuổi mà thông minh linh lợi khác thường, tôi liền ra cho nó một vế đối Nôm: Lời vàng quan tỉnh Bắc Ninh. Không ngờ, chẳngcần phải nghĩ ngợi lâu, nó ứng khẩu*&# đối luôn: Cửa ngọc bà huyện Nam Sách. Chà,“Lời vàng” đối với “cửa ngọc”, “quan tỉnh” đối với “bà huyện”, “Bắc Ninh” đối với “Nam Sách” th́ c̣n chê làm sao được! Tôi liền thưởng cho nó một quan tiền.

Nghe chuyện, các quan đều pha ra cười, chỉ có quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm th́ đỏ mặt tía tai, cố ngồi nín thinh cho qua bữa tiệc.

Với Quan phủ Thạch Hà

Quan phủ Thạch Hà, Hà Tĩnh, cũng có mối ân oán chi đó với cụ Trứ nên có lần chịu đ̣n đau của cụ. Trong một bữa tiệc, khi các các quan đă ăn uống say sưa rồi, cụ Trứ kể chuyện:

- Ở phủ Thạch Hà đất Hà Tĩnh quê tôi có một đứa bé thần đồng. Nó ứng đối tài t́nh không thể tưởng. Một lần t́nh cờ gặp nó, tôi đọc mau một câu thật dài để thách nó đối, thế mà nó đối hay và nhanh hơn cả người lớn mới tài chứ. Câu tôi đọc là thế này:

- Chống chơi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa ḍng sông ngăn đá.

Nó tiếp lời tôi mà đối ngay như sau :

- Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng(29).

Các quan khách trong tiệc ôm bụng cười nghiêng ngửa vô tư, chỉ riêng quan Tri phủ Thạch Hà th́ nửa cười nửa mếu lấm lét nh́n quanh.

Với Lang trung bộ Lễ

Trong một bữa tiệc khác, mũi dùi châm biếm của cụ chĩa vào một viên Lang trung cũng có mặt trong tiệc. Thoạt đầu, Cụ hỏi:

- Thưa các quan bác, các quan bác có biết “Lang trung” là gi không?

Đánh hơi thấy sắp được nghe một câu chuyện ǵ đó thú vị, cả bàn gần như đồng thanh hô:

- Thưa không ạ, Cụ kể đi ạ!

- Vâng, vậy th́ tôi xin kể chuyện “Ai ta hề Lang trung” để các quan bác biết nhé. Ấy là vào cái thời làm quan ở Bắc ḱ, tôi có biết một ông người Hoa khá giàu và có ba vợ, họ ở chung với nhau và thương yêu, chiều chuộng nhau như bát nước đầy. Chẳng may, ông chồng mang bệnh nặng không cứu chữa được. Khi đức lang quân vừa tắt thở, người vợ lớn liền nhào tới ôm lấy đầu chồng than khóc nức nở, lặp đi lặp lại “Ai ta hề lang thủ”, nghĩa là:“Ôi thương cái đầu của chàng!”

Người vợ thứ hai chạy lại ôm chặt lấy hai chân của chồng mà khóc thảm thiết: “Ai ta hề lang túc”, nghĩa là: “Ôi thương cặp chân của chàng!”

C̣n người vợ thứ ba thấy thế vội chen vào giữa hai chị, cầm lấy “cái ấy” của cố phu quân mà khóc than kể lể: “Ai ta hề lang trung! Ai ta hề lang trung!”, nghĩa là: “Ôi thương cái… của chàng!”. Đấy, “Lang trung” là thế…
Lời kể chưa dứt, đám tiệc đă trở nên nhốn nháo với những tiếng cười hô hố, ha há, hi hí… Duy chỉ có một người không cười nổi, mà cũng không biết làm sau giấu đi bộ mặt của ḿnh: đó là viên Lang trung bộ Lễ trước kia đă có hành động bất nhă với cụ Trứ.

33. “ÂN OÁN GIANG HỒ” VỚI TỈNH THẦN HÀ TĨNH

Tương truyền, có lần các quan tỉnh thần Hà Tĩnh mật tấu vu cáo Nguyễn Công Trứ lên vua Tự Đức, v́ thế cụ rất hận, thường t́m cách thừa dịp dạy cho các quan tỉnh Hà Tĩnh những bài học đích đáng. Sau đây là hai trong số nhiều câu chuyện được truyền tụng trong dân gian.

1. Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), lúc đó Nguyễn Công Trứ về hưu dưỡng đă được gần nột năm, các quan tỉnh Hà Tĩnh tổ chức lễ cúng “Xuân thủ”, là lễ cúng đầu mùa xuân hàng năm. Tham dự lễ cúng, ngoài các quan viên tại chức, các hưu quan trong tỉnh cũng được mời, tất nhiên trong đó có cụ Thượng Trứ. Sau khi hành lễ là một bữa tiệc rượu khoản đăi các quan viên văn vơ tân cựu trong tỉnh.

Vào bàn tiệc, v́ có mặt cụ Trứ nên ai nấy có vẻ e dè, không dám phách lối khoe khoang như mọi khi, lỡ cụ châm chọc cho giữa công chúng th́ mất mặt. Thấy không khí trên tiệc buồn tẻ, Cụ Trứ mới lấy tư cách người cao niên mời quan khách nói chuyện tự nhiên. Nhưng các quan vẫn chẳng có ai dám nói trước. Quan Bố chánh chủ tiệc đành phải đứng lên thưa:
- Xin mời Cụ lớn Thượng thư*&# nói trước, chúng tôi hậu sinh, không dám thất lễ.
Cụ Trứ mỉm cười, và bắt đầu nói:
- Đa tạ các quan có nhă ư cho lăo nói trước, lăo xin kể hầu mọi người vài câu chuyện vui vậy. Mà chuyện cũng xảy ra cách đây hơn mười năm rồi…
Các quan hoan hỉ:
- Xin mời cụ, xin cụ cho nghe ạ.
Cụ Thương Trứ vuốt râu, mỉn cười, thong thả kể:
- Chả là hồi đó lăo c̣n làm Tổng đốc Hải Yên, một hôm đi đường gặp một đứa bé chừng mười tuổi mà trông lanh lợi vô cùng. Đoán nó là một học tṛ thông minh, lăo liền ra cho nó một câu đối: Ở Hà Tĩnh sông lặng nhờ gió lặng(30). Nó ứng khẩu đối ngay: Tại Hải Yên bể yên bởi sóng yên(31).
Lăo tiếp tục đọc: Quan tỉnh Hà Tĩnh mở miệng hay: lời lời châu ngọc. Nó đối liền: Bà tổng Hải Yên giấu của kín: hàng hàng gấm thêu(32).
Lăo lại ra một câu đối bằng tục ngữ: Ăn một đọi, nói một lời, đừng học thói tam tiên tam tổ. Nó cũng đối ngay bằng tục ngữ: Của ba loài, ngư*&#ời ba đấng, kể chi phường bát đảo bát điên(33).
Lăo phục nó lắm, đọc một câu ngạn ngữ khác: Ném đất giấu tay, ghê những kẻ mặt người dạ thú. Nó đối liền bằng một câu ngạn ngữ: Phun người ngậm máu, sá chi ph*&#ường miệng Phật ḷng xà(34).
Các quan trong tiệc ngồi nghe, có người xuưt xoa khen thằng bé giỏi, nhưng cũng có người tái mặt, cúi đầu.

2. Vào dịp tiết Trung Nguyên (rằm tháng bảy), quan Bố chính Hà Tĩnh truyền cho quan huyện Nghi xuân t́m thuê một chiếc thuyền rộng răi để đêm rằm các quan xuống Bến Thủy hóng mát, chơi tổ tôm và hát cô đầu. Chẳng may cụ Nguyễn Công Trứ biết được tin ấy, bèn đi t́m người lái thuyền đă nhận lời cho các quan thuê thuyền. Anh lái trả lời:

- Thưa cụ, con đă lỡ nhận lời ông lí trưởng mất rồi ạ.
- Không sao, lăo không cần thuê cả thuyền đâu. Lăo chỉ cần thuê cái mui thuyền đủ để ngồi hóng mát là được. Tôi sẽ trả cho anh một quan tiền.
Anh lái thuyền bằng ḷng. Trước khi đêm xuống, cụ Trứ mặc bộ áo quần vải thô nhuộm nâu như một ông lăo nhà quê bước xuống thuyền, trao cho anh lái một quan tiền rồi ra ngồi trước mui thuyền hóng mát. Lát sau, xe ngựa của các quan tỉnh, quan huyện lục tục kéo đến cùng đoàn đào kép hát cô đầu. Mọi người lần lư*&#ợt xuống thuyền, chèo chính giữa ḍng sông Lam thơ mộng thả neo và bắt đầu cuộc vui chơi, đánh bài, đần hát. Không ai để ư đến ông lăo nhà quê ngồi một ḿnh đầu mui thuyền. Được một lúc, cụ lân la bắt chuyện với anh chèo mui:
- Anh được mấy con rồi? Đă có cháu nào lớn chưa?
- Thưa cụ, con được ba cháu rồi ạ. Chúng nó đều c̣n nhỏ dại cả. Vợ cháu lại gần ngày sinh nữa.
- Vợ gần ngày sinh, th́ phải xa vợ nhá.
- Dạ. Nhưng đôi lúc v́ thương vợ, nên cũng phải gần ạ.
Ông lăo bất chợt cao giọng quát:
- Bậy! Vợ gần ngày sinh mà lại gần vợ th́ chẳng là thằng trong bú… thằng ngoài à!
Các quan trong thuyền đang say s*&#ưa chơi tổ tôm chợt nghe từ bên ngoài mui thuyền vẳng tới “thằng trong bú… thằng ngoài”, th́ đều dỏng tai nghe ngóng. Sinh nghi bởi câu nói khiếm nhă như vậy, quan đầu tỉnh ra hiệu cho quan huyện ra ngoài xem xét t́nh h́nh ra sao? Quan huyện bước ra, nh́n kĩ ông già đang ngồi quay lưng hóng mát trên mui, liền nín thinh trở vào tŕnh quan Bố chính: “Chính Cụ Thượng Trứ đă nói câu ấy, Cụ đang ngồi ở ngoài mui thuyền một ḿnh”.
Quan Bố chính nói nhỏ:
- Mặc Cụ, chúng ḿnh cứ tiếp tục chơi, làm như*&# không nghe ǵ, không biết Cụ ấy đang ngồi ngoài ấy.
Lát sau, ngoài mui Cụ Trứ lại cất giọng hỏi anh chèo:
- Sao anh không hát đi cho vui?
- Dạ, con không biết truyện hay nên không hát ạ.
- Anh có muốn nghe tôi đọc Kiều không?
- Dạ, thưa có.
Cu Trứ cất giọng ngâm nga văng vẳng: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Nghe giọng ngâm Kiều vọng vào, quan Bố chính thật sự chột dạ, liền ra lệnh cho thuyền cập bến, “để các quan về, kẻo đêm đă khuya, ngọn gió biển đă thổi mạnh”.

phale
20-04-11, 03:26 PM
34. BÀI HỌC CHO QUAN HUYỆN HÁCH DỊCH

Một viên quan trẻ tuổi và rất hách dịch được bổ về làm Tri huyện Nghi Xuân. Tuy cũng đă từng nghe tiếng Cụ Thượng Trứ nhưng chưa hề gặp và có lẽ cũng cao ngạo hay sơ suất ǵ đó mà anh ta không tới yết kiến Cụ như các quan khác thường làm. Vừa tới huyện lị được vài ba ngày, tân quan đă quyết định đi hành hạt, sức cho hàng huyện biết ngày giờ nào quan sẽ tới xă, thôn nào để biết mà nghinh tiếp rầm rộ.
Nghe dân t́nh bàn tán thấy chướng tai, Cụ Trứ bèn vai vác cuốc tay dắt ḅ đến cho ăn cỏ trên con đường mà quan huyện sắp đi qua. Một lát sau đoàn xe ngựa, vơng lọng tân quan đi đến, tên lính lệ đi trước dẹp đường, lớn tiếng hô:

- Ai nấy phải tránh về một bên để quan lớn đi hành hạt.

Cụ Trứ giả vờ không nghe, cứ chăm chăm cuốc, rồi lại ngồi bệt xuống đường cái nhặt cỏ. Đám lính khiêng vơng quan đến tận nơi mà Cụ Trứ vẫn lom khom làm việc. Quan tức ḿnh nhảy xuống vơng, lớn tiếng quát:

- Hay cho lăo già nhà quê vô lễ! Ngạo mạn!

Rồi giựt phắt cái cuốc trong tay cụ Trứ, ném xuống con sông Lam trong xanh, rồi truyền bắt ông già phải thay một người lính vơng quan đi, c̣n con ḅ th́ cho dắt theo.

Cụ Trứ lẳng lặng ghé vai khiêng vơng đi trước, c̣n quan huyện nằm trên vơng ra dáng bệ vệ, hả hê. Vừa đi được chừng mươi thước th́ đoàn người gặp một anh đồ Nho người cùng huyện Nghi Xuân. Trông thấy Cụ Trứ, anh đồ hốt hoảng chạy tới chắp tay chào hỏi:
- Bẩm, lạy cụ lớn! Sao Cụ lớn lại phải khiêng vơng như thế ạ?
Cụ Trứ chưa kịp trả lời, quan huyện đă giật ḿnh, nhảy ngay xuống đất, lắp bắp hỏi anh đồ Nho:
- Cụ già nầy là ai?
- Tŕnh quan, đây là cụ Binh bộ Thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng, uy tín và phẩm tước lớn nhất trong tỉnh Hà Tĩnh ạ!
Bấy giờ quan huyện mới như người mắc bệnh kinh phong, run lẩy bẩy chắp hai tay lạy Cụ Trứ như tế sao:
- Bẩm lạy cụ lớn! V́ con mới đến nhận chức ở quư huyện, chưa có dịp yết kiến nên chưa được biết Cụ lớn. Nay con trót đă phạm tội lỗi nặng nề đối với cụ lớn. Trăm lạy Cụ lớn mở lương khoan hồng, con nguyện xin suốt đời làm tôi tớ Cụ lớn. Xin Cụ lớn tha tội cho con.
- Tôi bắt tội, bắt t́nh quan huyện làm chi? Quan huyện bắt tôi khiêng quan từ đâu đến đây, th́ bây giờ quan phải khiêng tôi từ đây tới đó, thế là công bằng. C̣n cái cuốc của tôi, quan quăng đi, th́ quan t́m mà trả lại cho tôi, thế là xong việc.
- Con xin khiêng Cụ lớn tới nơi Cụ lớn cuốc cỏ khi hồi. C̣n cái cuốc, con trót quăng xuống sông cái, nước sâu quá con không thể lặn xuống t́m được, con xin mua cái mới tốt hơn đền cho Cụ lớn ạ.
- Không được! Hơn ba năm nay, với cái cuốc xấu xí, cũ kĩ ấy, tôi đă cuốc cỏ cho ḅ ăn, và cuốc rau má cho tôi cùng người nhà tôi ăn, t́nh nghĩa giữa tôi và cái cuốc sâu đậm biết chừng nào! Người ta ở đời, - Cụ Trứ nói tiếp, - có ǵ đáng quư bằng t́nh nghĩa hay không? Nay quan ỷ thế nhiều tiền nhiều bạc, vứt cuốc tôi xuống sông, để rồi mua cái khác đền lại. Tiền bạc th́ quan có thể bồi thường được, c̣n t́nh nghĩa giữa tôi và cái cuốc th́ có thể lấy tiền bạc mà bồi thường được không?
- Bẩm lạy Cụ lớn! Con lỡ làm một việc tội lỗi tày trời đối với Cụ lớn, bây giờ con hối hận lắm. Rất mong Cụ lớn thương hại con là đứa hậu sanh có khác nào đứa con út của Cụ lớn.
- Đành rằng quan không biết tôi là Nguyễn Công Trứ, nhưng quan vẫn thấy tôi là người già nua, tóc bạc đó thôi. Cái chức Thượng thư của tôi là thân ngoại chi vật(35),quan muốn biết hay không muốn biết, là tuỳ ư quan. Nhưng cái đầu bạc trắng của một người gần tám mươi tuổi, th́ mọi người trông thấy, không có lí ǵ mà quan không thấy? Đối với tôi mà quan c̣n hách dịch đến thế, thử hỏi đối với những người dân đen thấp cổ bé họng th́ quan sẽ tác oai tác quái đến độ nào? Nay, nêu tôi dung thứ cho quan, th́ vô t́nh tôi đă “trợ Kiệt vi ngược”(36). Vậy nên tôi sẽ tŕnh báo minh bạch lên Đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển tŕnh về bộ Lại và triều đ́nh xét xử, để làm gương cho những quan lại xấu xa quen hiếp đáp lương dân vô tội.
Nghe nói, quan huyện càng tái mặt, ấp úng không nên nửa lời.
Cụ Trứ nói tiếp:
- Bây giờ quan hăy khiêng tôi trở lại nơi tôi đang cuốc cỏ khi hồi.
Quan huyện cúc cung ghé vai vơng Cụ Thượng Trứ đi trở lại nơi cũ, trước những con mắt hiếu ḱ của nhân dân địa phương. C̣n con ḅ của Cụ Trứ vẫn được người lính lệ dắt đi theo. Tới nơi, Cụ bảo dừng vơng lại, thung dung bước xuống đất, nh́n con ḅ bị đói cỏ, rồi nói:
- Quan huyện đă làm xong một việc rồi, bây giờ c̣n một việc nữa là t́m cái cuốc của tôi cho ḱ được, - đoạn Cụ lấy tay chỉ xuống sông Lam.
Quan huyện chắp hai tay vái dài, khóc nức nở không c̣n biết xấu hổ, thể diện nữa. Bấy giờ, Cụ Thượng Trứ mới nghiêm nghị nói:
Thôi được, tôi tha cho ông một lần!
Quan huyện được một bài học chắc là nhớ đời.

35. BÀI HỌC CHO QUAN ÁN SÁT HỐNG HÁCH

Câu chuyện này dài, dài hơn một giai thoại b́nh thường, nhưng v́ rất có ư nghĩa và rất thực nên cũng xin chép lại cho đủ, cho hết.
Mùa xuân năm Đinh Tị (1857), cụ Trứ 79 tuổi, như lệ thường lại cưỡi ḅ vàng đạc ngựa đi từ núi Cảm Sơn (Thạch Hà) về làng Uy Viễn chánh quán để bái yết từ đường họ Nguyễn, quăng đường độ năm chục cây số. Ra đi từ lúc trời vừa sáng, măi đến xế chiều Cụ mới đến gần khúc đường rẽ vào làng ḿnh. Thương con ḅ vàng đói và mệt, Cụ dừng lại nghỉ, dắt cho ăn cỏ dọc theo con đường cái quan (tức là quốc lộ 1A bây giờ, quăng Gia Lách gần Bến Thuỷ). Được một lúc, bỗng thấy một đoàn người đông đảo, mang cờ, lọng, trống, chiêng và bát âm cùng vơng, cáng, tiền hô hậu ủng đi tới. Th́ ra đó là đám rước quan tân Án sát Nghệ An(37) về nhiệm sở. Đi đầu đám rước, một viên cai cầm loa hô lớn:
- Hỡi mọi người khách đi đường phải tránh về một bên, để cho đám rước quan lớn rộng đường đi.
Nghe tiếng loa, Cụ Trứ tỏ vẻ sợ hăi, hai tay nắm lấy sợi dây thừng, kéo con ḅ từ bên này đường sang bên kia đường cái quan.
Viên cai lại hét loa lần nữa, Cụ Trứ luưnh quưnh, lại nắm lấy dây kéo con ḅ từ bên kia đường qua bên này đường. Cứ thế, theo tiếng loa, con ḅ bị kéo đi, kéo lại mấy lần qua mặt đường cái quan.
Viên Cai chạy tới trừng mắt hỏi Cụ Trứ:
- Tại sao ông già cứ dắt ḅ chạy qua chạy lại măi trên đường như thế? Có phải ông cố ư cản trở đường đi của quan lớn hay không?
Ông già dắt ḅ lập cập thưa:
- Dạ bẩm, tôi già lại điếc, nên không nghe được rơ ràng. Tôi đă dắt ḅ về một bên đường rồi, lại c̣n nghe kêu gọi nữa, nên tôi tưởng phải dắt ḅ qua bên khác mới khỏi mang tội ạ.
Viên cai nổi cáu nắm chặt tay ông già kéo sang bên đường, tức th́ cụ Trứ ngă lăn ra đất, chỏng bốn vó lên trời, miệng kêu la rên rỉ, tay vẫn nắm chặt sợi dây con ḅ đứng chặn ngang đường cái. Vừa lúc đó vơng quan Án sát tới nơi, viên Cai bèn tŕnh lại sự việc và xin cách giải quyết với cụ già. Nghe xong, quan Án sát lên giọng quát lớn:
- Tên già này thật to gan, cần phải trừng trị gắt gao để làm gương cho những kẻ vô lễ khác. - Và quan truyền: - Nay ta truyền cho ngươi cứ thi hành nghiêm chỉnh phận sự dẹp đường. Và truyền cho hai tên lính theo hầu ta phải dẫn giải tên già ngạo mạn kia sang dinh Án sát Nghệ An, ta sẽ chiếu luật xét xử đích đáng để răn những kẻ điền phu dă tốt khác ỷ nhiều tuổi mà làm càn, làm bậy, khinh khi phẩm tước triều đ́nh…
Lập tức, hai người lính tới khiêng ông già đặt sang vệ đường cho đám rước tiếp tục đi, rồi họ khuyên ông ngồi dậy cùng đi với họ sang dinh Án sát Nghệ An. “Nếu ông ngoan ngoăn, sẽ được tha mau”. Cụ Trứ ngồi dậy nói:
- Tôi thân già, sức yếu, nhà lại nghèo, chỉ trông cậy vào con ḅ này mới sống qua ngày. Tôi có đi đâu ra khỏi nhà cũng là nhờ nó chở đi, chứ hai chân tôi bước không nổi nữa. Nay hai ông đă phải áp giải tôi, th́ tôi yêu cầu hai ông cũng áp giải luôn con ḅ nữa, v́ mất nó th́ tôi chết, rời nó th́ tôi bước không được, bởi hai đầu gối tôi đă long từ lâu ngày rồi.
Thế là hai người lính - một người đi trước và một người đi sau - cùng ông già cưỡi con ḅ vàng về tỉnh Nghệ An.
Đến nơi th́ trời đă tối, hai người lính không biết làm thế nào để canh giữ Cụ Trứ và con ḅ, bèn tạm gửi Cụ vào nhà lao tỉnh Nghệ An. Sáng hôm sau, khi hai người lính vào nhà lao dẫn ông già và con ḅ ra th́ vừa thấy quan Án sát đang đi về phía dinh Tổng đốc(38) để yết kiến quan Thủ hiến. Nh́n thấy quan Án, ông già quay sang nói với hai người lính: - Nhờ hai ông coi dùm con ḅ cho tôi, để tôi chạy theo quan Án, hoạ may quan xét xử gấp cho tôi.
Thế là trên đường, quan Án đi trước, không hề biết có ông già đang lẽo đẽo chạy theo sau. Lúc đó quan Tổng đốc Vơ Trọng B́nh đang đứng trên tam cấp dinh nh́n ra, quan Án vừa vào tới sân đă cúi đầu chào mấy cái, nhưng không thấy quan trên đáp lễ, v́ đang chăm chú nh́n ông già bước thấp bước cao đi sau lưng quan Án. Khi quan Án bước lên tam cấp khom người vái chào, th́ thấy quan Tổng đốc dường như không để ư đến ḿnh mà chạy vội xuống sân. Quay nh́n lại, quan Án đă thấy quan Tổng đốc hai tay d́u ông già lên thềm và đưa vào pḥng khách, rồi lễ độ và ân cần thưa chuyện:
- Mấy lâu nay tiểu đệ hằng trông mong Cụ lớn qua chơi để hàn huyên tâm sự. Nhưng càng trông lại càng bặt tin. Tiểu đệ có gửi thư, cũng không được Cụ lớn phúc đáp. V́ vậy mà tiểu đệ rất lo ngại về sức khoẻ của Cụ lớn. Hôm nay Cụ lớn qua đây, sao lại đi vào giờ nầy, mà không cho tiểu đệ biết trước, để sai người đi đón rước?
Quan Án cũng vừa theo vào pḥng khách, nghe thấy thế mặt tái xạm, đang đứng khép nép một bên không dám lên tiếng.
Ông già đáp:
- Thưa tôn huynh, thực ra cũng đă mấy lần lăo đệ định qua thăm tôn huynh để ḥng ôn lại bao nhiêu câu chuyện cũ, nhưng gia bần thân lăo, lại thêm nay đau mai ốm, cứ lẩn quẩn măi không đi được, rất mong tôn huynh lượng t́nh miễn chấp. Hôm qua lăo đệ cưỡi ḅ về thăm quê và từ đường, đến khúc đường gần rẽ vào làng Uy Viễn, thấy ḅ đói quá, lăo đệ dừng lại dắt ḅ ăn cỏ dọc theo thiên lí lộ. Gặp đám rước quan ngài đây đi qua, lăo đệ già cả không biết đường tránh nên phạm lỗi, được quan truyền áp giải lăo đệ qua đây. Cũng may, nếu không có việc này có lẽ lăo đệ chưa có dịp qua thăm tôn huynh được, biết ngày nào mới tái ngộ nhau?
- Cụ lớn bị áp giải qua đây! Như vậy, suốt cả đêm qua, Cụ lớn nghỉ ngơi ở đâu? Ăn uống thế nào? Và được đối đăi ra sao?
- Đêm qua lăo đệ tạm trú tại lao xá quư tỉnh, chưa ăn ǵ từ chiều qua đến giờ.
Vơ Trọng B́nh đỏ mặt, quay sang quan Án sát trừng mắt nói:
- Quan Án có hay biết cụ già đây là ai không? Đây là Binh bộ Thượng thư trí sĩ Nguyễn Công Trứ, một vị danh sĩ và trọng thần của triều đ́nh. Chẳng những hàng Đốc phủ như chúng tôi phải tôn trọng, kính nhường Cụ, mà đến đức Hoàng thượng cũng quư mến và ưu đăi Cụ nữa. Nay quan Án được lệnh trên hoán bổ tới đây, chưa đạp chân lên đất Nghệ An mà đă ngang nhiên hành hạ một vị lương lăo thần vào tuổi thúc phụ, xâm phạm đến danh vọng và thể xác của người. Hành động của quan Án như vậy quả thật không xứng đáng là một vị Đường quan cầm cán cân công lí giữa tỉnh hạt Nghệ An nầy xưa nay vốn là một trọng trấn trong nước. Nay tôi không dám nhận một vị quan cao cấp trông coi h́nh ngục và án tiết tỉnh Nghệ An lại là người hách dịch như thế. Tôi xin giao hoàn quan Án “Lai kinh hậu cứu” về tội vô cớ hành hung một vị công thần của nhà nước.
Quan Án sát tái mặt, vái lạy quan Tổng đốc và “kẻ điền phu dă tốt" như tế sao, không thốt được lời nào. Tổng đốc Vơ Trọng B́nh khoát tay:
- Quan Án đừng vái nữa mà hèn người. Việc quan làm, quan phải chịu. Quan hăy trở về dinh Án sửa soạn hành lí để trở về kinh đô!
Cụ Trứ thấy cảnh ấy lại bắt đầu thấy áy náy:
- Thưa quan lớn Tổng đốc An Tĩnh, tôi xin có lời này. Quan Án đây quả đă có những sở hành quá đáng đối với tôi, một người có tuổi vô tội, lại là một trọng thần, nên quan lớn tức giận mà xử như thế là hợp lẽ. Nhưng xét cho kĩ, quan Án không biết tôi là ai, nên có thể châm chước vài phần. Theo tôi, quan lớn nên v́ tuổi già của tôi mà tha cho quan Án, chỉ mong trong thời gian trấn nhậm ở đây, quan Án hăy v́ con dân Nghệ An mà xử sự đúng mực là phước lắm rồi.
Nghe Cụ Trứ nói vậy, quan Án sát mừng như chết đuối vớ được cọc, vội vái tạ, nói theo:
- Cụ lớn dạy chí phải. Tôi c̣n gia đ́nh, c̣n bầy con, xin quan lớn xét lại. Về đây chưa ấm hơi mà đă lai kinh hậu cứu, coi như đường công danh của tôi tới đây đă hết. Xin quan lớn rộng ḷng dung thứ. Ơn ấy tôi xin ghi tâm khắc cốt.
Quan Án cũng được một bài học chắc là nhớ đời.

36. LÀM CÂY THÔNG ĐỨNG GIỮA TRỜI

Cụ Thượng Uy Viễn Nguyễn Công Trứ ngang tàng, coi đời như một cuộc chơi thú vị theo ư ngông của ḿnh cho đến tận lúc chết, và cả chết Cụ cũng ngông như vừa nói ở trên. Thế nhưng, cái ngông, cái ngạo của Cụ không dừng lại ở kiếp này, mà c̣n sang cả kiếp sau nữa.
Tương truyền, vào phút lâm chung, cụ Trứ dặn con cháu trước mộ ḿnh chỉ trồng một cây thông xanh mà thôi. Và bài thơ Cụ để lại sau đây cũng có thể coi là lời di chúc của Cụ với đời: kiếp người, dù có tài, có sang, có chơi đến như Cụ vẫn có những lúc buồn tênh, vẫn đầy những nhộn nhạo, khóc cười; và Cụ hẹn một cuộc chơi khác:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!
Nhưng dù thế, Cụ vẫn không muốn ḿnh đơn độc, vẫn muốn t́m bạn, để có người tri kỉ, cùng chơi. Cụ gửi lại lời mời đầy thách thức:
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét th́ trèo với thông!
Nhân vật chết, hết giai thoại!
Nhưng vẫn c̣n một điều cuối cùng chúng tôi muốn chép lại, là lời băn khoăn buồn của những hậu duệ trông coi và hương khói nhà thờ Cụ Trứ: họ đă nhiều lần trồng thông xanh bên mộ Cụ đúng theo di chúc, nhưng thông không sống được - quê Cụ toàn đất cát. Đất nghèo(39).
Đất này cây khó sống, nhưng người vẫn phải sống. Mà lại sống kiêu sa, ngang tàng.
Nghịch lí chăng?
Đông Tây, 17/11/2008
Huyền Li


(1) Hầu hết các sách đều ghi thân sinh của Nguyễn Công Trứ là Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, nhưng theo Chu Trọng Huyến trong Nguyễn Công Trứ, con người và sự nghiệp, Nxb. KHXH, 1995, tr. 11-12, th́ tên đúng của cụ phải là Nguyễn Tần, sinh năm 1720, đỗ Giải nguyên năm 20 tuổi, mất năm 1800, thọ 80 tuổi, chỉ có một con trai. C̣n theo Lê Thước và nhiều nhà nghiên cứu khác, cụ thọ 84 tuổi (tức là sinh năm 1716, đỗ Hương giải năm 1739, lúc 24 tuổi, mất năm 1800), có nghĩa là năm Nguyễn Công Trứ ra đời cụ đă 62 tuổi, và có tất cả 3 con trai và 3 con gái (xem: Lê Thước. Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội 1928, tr. 6-7). Có một câu hỏi đặt ra là chẳng lẽ cụ đậu Hương giải rất sớm (năm 20 hoặc 24 tuổi), rồi được bổ làm Giáo thụ phủ Anh Sơn, mà măi 38 năm sau, lúc sinh Nguyễn Công Trứ, cụ vẫn là Tri huyện (huyện Quỳnh Côi)?
(2) Giáo sư Chương Thâu kể, ông c̣n nhớ thuở nhỏ thường nghe bà nội hát ru bài vè về đám ma cố Lớn (tức cụ Nguyễn Công Trứ) như sau: Nhất vui là đám cố Lớn, Dận bựa Mười bốn, Mắc cơn mưa rào, Hoăn lại bựa sau, Trời yên bể lặng…”. …(cố: cụ; dận: đưa tang; bựa: bữa, ngày; mắc: gặp…(tiếng địa phương).
(3) Nguyễn Công Trứ đọc theo giọng Nghệ, câu này dịch ra tiếng phổ thông là:
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đă sướng chưa?
Trong tiếng Nghệ, “chữ” đọc là trự; “trự” vừa có nghĩa là “chữ nghĩa”, vừa có nghĩa là “đồng tiền” (trự tiền); Quan vừa có nghĩa là “quan tiền” (một quan là 100 đồng/trự), vừa có nghĩa “quan chức”. Câu của cậu Củng có thể hiểu theo hai nghĩa: 1, tưởng đánh chơi dăm ba đồng, nào ngờ mất đến cả quan; 2, học ba chữ chơi chơi mà cũng được làm quan, sướng chưa?
(4) Giai thoại về câu đối này phổ biến ở nhiều địa phương với nhiều nhân vật khác nhau, như Cao Bá Quát, Lê Công Hành,Nguyễn Bá Lân...
(5) Người Nghệ gọi ông đầu rau là ông núc bếp; câu này c̣n có ư diễu cợt: khách khứa ǵ mà lại xông (núc) vào bếp nhà người ta!
(6) Trai chay: Trai giới và chay tịnh. Tiếng Nghệ chữ “vại” (vật bằng sành dùng để đựng cà) và “văi” (ni cô) đều đọc như nhau, nên câu này c̣n có ư trêu chọc: Người / nơi trai chay sao lại có (bà) văi cà (động từ: áp sát, cọ xát) ông sư?
(7) Cái hay là kệ đối với kinh. Mặc kệ là bất chấp. Câu này có ư nói làm sư đi tu là không giữ trọn đạo quân thần phụ tử, dầu có đọc hết kinh sách cũng không phải là người tốt.
(8) Đầu phủ là người đỗ đầu trong một ḱ khảo hạch tại phủ.
(9) Hai câu này lấy từ hai câu tục ngữ: “Đánh trống trước cửa nhà sấm” và “Mang chiêng đi đánh đất người”, ư nói: tôi đâu dám khoe khoang trước một người tài giỏi như ông, nhưng v́ ông đă muốn thách thức th́ tôi cũng đành thể hiện vậy.
(10) Câu thơ vừa tả thực vừa ẩn dụ đầy khẩu khí. “Ba vạn anh hùng” là ổ rơm (anh hùng rơm!), “Chín lần thiên tử” vừa chỉ nhà vua, vừa chỉ chiếc chiếu (trùng âm với chiếu chỉ của nhà vua, và chiếu chỉ nhà vua thường bắt đầu bằng câu “Cửu trùng thiên tử chiếu”.
(11) Nhà bay: các người; tau: tao; giừ: bây giờ (tiếng địa phương).
(12) Cái tài ở bài thơ này là câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm, nhưng vẫn mang được nghĩa thông thường và tỏ rơ ư tác giả xin khất nợ. Bát văn là tên quân bài vẽ một thân h́nh dài, có vẻ yếu ớt, thường ví như thân học tṛ; Bán chi là tên quân bài, vừa có nghĩa là bán (cái, vật) ǵ; Không thang là tên quân bài, vừa có nghĩa là không có thang (để leo lên trời); Lục sách là tên quân bài, vừa có nghĩa lục t́m trong sách vở, ư nói c̣n chờ học hành đỗ đạt; Nhất văn là tên quân bài, vừa có nghĩa là vừa nghe (lấy ư trong câu Nhất văn thiên tử chiếu, tứ hải trạng nguyên tâm, nghĩa là Vừa nghe chiếu vua (mở khoa thi), bốn biển đă nức ḷng muốn chiếm trạng nguyên); câu này c̣n có ư: khi tôi đỗ đạt rồi chẳng thiếu tiền; Tam vạn là tên quân bài, lại vừa có nghĩa là ba vạn ngày con người sống ở đời (trong khoảng trăm năm); Nhất sách là tên quân bài, vừa có nghĩa là một mưu kế ǵ; Ông lăo cũng là tên quân bài, lại vừa có nghĩa ông lăo chủ nợ...
(13) Câu này có bản chép Dần dần ngoài cửa mới đưa vô. Câu này kết hợp với những câu cuối bài tạo thành ư rất hóm hỉnh, nghịch ngợm.
(14) Chừng mô: chừng nào (tiếng địa phương).
(15) Có người c̣n đọc là “nắng cực”.
(16) Mấn: váy (tiếng địa phương).
(17) Nố tê: cái kia (tiếng địa phương).
(18) Bầu: bầu rượu. Bầu lăn chiêng là v́ không có rượu. “Chiêng” đối với “trống” ở câu dưới, thật chỉnh.
(19) Ngày xưa, câu đối Tết dán nhà cửa thường có Ngũ phúc lâm môn / Tam dương khai thái. Ngũ phúc lâm môn (năm điều phúc vào cửa) là: Thọ (sống lâu); phú (giàu sang); khang ninh (b́nh an, khỏe mạnh); du hiếu đức (ham làm việc phước đức); khảo chung mệnh (sống trọn tuổi Trời cho). Tam dương khai thái: theo Kinh Dịch, ba hào dương (ba vạch liền) mở ra quẻ Thái tượng trưng cho mùa xuân tốt lành.
(20) Thời hành Hạ: lấy ư từ câu cổ văn: “Hành Hạ chi thời, phục Chu chi miện...”, nghĩa là “Thời tiết th́ theo nhà Hạ, mũ miện th́ theo nhà Chu”.
(21) Be củ tỏi: ve (chai) nhỏ, có h́nh củ tỏi, cổ dài, thân tṛn, người xưa thường dùng đựng rượu.
(22) Chuyện cà riềng: chuyện con cà, con kê. Lưu ư: cà riềng đối với củ tỏi rất chỉnh.
(23) Chi: con chi chi.
(24) Câu thành ngữ này c̣n đọc là “(tốt mă) dẻ cùi” - dẻ cùi là một loài chim.
(25) Con văn chương: c̣n gọi là con học tṛ.
(26) Về hưu, cụ Thượng Trứ thường cưỡi cỗ xe ḅ cái với tấm mo cau “Che miệng thế gian”.
(27)Nguyễn Công Nhàn (1789 - 1872), quê ở Phú Hoà, Phú Yên, làm quan dưới ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, từng giữ chức Tổng đốc, Thống chế, có thời cùng với Nguyễn Công Trứ cầm quân đánh quân Xiêm.
(28) Có dị bản đọc là: “Sông Nhị Hà ba mươi thước nước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hoành Sơn, tưởng đương sơ Thang Vơ chi hưng. Ông loèm ông loẻm ông loem, tổng bất ngoại ḅ vàng chi liếm lá!”.
(29) Về câu đối trong giai thoại này, có người c̣n kể “độc” hơn như sau: Câu của Nguyễn Công Trứ ra là “Chống chỏi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa ḍng sông ngăn đá, nên chi mồm ông phủ Thạch Hà hà!”, c̣n thằng bé đối lại: “Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng, bởi thế đồ bà huyện Kim Động động!”.
(30) Hà là sông, tĩnh là lặng.
(31) Hải là bể, yên là yên.
(32) Miệng hay đối với của kín! Lời lời châu ngọc đối với hàng hàng gấm thêu!
(33) Tam tiên tam tổ đối với bát đảo bát điên.
(34) Mặt người dạ thú đối với miệng Phật ḷng xà.
(35) Thân ngoại chi vật: vật nằm ngoài thân thể.
(36) Trợ Kiệt vi ngược: giúp vua Kiệt làm điều bạo ngược.
(37) Án sát: chức quan coi việc h́nh trong một tỉnh. Viên Án sát nói đến ở đây nguyên làm Án sát Quảng Nam, v́ mang tiếng hách dịch và tham nhũng nên phải đổi ra Nghệ An.
(38) Tổng đốc: chức quan đứng đầu trong một tỉnh (Thủ hiến). Viên Tổng đốc Nghệ An nói đến ở đây là Vơ Trọng B́nh (1807-1898), quê ở Quảng B́nh, đỗ Tiến sĩ, ít tuổi hơn Cụ Trứ và về hưu sau, cũng là vị quan thanh liêm nên hai người kính trọng nhau đă lâu.
(39) Chi tiết dựa theo bài viết Suy nghĩ trước mộ một nhà thơ của Song Ân, báo Văn nghệ số 48, tháng 11/1994.