PDA

View Full Version : Trở Về Từ Cơi Sáng - Giám Mục Charles Leadbeater (Dịch giả: Nguyên Phong)


phale
28-10-11, 09:00 AM
Chương 1

Bên kia cửa tử

Lời dịch giả:

Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetan Book of the Death) viết về đời sống sau khi chết. Cuốn sách nầy đă được nhiều người nghiên cứu và phiên dịch nhưng v́ nó quá hàm súc, khó hiểu nên một số học giả đă rút tỉa vài đoạn trong đó, khai triển rộng ra để an ủi những người đang đau khổ v́ cảnh tử biệt. Phần dưới đây trích trong cuốn "To Those Who Mourn" của Giám mục Charles Leadbeater, một nhà thần học nổi tiếng của thế kỷ 20.

Bạn thân mến,
Tử thần vừa cướp mất của bạn một người mà bạn yêu quư nhất đời. Đối với bạn hiện nay đời sống bổng trở nên trống rỗng vô vị, và có lẽ không c̣n lư do ǵ để sống nữa. Cuộc đời từ nay chỉ c̣n là những chuỗi ngày dài đăng đẳng, đầy tẻ nhạt chán chường. Hạnh phúc đă mất sẽ không bao giờ trở lại, những cử chỉ âu yếm, những câu nói yêu đương dường như đă ch́m lặn trong màn sương ngăn cách hai thế giới. Có lẽ bạn đang nghĩ về bạn, về sự mất mát không thể văn hồi vừa xảy ra, nhưng có thể bạn c̣n đang nghĩ không biết người bạn thương yêu đang lâm vào t́nh trạng nào? Tuy bạn biết người đó đă đi xa rồi, đi mất rồi nhưng bạn không biết là đi đâu, số phận người đó như thế nào? Bạn cầu mong người đó sẽ gặp được những sự b́nh an, tốt đẹp nhưng rồi bạn lại thấy vẫn c̣n một cái ǵ không ổn v́ không ai có thể giải thích cho bạn một cách thỏa đáng về ư nghĩa của đời sống cũng như cái chết. Giáp mặt trước sự kiện nầy, bạn đâm ra hoảng hốt, và đời sống đối với bạn bỗng trở nên một gánh nặng không thể gánh vác một ḿnh được nữa.

Nầy bạn, tâm trạng của bạn là một tâm trạng tự nhiên và thành thật. Tôi ước mong có thể chia sẻ với bạn về sự mất mát lớn lao nầy bằng sự giúp đỡ chân thành của tôi. Dĩ nhiên bạn nghĩ rằng: Làm sao tôi có thể an ủi bạn được! Làm sao một người như tôi có thể hiểu được nỗi đau khổ vô vàn của bạn kia chứ! Nhưng bạn hỡi, sự buồn rầu đau khổ của bạn đă xây dựng trên một hiểu lầm. Thưa vâng, một hiểu lầm tai hại và tôi mong khi hiểu rơ được điều nầy th́ có lẽ bạn sẽ bớt đau khổ hơn. Tôi muốn tŕnh bày cho bạn một quan điểm khác với quan niệm thông thường như sau.

Nầy bạn, sự đau khổ của bạn chỉ là một ảo giác rất lớn do sự thiếu hiểu biết về những định luật thiên nhiên, hay nói một cách khác, là đời sống bên kia cửa tử. Nếu bạn có một sự hiểu biết đúng đắn về sự kiện nầy th́ có lẽ bạn sẽ không c̣n đau khổ nữa. Người phương Đông, nhất là người Tây Tạng, đă nghiên cứu về nó qua nhiều thế kỷ và ngày nay khoa học cũng bắt đầu chứng minh được rằng "có một đời sống sau khi chết". Cửa tử không là một sự bí mật nữa v́ cái thế giới bên kia, cái thế giới đầy bí mật đó đă không c̣n bí mật nữa. Cái thế giới đó thật sự hiện hữu, là một thế tương tự như thế giới hiện nay của chúng ta và dĩ nhiên cũng chịu sự chi phối của những định luật trong vũ trụ, tương tự như những định luật mà chúng ta đă biết. Tôi sẽ giải thích rơ rệt một vài nguyên tắc căn bản mà dĩ nhiên bạn có thể khảo sát thêm, nếu bạn muốn. Trước hết, tôi mong bạn hăy ngưng than khóc v́ sự đau thương của bạn chỉ làm hại cho người mà bạn thương mến chứ không giúp được ǵ cho người đó đâu! Một khi bạn hiểu rơ điều mà tôi sắp tŕnh bày th́ có lẽ bạn cũng sẽ đống ư như vậy.

Có thể bạn cho rằng điều tôi sắp tŕnh bày chỉ là những lời an ủi hay những dự đoán mơ hồ mà thôi. Nhưng tôi muốn hỏi bạn, sự đau khổ và suy nghĩ của bạn hiện nay đă được xây dựng trên nền tảng nào? Phải chăng bạn tin tưởng như vậy v́ một vài người trong giáo hội của chúng ta đă dạy như thế, hoặc căn cứ trên một vài quyển sách, hoặc là sự tin tưởng của đa số người trong thời đại nầy rằng chết là hết, là thiên thu cách biệt, là vĩnh viễn chia tay? Nếu bạn suy nghĩ thật kỹ mà không bị các thành kiến chi phối, th́ bạn sẽ thấy rằng quan niệm đó cũng chỉ là một dự đoán mơ hồ mà thôi.

Nếu đọc kỹ Thánh Kinh, bạn sẽ thấy một sự thật rằng, theo thời gian, đă có nhiều cách giải thích Kinh Thánh khác nhau. Cái quan niệm rằng chết là hết, là chấm dứt vĩnh viễn đă căn cứ trên sự hiểu biết nào? Được xây dựng từ thời đại nào? Quan niệm Thiên Đàng và Địa Ngục có từ lúc nào? Phải chăng đó cũng chỉ là những quan niệm như trăm ngàn quan niệm khác? Phải chăng v́ đă được nhiều người tin tưởng nên người ta đ ành chấp nhận mà không đ̣i hỏi một sự giải thích nào? Nhưng sống và chết là một vấn đề trọng đại, liên quan mật thiết đến đời sống hiện nay. V́ lẽ đó, chúng ta không thể chấp nhận nó một cách dễ dăi được. Đây là một vấn đề lớn, đ̣i hỏi một sự nghiên cứu hết sức đích đáng và phân tích thật cẩn thận. Tôi không đ̣i hỏi bạn tin tưởng một cách mù quáng đâu. Tôi chỉ muốn tŕnh bày những ǵ mà chính tôi biết là có thật, dựa theo kinh nghiệm của tôi và của những bậc thầy phương Đông mà tôi đă có cơ hội gặp gỡ và học hỏi. Tôi mời bạn cùng quan sát nó.

Trước hết chúng ta hăy t́m hiểu về sự cấu tạo con người. Khoa học đă cho chúng ta biết khá rơ về thể chất con người cũng như các hoạt động sinh lư, tâm lư nhưng vẫn c̣n một yếu tố khác mà khoa học chưa thể chứng minh, đó là cái mà người ta gọi là linh hồn. Đây là một danh từ không chính xác lắm nhưng tôi không muốn đi vào những định nghĩa. Đă từ lâu, các tôn giáo lớn đều đă đề cập một cách mơ hồ rằng con người có một cái ǵ trường tồn gọi là linh hồn và cái nầy vẫn hiện hữu sau khi thể xác chết đi. Tôi thấy không cần thiết phải dẫn chứng bằng kinh sách hay lư thuyết về sự hiện hữu của linh hồn, cũng như không cần phải dài ḍng về các hiện tượng như đầu thai, thần đồng, người chết sống lại kể về thế giới bên kia, v́ đă có nhiều sách vở đề cập đến nó rồi. Tôi chỉ mong bạn vững tin rắng linh hồn vốn có thật và đó là một chân lư đúng đắn. Con người là một linh hồn và có thể xác. Thể xác không phải là con người. Nó chỉ là y phục của con người mà thôi. Điều mà chúng ta gọi là sự chết chỉ là sự cởi đi một chiếc áo cũ, đó không phải là một sự chấm dứt. Khi bạn thay đổi y phục, bạn đâu hề thấy ḿnh, bạn chỉ bỏ đi cái áo mà bạn đang mặc đó thôi. Cái áo có thể được cất vào tủ, mang đi giặt ủi hoặc vứt bỏ, nhưng người mặt nó chắc chắn vẫn c̣n. Do đó phải chăng khi thương yêu người ấy chứ đâu phải thương yên chiếc áo của người ấy?

Trước khi bạn có thể hiểu được t́nh trạng của người mà bạn thương yêu, bạn cần phải hiểu rơ t́nh trạng của chính bạn đă. Bạn là một linh hồn bất tử, bất tử v́ tinh hoa của bạn vốn có tính chất thiêng liêng, bởi v́ bạn là một phần của một đại thể cao cả hơn nhiều. Bạn đă từng sống trong nhiều thế kỷ. Trườc khi mặc bộ quần áo nầy, bộ quần áo mà hiện nay bạn gọi là xác thân, th́ bạn đă từng mặc những bộ quần áo khác, và bạn sẽ c̣n mặc nhiều bộ quần áo khác nữa trong tương lai, khi bộ quần áo hiên tại đă tan thành tro bụi. Kinh thánh đă nói: "Thượng Đế sinh ra con người từ h́nh ảnh bất diệt của ngài". Đây không phải là một giả thuyết hay một sự tin tưởng nào mà có bằng chứng hẳn hoi. Điều bạn cho là một đời thật ra chỉ là một ngày nhỏ trong một kiếp sống kéo dài vĩnh viễn thiên thu và điều nầy cũng xảy ra cho người bạn yêu. Tóm lại, người bạn yêu thương không hề chết, không hề mất đi, mà chỉ cởi bỏ bộ áo của họ mà thôi.

Bạn đừng tưởng người chết chỉ như một luồng hơi, không có h́nh dáng chi cả hoặc thua kém lúc c̣n sống về một điểm nào đó. Cách đây nhiều thế kỷ, Thánh Paul đă nói: "Có một cái thể vật chất và có một cái thể tinh thần". Nhiều người đă hiểu lầm mà cho rằng những thể đó nối tiếp nhau chứ không hiểu rằng chúng ta đều có cả hai thể đó trong cùng một lúc. Thưa vâng, cái thể vật chất đó chính là cái xác thân mà bạn đang thấy, và cái thể tinh thần kia chính là cái mà bạn không thấy và thường được gọi bằng danh từ "linh hồn". Khi bạn bỏ xác th́ bạn giữ lại cái thể tinh thần kia.

Nếu bạn đồng ư, hay tạm thời đồng ư về quan niệm nầy th́ chúng ta có thể đi xa hơn. Nếu bạn biết rằng chẳng phải khi chết bạn mới cởi bỏ "bộ áo" đó mà ngay khi ngủ bạn cũng tạm thời cởi bỏ nó và đi vẩn vơ trong một cởi giới khác trong cái thế tinh thần của bạn. Dĩ nhiên khi tỉnh dậy th́ bạn lại mặc vào bộ áo thể xác đó trong khi người chết th́ không c̣n mặc lại bộ áo đó được nữa. V́ sự cấu tạo và rung động nguyên tử của hai cơi vốn khác nhau nên cơi nào chỉ có thể nh́n được cơi đó mà thôi. Đôi khi tỉnh vậy, bạn mơ hồ như ḿnh có thấy một cái ǵ đó, dĩ nhiên nó đă bị thay đổi rất nhiều bởi sự sắp xếp lại qua kư ức và bạn gọi điều nầy là chiêm bao.

Hiện nay có nhiều quan niệm về đời sống sau khi chết. Một số dựa trên những tin tưởng có từ thời Trung Cổ, như sự trừng phạt đời đời kiếp kiếp trong cảnh địa ngục chẳn hạn. Dĩ nhiên ngày nay không mấy ai c̣n tin như vậy nữa, nhưng trước đây vài thế kỷ, nó là cả một sự đe dọa khủng khiếp. Những điều nầy đă được một số giáo sĩ lúc đó lợi dụng triệt để. V́ quyền lợi riêng, họ đă biến cải những giáo lư đầy nhân từ bác ái của đức Jesus thành một thứ "pháp luật" khắt khe tàn ác để đe dọa những người hiền lành dốt nát. Theo đ à tiến bộ của thế giới, người ta hiểu rằng cái quan niệm đó không những vô lư, xúc phạm đến danh dự của giáo hội, đến giáo lư cáo đẹp của đấng Cứu Thế, mà c̣n buồn cười nữa. Nếu bạn hiểu rằng một số tu sĩ chỉ v́ nóng lóng muốn củng cố quyền lợi cũng như quyền lực đă cố t́nh giảng giải một cách sai lạc khiến các chân kư giản dị cao đẹp trở nên phức tạp, khó hiểu. Họ đă dựa vào những tín điều phi lư, vô căn cứ mà nói rằng thế giới nầy được cai trị bởi một đấng thần linh không muốn ai làm trái ư ḿnh. Họ đă du nhập những điều nầy từ nền tảng của đạo Do Thái thượng cổ, trong khi đáng lẽ ra họ phải biết rơ về sự dạy bảo đầy minh triết của đức Chúa là "Thượng Đế là một đức Cha giàu long thương mến". Người nào hiểu được sự thực căn bản là "Thượng Đế vốn nhân từ vá bác ái, vũ trụ của ngài được điều khiển bởi những định luật thiên nhiên, công b́nh và bất biến" th́ ắt phải hiểu rằng thế giới bên kia cửa tử cũng phải tuân theo những định luật như vậy chứ không thể khác được.

Đáng tiếc là một điều hiển nhiên và rơ ráng như vậy mà đến nay vẫn dường như mơ hồ. Vẫn có những người tiếp tục nói với chúng ta về một thiên quốc rất xa, về những ngày phán xét rất ghê gớm, về những sự trừng phạt đời đời kiếp kiếp, c̣n chuyện xảy ra hiện nay th́ ít khi đề cập đến. Một số tu sĩ tránh né không đề cập ǵ đến kinh nghiệm thật sự của họ, đến sự tin tưởng của họ, mà chỉ nói đi nói lại điều mà họ nghe người khác nói, những tin tưởng mơ hồ, vô lư xuất phát từ thời Trung Cổ. Dĩ nhiên tôi tin rằng chúng ta không thể thỏa măn với những quan niệm lỗi thời đó được.

Tôi tin rằng thời kỳ tin tưởng một cách mù quáng đó đă qua rồi. Chúng ta đang sống ở thời kỳ khoa học và không chấp nhận những ư tưởng vu vơ, hoàn toàn trái với lư thuyết khoa học cũng như trái ngược với những lời dạy bảo đầy bác ái, nhân từ và sáng suốt của đấng Cứu Thế. Chúng ta là những linh hồn đang sống trong cơi vật chất và chỉ biết đến những sự kiện liên quan đến cơi vật chất nầy mà thôi. Tất cà mọi sự hiểu biết của chúng ta đều dựa trên những giác quan của thể xác. Nhưng các giác quan nầy th́ bất toàn. Thí dụ như chúng ta có thể thấy được những vật thuộc thể lỏng hay thể rắn nhưng lại không thể thấy được thể hơi mặc dù chúng ta biết rằng thể hơi hiện hữu. Hiển nhiên nếu có những thể khác thanh nhẹ hơn thể hơi th́ làm sao chúng ta có thể thấy được? Tóm lại, v́ giác quan của chúng ta bất toàn mà chúng ta không thấy được một số dữ kiện, tuy nhiên chúng ta không thể kết luận v́ không thấy được mà chúng không hiện hữu. Người phương Đông đă ư thức được điều nầy từ lâu qua các công phu tu luyện đặc biệt mà nhiều người cho là phi thường.

Thật ra nguyên lư của nó rất giản dị. Người nào biết rèn luyện tinh thần, biết cách phát triển những khả năng tinh thần, biết cách phát triển những khả năng tinh thần, phát triển các "giác quan" của tinh thần th́ họ sẽ có các quyền năng về tinh thần. Nếu bạn biết rằng thể tinh thần cũng giống như thể vật chất (thể xác), đều có những giác quan riêng biệt th́ bạn sẽ hiểu điều tôi nói. Nếu thể xác có thị giác th́ thể tinh thần cũng có một thị giác tương tự, nhưng đây là một thứ thị giác đặc biệt, có thể nh́n thấy những cái mà nhăn quan của thể xác không nh́n thấy được. Người Tây Tạng gọi quyền năng nầy là Thần nhăn hay con mắt thứ ba (Third eyes). Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rơ rằng, thể tin thần có những giác quan tương ứng với những giác quan của thể xác nhưng bao trùm một giới hạn bao la, rộng răi hơn nhiều. Các danh sư Tây Tạng gọi đó là các năng khiếu mà con người có thể sử dụng được nếu họ biết cách chủ trị tinh thần, khai triển các giác quan nầy. Dĩ nhiên những người đă khai mở những quyền năng đó có thể ư thức được nhiều điều mà người ta không thể biết được.

Chính nhờ khai mở được các giác quan đặc biệt nầy mà các danh sư Tây Tạng đă nghiên cứu về đời sống ở cơi giới bên kia, cơi giới mà chúng ta thường gọi là "cơi chết" hay "bên kia cửa tử". Họ xác định rằng chết không phải là sự chấm dứt của kiếp sống mà chỉ là một bước, đi từ giai đoạn sống nầy qua giai đoạn sống khác. Xác phục vụ tinh thần và là một phương tiện liên lạc (communicate) với cơi trần. Nếu không có xác thân th́ phần tinh thần không thể liên lạc với cơi trần được và dĩ nhiên không thể ảnh hưởng hoặc thọ lănh ảnh hưởng của nó. Cơi trần là một trường học hết sức quan trọng để linh hồn học hỏi, kinh nghiệm, và những điều học hỏi đều được lưu trữ trong kư ức tâm linh, một thứ kư ức vô giới hạn. Chỉ riêng ở cơi trần người ta mới có thể thực sự học hỏi và áp dụng hay thực hành những điều đă học. Ở những cơi giới khác, v́ sự cấu tạo của nguyên tử quá thanh, quá nhẹ nên việc học hỏi chỉ có tính cách lư thuyết chứ không thể thực hành được.

Điều chúng ta cần biết là những người mà ta cho rằng đă chết thực ra không hề chết, không hề xa ĺa chúng ta. V́ một lư do mơ hồ mà người ta tin rằng chết là chấm dứt, là chia ly, sau đó linh hồn hoặc được lên thiên đ àng hặoc xuống địa ngục rồi ở đó vĩnh viễn. Tác động của Thượng Đế chắc chắn vô cùng huyền diệu, nhiều khi chúng ta không thể hiểu được nhưng không bao giờ trái ngược với các định luật thiên nhiên. Khi một người cởi bộ áo choàng ra th́ họ vẫn đứng ở chỗ cũ chứ nào có thể biến mất được. H́nh dáng của họ thay đổi phần nào nhưng chắc chắn họ không thể phúc chốc biến ra người khác được. V́ thể xác đă bỏ lại nên bạn không c̣n thấy người đó nữa mà chỉ thấy cái thể xác bất động nằm đó thôi. Nhưng điều nầy không có nghĩa là người bạn yêu thương đă đi xa rồi.
Khoa học đă chứng minh rằng mắt của chúng ta chỉ đáp ứng được với một số rung động tối thiểu trong vũ trụ. Nếu sử dụng các dụng cụ tinh vi hơn, người ta có thể nh́n thấy như tia hồng ngoại, tia tử ngoại.v.v..Nếu bạn tin rằng các giác quan của thể xác đă giúp bạn cảm nhận được những vật chất cấu tạo bằng nguyên tử của cơi hồng thần th́ các giác quan của thể tin thần cũng sẽ giúp bạn cảm xúc được các nguyên tử cấu tạo bởi cơi đó. Nhờ xúc giác, chúng ta có thể sờ mó các vật chất của cơi trần th́ một thứ xúc giác đặc biệt của thể tinh thần cũng giúp chúng ta sờ mó được các vật chất cấu tạo bởi nguyên tử cơi nầy. Bạn đừng nghĩ rằng cơi tinh thần đó nằm ở đâu xa xôi, thực ra nó và cơi trần nầy ở cùng một chỗ, chiếm cùng một vị trí trong không gian và thời gian, nhưng v́ cấu tạo bởi các nguyên tử khác nhau nên người ta không cảm thấy nhận được nó đó thôi. Quy tắc của điều mà khoa học gọi là "chiều không gian" (dimension) hiển nhiên đă vén lên một phần của sự bí mật nầy. Dĩ nhiên ngoài cơi tinh thần c̣n nhiều cơi giới khác nữa nhưng điều đó không quan hệ đến chúng ta hiện nay.

Tóm lại, người mà bạn tưởng đă đi xa rồi thật ra vẫn ở bên cạnh bạn và có thể đứng sát kề vai với bạn nữa kia. Dĩ nhiên bạn c̣n mặc một tấm áo choàng dầy, c̣n người kia th́ đă cởi bỏ chiếc áo đó rồi, do đó bạn không c̣n nh́n thấy người ấy nữa nhưng người ấy vẫn nh́n thấy bạn v́ sự rung động của các nguyên tử của cơi kia thanh nhẹ hơn nên có thể nh́n thấy được nhiều hơn.

Trong khi ngủ, khi bạn tạm thời cởi bỏ bộ áo vật chất nầy ra th́ bạn và người đó có thể tiếp xúc với nhau dễ dàng. V́ đa số mọi người thiếu sự chuẩn bị và công phu hàm dưỡng tinh thần nên vẫn luôn luôn có một khoảng cách giữa tri thức của thể xác và thể tinh thần, do đó họ không thể nhớ lại được việc làm của thể tinh thần trong giấc ngủ. Hiển nhiên nếu chúng ta có thể nhớ trọn vẹn th́ sự chết đâu c̣n nữa. Một số đạo sư phương Đông đă tập luyện được công phu ǵn giữ cái trí nhớ liên tục nầy mà giao tiếp với cơi tinh thần trong giấc ngủ hoặc khi hành thiền. Dĩ nhiên đôi lúc cũng có người nhớ lại vài chi tiết trong lúc ngủ nhưng họ thường kết luận đó là chuyện chiêm bao vô giá trị. Một người biết đoán điềm giải mộng có thể nói cho họ biết nhiều điều lư thú mà họ không ngờ.

Đối với những người có thân quyến vừa ĺa đời, nếu họ ngủ được một giấc thoải mái th́ khi tỉnh dậy họ đều có cảm giác an tĩnh, phúc lạc như vừa được gần người thương yêu. Điều nầy không lạ v́ hiển nhiên họ đă tiếp xúc được với người thân trong giấc ngủ. Nếu bạn biết rằng cơi trần của chúng ta là cơi thấp, và cơi bên kia cửa tử vốn cao hơn th́ hiển nhiên cơi cao bao trùm cơi thấp theo định luật thiên nhiên. Ở cơi tinh thần người ta có thể nhớ lại rất rơ ràng các chuyện đă xảy ra trong cơi trần. Cũng như thế, khi ngủ người ta có thể hồi tưởng được nhiều chuyện đă quên từ lâu rồi, v́ không c̣n bị cản trở bởi các chướng ngại thuộc thể xác. Khi thức giấc, con người khoác lấy bộ áo vật chất, kư ức bị chi phối bởi các ảnh hưởng thể xác, nó che khuất các linh năng cao hơn nên ít ai nhớ được điều ǵ rơ ràng. Các danh sư Tây Tạng chỉ dẫn rằng, nếu muốn chuyển đạt tin tức cho người quá cố, bạn có thể giữ trong tư tưởng điều bạn muốn nói th́ chuyện đó sẽ xảy ra. Tuy nhiên bạn nên biết rằng ở cơi tinh thần, người ta có thể đọc được tư tưởng của người sống. Nếu người quá cố vẫn c̣n luẩn quẩn gần đó th́ họ có thể đọc được tư tưởng của bạn dễ dàng. Ở cơi tinh thần, người ta không rảnh rỗi ngồi không đâu mà có những việc khác để thi hành, do đó nếu có thể, bạn không nên làm rộn đến họ.

Thánh Kinh đă ghi rơ: "Linh hồn co người nằm trong tay Thượng Đế và nơi đây không có sự đau khổ nào có thể chạm đến họ được". Nếu đă tin tưởng như thế th́ tại sao người ta không lo sợ? Phải chăng chúng ta thắc mắc v́ quan niệm thiên đ àng và địa ngục vẫn chi phối sự tin tưởng của chúng ta? Nếu bạn hiểu biết định luật thiên nhiên như vật lư th́ làm sao một người bất th́nh ĺnh nhảy vọt một cái lên đến tận trời hoặc rơi tuốt xuống đại ngục được! Thật ra một Thượng Đế bác ái và nhân từ không thể tạo ra một địa ngục với những ư nghĩ ghê tởm của nó được. Dù hiểu theo quan niệm nào th́ cũng không thể có một địa ngục, trừ ra chính nó là cái địa ngục mà con người đă tạo ra cho con người ở cơi trần thế nầy.

Tôi mong bạn hiểu rằng sự chết không đem lại một thay đổi ǵ cho con người thật sự cả. Không thể nào một người vừa chết đă trở nên một vị thánh, hay một đấng thiên thần. Người chết cũng không thể trở thành một bặc vĩ nhân hiểu biết tất cả mọi sự được, mà chỉ là một người giống như trước khi chết một ngày hay một vài giờ mà thôi. Hiển nhiên người đó cũng có t́nh cảm, kiến thức, sự hiểu biết, chỉ khác ở chỗ họ đă cởi bỏ bộ áo mặc trên người ra, cởi bỏ cái gánh nặng trên vai (bệnh tật, mệt nhọc của xác thân) và có cảm giác thảnh thơi tự tại. Khi c̣n sống, ai ai cũng phải làm việc để giải quyết những nhu cầu vật chất như thực phẩm, nơi chốn cư ngụ, quần áo che thân.v.v. Tại cơi tinh thần, những thứ nầy trở nên vô dụng. Thể tinh thần không cần thực phẩm hay nơi chốn cư ngụ, do đó người ta dường như thoát được cái áp lực lớn lao về sự sinh sống. Đây là cả một sự cởi bỏ gánh nặng rất lớn nên người ta thường thấy nhẹ nhàng thoải mái.

Theo các danh sư Tây Tạng, trong cơi tinh thần, không gian không c̣n là một trở ngại nữa. Người ta tự do di chuyển đó đây theo ư muốn. Nếu thích phong cảnh trời biển, họ tha hồ ngao du những chỗ nào đẹp đẽ nhất. Nếu thích mỹ thuật, họ có thể chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sỹ tài ba mà không phải chờ đợi xếp hàng hay mua vé vào cửa. Nếu thích âm nhạc, họ có thể di chuyển từ hí viện nầy đến hí viện khác để thường thức các khúc nhạc tuyệt diệu. Bất cứ thích điều ǵ, họ có thể thưởng thức điều đó hết sức dễ dàng, miễn là những cái đó thuộc về phạm vi tinh thần hay xuất phát từ các t́nh cảm cao thượng. Tại sao? V́ những thứ nầy không cần phải sử dụng đến một thể xác vật chất. Dĩ nhiên nếu điều họ thích là một thú vui dựa trên các cảm xúc của thể xác th́ vấn đề hoàn toàn khác hẳn v́ họ sẽ không thể thỏa măn được. Một người nghiện rượu sẽ không uống được rượu v́ làm ǵ c̣n xác thân. Cũng như thế, một kẻ thèm ăn sẽ khổ sở, luôn luôn có cảm giác đói khát v́ c̣n thể xác đâu nữa để ăn! Một kẻ tham lam, bỏn xẻn tiền bạc sẽ khổ sở v́ không c̣n ǵ để chất chứa. Kẻ ham nhục dục sẽ điên cuồng ǵ thèm khát mà không được thỏa măn. Người ghen tuông sẽ bị t́nh cảm dày ṿ, nhất là khi họ không c̣n xen vào công việc của người mà họ ghen tức được nữa.

Tóm lại, sự khổ sở chỉ bắt nguồn từ những đam mê xây dựng trên căn bản xác thịt, trên thể vật chất. Nếu biết kiềm chế những cảm giác nầy th́ họ bớt đau khổ hơn v́ nguyên nhân của đau khổ bắt nguồn từ ham muốn. Khi hết ham muốn th́ đau khổ cũng chấm dứt ngay. Bạn nên biết rằng đây không phải là một "sự trừng phạt" mà thật ra chỉ là kết quả tự nhiên của một nguyên nhân do chính tác nhận đă hành động. Đó chính là cái "quả" bắt nguồn từ cái "nhân" là sự ham muốn. Một khi mănh lực của cái "nhân" không c̣n th́ "quả" chấm dứt ngay. Nó là định luật "tác động và phản xạ" của vật lư chứ không có ǵ lạ.

phale
28-10-11, 09:01 AM
Hiển nhiên có những người không nhiều tật xấu. Khi c̣n sinh tiền họ sống b́nh thường, không xa hoa phù phiếm ǵ nhưng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng xă hội cùng những tập tục của nó. Dĩ nhiên họ không đau khổ điên cuồng như những người đam mê về xác thịt nhưng v́ thiếu một đời sống tinh thần mà họ cảm thấy cô quạnh v́ thời gian sao kéo dài quá. Khi xưa họ thích tụ thập bạn bè nói chuyện trên trời dưới biển th́ nay những điều nầy không có ư nghĩa ǵ nữa. Tại cơi tinh thần, ai nấy đều có thể đọc được tư tưởng của nhau, những điều khoác lác, phóng đại để mua vui không c̣n hấp dẫn được ai nữa. Tại đây không có khoe khoang địa vị, y phục, danh giá hay sự quan trọng cá nhân v́ những cái hời hợt đó không có ư nghĩa ǵ ở cơi nầy.

Tôi đă sử dụng danh từ "cơi nầy", "cơi nọ" làm như nó ở xa lắm! Thật ra nó vẫn ở gần, rất gần với cơi trần của chúng ta chứ không hề đi đâu xa. Nếu có khác th́ chỉ khác ở một chiều không gian mà thôi.

Cơi giới bên kia cửa tử được cấu tạo bởi các nguyên tử hết sức nhanh và nhẹ nên hợp với những người sống về tâm linh. Những người nầy sẽ cảm thấy thoải mái hơn ở cơi trần v́ ở cơi bên đây có các rung động thanh cao, thuận lợi cho việc trao dồi kiến thức, phát triển khả năng tinh thần. Nếu các nhà trí thức, nghệ sỹ, những người có tâm hồn hướng thượng đều cảm thấy thoải mái, ung dung tự tại, th́ người giàu ḷng bác ái không mưu cầu hạnh phúc cá nhân mà chú tâm đến hạnh phúc của người khác, c̣n sung sướng hơn nữa, v́ họ có thể làm việc một cách đắc lực. Tuy cơi nầy không có ai nghèo khổ, lạnh lẽo nhưng vẫn có những tâm hồn buồn rầu, đầy hoang mang sợ hăi, cần được giúp đỡ an ủi. Do đó các danh sư Tây Tạng thường chú tâm nghiên cứu cơi vô h́nh để hướng dẫn và giúp đỡ cho những kẻ nầy.

V́ đa số mọi người không biết ǵ về thế giới bên kia cửa tử nên họ đều thiếu chuẩn bị. Chính v́ thiếu chuẩn bị mà nhiều người chịu đau khổ, mê muội, cứ lang thang sợ hăi trong một cảnh giới kỳ lạ, mơ mơ màng màng, hư hư thực thực, không siêu thoát được. Thượng Đế thường hành động một cách bí mật, không mầy ai có thể hiểu. Có khi nào bạn tự hỏi tại sao phần lớn con người khi già yếu, các cơ quan thể xác dần dần thoái hoá, các ham muốn như ăn uống, thèm khát cảm xúc xác thịt cũng theo đó mà giảm bớt đi. Khi bệnh tật đau ốm, người ta chỉ mong sao chóng khỏe thôi chứ ai đâu c̣n ham muốn ǵ khác. Phải chăng đó là một cách gián tiếp giúp con người kiềm chế bớt các thú vui xác thịt, các ham muôn vật chất để tránh khỏi phải đau khổ khi từ giả cơi đời, khi ham muốn mà không thể thỏa măn được nữa? Hiển nhiên nếu biết vậy, người ta cần phải chuẩn bị, phải tập làm chủ các giác quan, kiềm chế các ham muốn vật chất, phát triển đời sống tinh thần ngay từ lúc nầy, để tránh không bị kổ sở khi bước vào thế giới bên kia. Thật đáng tiếc khi đa số người ta cứ mải mê lo lắng cho đời sống phù du, giả tạo, ngắn ngủi ở cơi nầy mà không biết ǵ đến những đời sống khác. Họ có thể bỏ ra cả tuần hoạch định chương tŕnh cho một chuyến du lịch trong khi không hề chú ư ǵ đến một nơi mà trước sau ai cũng phải đến.

Có lẽ bạn tự hỏi người chết trẻ khi ḷng ham muốn vật chất c̣n mănh liệt th́ sẽ ra sao? Dĩ nhiên họ gặp nhiều khó khăn hơn người chết già hay chết bệnh. Họ dễ bị lôi kéo, thu hút vào những cảnh giới thấp thỏi, ngột ngạt, bị ch́m đắm trong các rung động xấu xa, sống trong t́nh trạng hoang mang đau khổ, đầy thèm khát cho đến khi biết kiềm chế ḷng ham muốn th́ mới siêu thoát được. V́ đă mấy ai biết trước giờ chết, tử thần có bao giờ báo trước nên con người cần chuẩn bị một đời sống thanh khiết, hướng thượng ngay từ bây giờ. Điều chính yếu là nên giảm bớt các ham muốn vật chất để tránh khỏi lâm vào t́nh trạng như đói không được ăn, khát không được uống, thèm muốn không được thỏa măn, toàn thân nóng rực như than hồng v́ ham muốn hành hạ.

Nầy bạn, điều nầy không phải là sự trừng phạt v́ không hề có chủ thể hay đối tượng, không hề có quỷ sứ hành hạ. Diêm vương xét xử mà chỉ là kết quả của định luật thiên nhiên. Một cái "nhân" sẽ tạo một cái "quả" ḷng ham muốn không được thỏa măn sẽ tạo đau khổ. Dù được thỏa măn, nó sẽ tạo nên những ham muốn khác nữa cho đến khi không thể thỏa măn. Sự đau khổ luôn luôn gia tăng theo đ à ham muốn, càng ham muốn nhiều th́ khổ đau càng lớn. Hiển nhiên t́nh trạng nầy không kéo dài mà sẽ chấm dứt ngay khi sự ham muốn không c̣n nữa. Nếu người chết có đủ nghị lực, không ngoan để chế ngự những cảm giác khát khao về cơi trần th́ họ sẽ không bị ràng buộc hay bị hành hạ bởi ḷng ham muốn. Tiếc thay, v́ không được giải thích một cách rơ ràng như vậy nên phần đông nhân loại cứ nhởn nhơ vui chơi, t́m khoái lạc qua các cảm xúc của thể xác mà không ư thức rằng thể xác vốn vô thường, nay c̣n may mất, trước có sau không, những vui thú ngắn ngủi phù du của một kiếp người trong chốc lát đă dọn đường cho sự đau khổ triền miên ở cơi bên kia. Thời gian ở cơi trần bị giời hạn bởi các điều kiện vật chất v́ thể xác được cấu tạo bởi các nguyên tử trọng trược, không thể kéo dài quá lâu. Trong khi thời gian ở cơi bên kia hoàn toàn tùy thuộc vào sự rung động của các nguyên tử cấu tạo nên tinh thần. Nếu ḷng ham muốn c̣n mănh liệt, sự rung động c̣n thô thiển nặng trọc, th́ thể tinh thần không thể siêu thoát lên cơi trên mà lưu lại nơi đây rất lâu.

Nầy bạn, tôi muốn nhân dịp nầy đề cập đến tâm trạng của những người vừa cởi bỏ áo vật chất v́ đây là một điều hết sức quan trọng. Dĩ nhiên khi vừa qua đời, ai cũng hoang mang, hốt hoảng v́ sự thay đổi đột ngột bất ngờ. Tuy nhiên nếu khóc than thảm thiết th́ bạn chỉ làm cho người đó thêm bối rối, đau khổ, quyến luyến mà thôi. Khi từ bỏ bộ áo vật chất, các giác quan thể xác đă hư hoại, người bạn yêu không thể sử dụng ngũ quan như nh́n, nghe, ngửi, nói hay sờ mó được nữa và không thể biết được những sự kiện xảy ra trên cơi trần. Tuy nhiên các giác quan của thể tinh thần từ lâu vẫn bất động (inactive) bỗng được kích động và dần dần trở nên linh hoạt. Chỉ một lúc sau họ bắt đầu nhận thức ít nhiều về các sự kiện xảy ra chung quanh. Tùy tâm trạng lúc chết b́nh tỉnh hay hoảng hốt, đau khổ hay thoải mái mà các giác quan của thể tinh thần sẽ hoạt động nhanh hay chậm. Có khi v́ quá xúc động mà các giác quan nầy bị tê liệt không hoạt động được nữa, hiển nhiên người chết sẽ không ư thức được ǵ mà cứ mơ mơ màng màng như người say ngủ. Cũng có trường hợp các giác quan nầy hoạt động ngay khiến người chết có thể đọc được tư tưởng của người thân, biết họ sung sướng hay đau khổ ngay khi ĺa bỏ bộ áo vật chất.

Sự khóc than van có thể làm người chết hoảng hốt, lo lắng, luyến tiếc, đúng vào lúc mà họ cần phải b́nh tĩnh hơn bao giờ hết để thích hợp với hoàn cảnh mới. Tâm trạng người chết khi đó ở giữa hai cảm giác kỳ lạ: Cảm giác trước sự kiện vật chất đang dần dần tan biến, và cảm giác trước các sự kiện mới lạ đang bắt đầu thành h́nh v́ các giác quan mới bắt đầu hoạt động. Khi linh hồn rút khỏi thể xác, nó tạo ra một thay đổi trong bộ óc, khơi động "cuốn phim kư ức" vẫn chứa đựng trong tiềm thức. Tất cả mọi chuyện buồn hay vui, thành công hay thất bại, danh vọng, giàu sang hay nghèo đói, khổ sở, các hậu quả mà họ nhận lănh, nguyên nhân mà họ gây ra: Nổi đau khổ, sự đam mê, hành vi tội lỗi cũng như ḷng quả cảm hy sinh... đều lẩn lượt hiện ra trong tâm thức họ một cách rơ rệt. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng v́ nó quyết định số phận người chết trên đường tiến hóa tâm linh.

Nếu b́nh tĩnh, biết chấp nhận mọi sự, không luyến tiếc th́ họ dễ dàng thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Nhờ các giác quan thể tinh thần được khơi động mà họ ư thức được thế giới bên kia và có những quyết định sáng suốt. Đa số thường có cảm giác như đang trôi nổi, vật vờ trong một luồng sáng êm dịu và dần dần hiểu biết mọi sự. Tâm trạng của họ khi đó ảnh hưởng đến sự rung động của các nguyên tử cấu tạo thể tinh thần. Nếu hoảng hốt, sợ hăi hay luyến tiếc hối hận một điều ǵ th́ các rung động của thể tinh thần sẽ bị rối loạn khiến họ bi thu hút vào những rung động tương tự theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Họ sẽ bị lôi cuốn ngay vào bầu ánh sáng lờ mờ, nhầy nhụa như bùn của các cảnh giới nặng trọc, xấu xa. Nếu thoải mái, b́nh tĩnh, họ sẽ thấy nhẹ nhơm, an vui tự tại, người họ lơ lững trong bầu ánh sáng chói lọi, trong suốt như pha lê. Họ thấy khỏe khoắn và có thể sử dụng các giác quan mới để theo dơi sự việc xảy ra quanh đó. Dĩ nhiên họ có thể hoảng hốt, mất b́nh tĩnh nếu thấy người thân kêu la, khóc lóc. Cái cảm giác ung dung tự tại lúc ban đầu có thể thay đổi ngay, và hậu quả không thể lường được.

Trong thế giới tinh thần, tư tưởng chiếm vai tṛ hết sức quan trọng v́ nó chủ động tất cả mọi việc. Thử tưởng tượng, tự nhiên bạn bị bịt mắt dẫn ra khỏi nhà, đến một nơi xa lạ với tiếng người la hét, than khóc cùng các tiếng động ồn ào phức tạp mà bạn không thể hiểu th́ tâm trạng của bạn sẽ ra sao? Phải chăng bạn không thể b́nh tĩnh được? Cũng như thế, sự b́nh tĩnh, sáng suốt là điều hết sức quan trọng khi trong nhà có người từ trần. Theo các danh sư Tây Tạng, không có ǵ tốt đẹp hơn sự chân thành cầu nguyện của những người thân quyến. Các rung động âm thanh của lời kinh có một oai lực rất lớn, ảnh hưởng rất mạnh đến cơi giới bên kia. Một sự tha thiết chí tâm chí thành cầu nguyện, hay việc được một vị tu sĩ đạo hạnh cao dầy chú tâm hành lễ là một bảo vật không có ǵ có thể sánh bằng.

Một lần nữa, v́ sự kiện hết sức quan trọng nầy mà tôi mong bạn hăy ngưng việc khóc than vố ích, hăy lắng ḷng, b́nh tĩnh cầu nguyện cho người ở thế giới bên kia. Họ có thể nhận được ḷng thương yêu chân thành của bạn ngay khi bạn vừa phát tâm v́ ở thế giới bên kia, tư tưởng có sức mạnh rất lớn và mầu nhiệm. Nầy bạn, người thân của bạn không hề đi xa mà vẫn ở gần bên bạn. Người đó không nh́n được thể xác vật chất của bạn như vẫn thấy được thể tinh thần của bạn. Dĩ nhiên họ cũng cố gắng liên lạc với bạn mà nào bạn có biết. V́ bạn không để ư đến họ nữa nên họ tưởng như bạn đă quên họ rồi. Nếu thấy một người c̣n sống đang ngủ say, bạn biết người đó đang ngũ nhưng người say ngủ đau hề biết ǵ về bạn. Cũng thế, đối với người đă qua đời th́ bạn cũng như người đang ngủ say, họ thấy bạn nhưng không thể nói chuyện với bạn được nữa. Tôi mong bạn hăy suy gẵm cho kỹ về điều nầy, phải chăng nó hợp lư và không có ǵ quá đáng? Nầy bạn, sự thật đâu phải điều ǵ to tát, phức tạp, vượt ngoài sự hiểu biết của con người. Chính v́ thiếu sự hiểu biết nên con người đă vẽ vời ra những cảnh tượng ghê gớm đấy chứ.

Nếu bạn chấp nhận phần nào về cảnh giới bên kia cửa tử như tôi đă tŕnh bày th́ chúng ta có thể đi xa hơn.
Trong vũ trụ c̣n có nhiểu cảnh giới khác nữa chứ không phải chỉ có thế giới nầy thôi. Tùy theo các rung động của thể tinh thần mà con người thích ứng với một cảnh giới. Khi mọi ham muốn thấp hèn, ích kỷ đă hoàn toàn tan ră th́ con người sẽ siêu thoát lên các cảnh giới cao hơn. Khi tư tưởng trở nên thanh khiết, nhẹ nhàng, họ sẽ ư thức được những luồng tư tưởng thanh cao tế nhị hơn. Lúc đó họ sẽ mê man trước các luồng sóng rung động trí thức, các bầu tư tưởng sạch tốt lành. Đây là giai đoạn mà con người thấy rộn ràng một niềm phúc lạc vô biên, không bút nào có thể tả được. Đó là khi họ bắt đầu ư thức được các diễn biến thực sự của vũ trụ, của các định luật bất biến, của ánh sáng chân lư. Đây không phải phần thưởng của ai hết mà chỉ là kết quả tự nhiên của tánh linh đă tiến hóa đến giai đoạn nầy. Phải chăng bạn tự hỏi cái gia đoạn nầy có kéo dài măi không? Câu trả lời là "không", v́ không có một cái nhân hạn định nào có thể tạo ra một cái quả vô hạn định được. Định luật vũ trụ đă định rằng tia sáng phát xuất từ Đại Thể sẽ phải trở về nguồn gốc. Dĩ nhiên trong cuộc hành tŕnh trở về nguồn gốc, chúng ta c̣n phải tiến hóa rất nhiều để trở nên trong sạch, toàn diện. Hiện nay chúng ta c̣n bất toàn và rất xa với Đại Thể toàn thiện, uyên nguyên đó nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về, và đó là một sự thật không thể chối căi. V́ định luật vũ trụ "bất cứ một lực ǵ phát ra cũng đều có một phản lực ngược chiều tương tự", chúng ta phát xuất từ điểm linh quang toàn thiện, uyên nguyên kia, càng ngày càng đi xa dần, thâm nhập vào các cơi giới vật chất khác nhau rồi bị ô nhiễm, chính sự ô nhiễm nầy đă khiến chúng ta lạc lối, sa đọa và càng ngày càng đi xa măi trong cơi vô minh. Tuy nhiên chắc chắn có lúc chúng ta sẽ trở về khi ư thức được ḿnh là ai. Cởi bỏ các ô nhiễm vật chất, thanh lọc bàn thân để phát triển cái "mầm nhiệm", cái "chân như, Phật tánh", cái "thánh linh" sẵn có trong ta th́ dĩ nhiên chúng ta có thể "xoay chiều" cái lực đẩy chúng ta đi xa mà quay trở về.

Tất cả mọi sự sống đều đang trên đường tiến hoá, có thể nhanh hay chậm tùy hoàn cảnh và định luật cá nhân nhưng chắc chắn đều nổi trội trong chu kỳ tiến hóa chung. Nếu con người mỗi sáng thức vậy, mặc quần áo, làm công việc thường ngày, th́ đến tối, cởi bỏ y phục ra để nghỉ ngơi. Cũng như thế, khi xuống trần, người ta khoát lấy bộ áo vật chất. Khi việc học hỏi đă hoàn tất, người ta cởi bỏ bộ áo đó bước vào một trạng thái yên tĩnh để nghỉ ngơi. Sau khhi ngơi nghỉ, ôn lại bài vở đă học th́ họ lại khoát chiếc áo khác, khởi sự học một bài học mới (hoặc tiếp tục học bài học mà họ đă không học được khi trước). Điều người ta gọi là "đời người" thật ra chỉ là một ngày trong đời sống thật sự, trong một cuộc tiến hoá, một hành tŕnh để trở về nguồn.

Nầy bạn, điều nầy có thể mới mẻ đối với bạn, có thể bạn coi nó là kỳ dị, phi lư, hoang đường, không thể tin. Hiển nhiên trong bài viết ngắn, tôi không thể tả hết những điều trọng đại mà tôi đă nghiên cứu trong ṿng mấy chục năm qua, những sự kiện mà các danh sư Tây Tạng đă học suốt trong mấy chục thế kỷ qua, những chân lư mà các bậc tổ Mật Tông đă để lại trong tài liệu, trong các cuốn cổ thư hay kinh sách mật truyền. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng giải thích thêm những ǵ tôi biết.

Phải chăng bạn đang thắc mắc về số phận của người thân vừa qua đời? Hiển nhiên họ cũng rất quan tâm đến người sống nhưng sự lo lắng nầy có thể làm cản trở việc siêu thoát và mức tiến hóa của họ. Vấn đề quan trọng cần đặt ra là làm sao tránh cho họ không bị những quyến luyến ám ảnh. Làm sao để người chết hoàn toàn giải thoát ra khỏi nỗi lo lắng ưu tư của cơi giới mà họ vừa từ giả, để có thể sống thoải mái, trọn vẹn trong cuộc sống mới mà họ vừa bước vào. Việc giúp đỡ con trẻ của người chết để lại là một hành vi cao quư đặc biệt. Nhờ thế mà cha mẹ đă từ trần bớt gánh nặng lo âu phần nào và có thể nhẹ bước tiến lên cơi trên. Nếu khi c̣n sống họ đă làm điều sai quấy th́ lúc từ trần dĩ nhiên họ sẽ lo lắng về số mạng sắp tới của họ. May mắn thay trong cơi tinh thần vẫn luôn luôn có những người đi trước, những người giàu long bác ái, sẵn sáng đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn, d́u dắt, giải thích cho họ hiểu những định luật thiên nhiên. Dĩ nhiên đă tạo ra nhân th́ chắc chắn sẽ gặt lấy quả, không thể khác được. Nếu hiểu biết, chấp nhận sự thật và vui vẻ thọ lănh hậu quả vẫn tốt hơn là u mê, không ư thức được ǵ hết.

Một trong những sự kiện đặc biệt là trường hợp các đứa bé qua đời. V́ đa số các đứa trẻ đều ngây thơ, ít ràng buộc, ham muốn vật chất nên chúng dễ thích hợp với cơi giới bên nầy hơn. Lúc đầu trẻ con thướng quanh quẩn gần cha mẹ của chúng nhưng họ đâu biết được sự hiện diện của con nên đứa bé có cảm tưởng bị bỏ rơi. Ít lâu sau nó tụ tập với những linh hồn c̣n trẻ khác mà chơi đ ùa với nhau. Trong cơi tinh thần, tư tưởng thường hiện ra rất rơ rệt. Khi đứa bé tưởng tượng thế giới nào th́ nó thấy như vậy. Nếu nó nghĩ rằng nó là một vị anh hùng th́ nó liền khoát lấy h́nh ảnh người hùng đó: Nếu nó muốn cung điện lâu đ ài th́ một lâu đ ài được dựng ra lên tức th́. Đối với đứa bé có tâm hồn hướng thượng muốn t́m gặp các thần thánh th́ những vị nầy sẽ xuất hiện ngay v́ ở cơi tư tưởng người ta rất dễ t́m gặp nhau theo định luật "đồng thanh tương ứng". Có những đứa bé muốn gặp Thượng Đế. Một Thượng Đế trong h́nh thể vật chất như nó nghĩ và hiển nhiên nó sẽ không thất vọng v́ tất cả h́nh dáng của Thượng Đế, bởi v́ ngài ở khắp mọi nơi, kẻ nào muốn phụng sự và giúp đỡ, dù giúp đỡ nhưng sinh linh thấp kém nhất, th́ cũng đang phụng sự ngài một cách thực sự vậy.

Dĩ nhiên trong thời gian đầu, trẻ con dễ ham thích được hữu dụng. Chúng ưa giúp đỡ, an ủi người khác nên sau một thời gian chời đ ùa thỏa chí, chúng thường t́m đến những người thiếu hiểu biết, những người c̣n lo lắng, hoang mang để chuyện tṛ, an ủi họ. Trong cơi vô h́nh, những đứa bé như thế di chuyển khắp nơi, làm những việc giúp đỡ đầy vị tha, bác ái. Chính sự giúp đỡ, quen biết nầy đă tạo ra những sợi dây thân ái giữa chúng và các linh hồn khác. Phải chăng bạn đang thắc mắc về số phận của những đứa trẻ quá nhỏ, chưa biết chơi đ ùa? Trong cơi tinh thần có nhiều bà mẹ nồng nàn chờ đợi để ôm chúng vào ḷng, tiếp đón chúng, yêu thương chúng như con ruột của ḿnh. Tuy nhiên thường thường những đứa bé đó chỉ nghĩ ngơi trên cơi tinh thần một thời gian rất ngắn rồi lại trở xuống trần. Nhiều khi chúng t́m đến cha mẹ cũ của chúng v́ những liên lạc thân ái hay tùy duyên nghiệp có sẵn từ trước.

Các tu sĩ thời trung cổ thường bịa đặt ra các điều độc ác, gớm ghê như việc trẻ nhỏ chết mà không rửa tội th́ sẽ xa cách cha mẹ chúng và bị đ ày xuống địa ngục vĩnh viễn. Đây là một tin tưởng ngu xuẩn, hoàn toàn vô lư, cần phải loại bỏ. Rửa tội là một bí tích thật sự, có những hữu ích đặc biệt và có ư nghĩa quan trọng chứ không phải một h́nh thức bên ngoài mà nếu thiếu sót sẽ đem lại hậu quả tai hại, ảnh hưởng cả đến những định luật vũ trụ. Thượng Đế vốn bác ái, nhân từ, đâu chấp nhận những h́nh thức bên ngoài như một hung thần độc đoán như vậy.

Cho đến nay, tôi chỉ đề cập đến việc tiếp xúc với người chết bằng cách vào thế giới bên kia trong giấc ngủ v́ đó là đường lối tự nhiên thônng thường. Dĩ nhiên có những đường lối khác thường và không tự nhiên. Dĩ nhiên vẫn có những đường lối khác thường và không tự nhiên. Có người chết tạm thời mượn lấy một h́nh thể khác trong chốc lát (trường hợp lên đồng, nhập cốt) hoặc sử dụng một h́nh nộm, một cái bóng, tạo ra bởi các nguyên tử vật chất, để tiếp xúc với người cơi trần. Đây là những điều không đứng đắn, mơ hồ, khó kiểm chứng, dễ bị lợi dụng, có thể đưa đến sự bịp bợm, phỉnh gạt của một số thầy pháp, thực hành tà thuật. Do đó, theo sự nghiên cứu và hiểu biết của tôi, đây là điều nên thận trọng v́ việc vong linh cố gắng liên lạc với cơi trần bằng cách nầy thường bắt nguồn từ những nguyên nhân đặc biệt. Có thể v́ họ có điều oan ức cần biện bạch, hoặc các đau khổ lo âu cần được giúp đỡ. Trong trường hợp nầy, tốt nhất là ráng t́m hiểu xem họ muốn ǵ rồi giúp họ giải quyết những việc đó sớm chừng nào tốt chừng nấy để tâm hồn họ được an tĩnh.

Nầy bạn, tôi đă tŕnh bày những hiểu biết của tôi về thế giới bên kia. Tôi mong bạn hăy bớt buồn rầu v́ sự chia ly tạm thời nầy. Có chi phải lo lắng buồn phiền khi người bạn yêu thương đă bước vào một đời sống rộng răi, thoải mái với những ư nghĩ đặc biệt của nó? Nếu buồn rầu về sự chia ly tưởng tượng đó th́ trước nết điều bạn lo âu chỉ là một ảo tưởng, v́ người đó đâu hề xa cách bạn. Phải chăng sự thật là bạn suy nghĩ nhiều về sự mất mát của chính bạn hơn là sự thoải mái của người vừa qua đời? Bạn phải bỏ lóng ích kỷ đó đi nếu bạn thật sự yêu thương người đó. Tất cả t́nh thương chân thật đều phải vị tha. Bạn cần nghĩ đến người bạn thương chứ không phải đến bản thân bạn. Bạn nên biết rằng ḷng yêu thương chân thành của bạn với người đă qua đời vẫn c̣n măi chứ không thể mất đi được. Tại sao cơi bên kia, nó c̣n gia tăng thêm mănh lực v́ tại đây nó không c̣n bị trở ngại hay giới hạn bởi thể xác. Ở cơi tư tưởng, người ta không thể dối trá được, các h́nh thức nên ngoài như khóc than, bi lụy không xuất phát từ bên trong chỉ là những h́nh thức giả dối và người ở cơi bên kia biết rơ điều nầy hơn ai hết, v́ họ đọc rơ tư tưởng của bạn. Dù thành thật, nhưng nếu than khóc, buồn rầu th́ bạn đă phóng ra những tư tưởng có ư "kềm chân, núi giữ" người kia lại th́ làm sao họ có thể ung dung tự tại mà siêu thoát được? Bạn nên nhớ mọi tư tưởng, t́nh cảm của bạn đều ảnh hưởng trực tiếp đến người ở cơi bên kia, do đó bạn cần thận trọng, đừng để một tư tưởng giận hờn, lo lắng nào ảnh hưởng đến sự thoải mái của họ. Nếu biết người đă qua đời vẫn c̣n lo lắng cho bạn th́ bạn cần an đảm, vui vẻ hơn v́ như thế họ sẽ an tâm hơn, bớt đi các ưu tư lo lắng về bạn.

Nếu khi c̣n sống, họ không được chỉ dẫn một cách cẩn thận, đứng đắn về đời sống bên kia cửa tử, th́ bạn hăy t́m cách học hỏi những điều nầy và giải thích cho họ hiểu vào những khi ngủ. Bạn hăy tâm niệm những điều bạn muốn tŕnh bày trước khi ngủ rồi bạn sẽ ư thức được điều tôi muốn nói. Nầy bạn, khi vừa qua đời, t́nh cảm quyến luyến giữa hai bên vẫn c̣n bền chặt, do đó tư tưởng của bạn có thể ảnh hưởng rất nhiều đến người kia. Bạn hăy nhân cơ hội nầy chuyển trao cho họ những tư tưởng cao thượng tốt lành, khiến tâm thức của họ chóng khai mở, có những rung động tốt đẹp và giúp họ t́m được sự an lạc ở cơi bên kia. Bạn hăy cầu nguyện, âm thanh của lời kinh có oai lực rất lớn, có thể giúp họ chóng tỉnh thức rơ rệt mọi sự đang xảy ra. Bạn hăy t́m hiểu sự duy nhất của vạn vật, của đấng Thiên Liêng. Nếu bạn hiểu được t́nh thương của ngài đối với bạn cũng như với muôn loài th́ làm sao bạn có thể buồn rầu, bi lụy được? Bạn biết rằng tất cả đều là con của ngài, làm sao một đấng Cha Lành như ngài lại không săn sóc chăm lo cho các đứa con của ngài được? Thái độ bi lụy là thái độ thiếu tinh tưởng, thụ động và thiếu hiểu biết. Bạn cần học hỏi thêm các ẩn nghĩa trong lời dạy bảo của ngài xuyên qua đấng cứu thế, v́ càng học hỏi hiểu biết nhiều chừng nào th́ đức tin của bạn càng mạnh mẽ chừng đó. Bạn sẽ nhận thức rằng tất cả mọi sự đều nằm trong tay đấng Cha Lành, một quyền năng đầy sáng suốt, bác ái, minh triết hoàn toàn. Và chính cái t́nh thương cao cả nầy điều khiển tất cả mọi sự.

phale
28-10-11, 09:04 AM
Chương 2

Trở Về Từ Cơi Sáng

Lời dịch giả:

Trong thời gian gần đây có rất nhiều sách viết về hiện tượng người chết sống lại" kể chuyện thế giới bên kia (Near Death Experiences) nhưng không cuốn nào gây sôi nổi bằng cuốn "Embraced By The Light" (tạm dịch: Trở về từ cơi sáng) của Betty Eadie.

Xuất bản đầu năm 1993, nó đă trở nên một "Best Seller" với số bản kỷ lục và dẫn đầu những cuốn sách bán chạy nhất Hoa Kỳ. Bắt đầu từ tháng 2. 1994, nó trở nên cuốn sách bán chạy nhất thế giới với 18 ấn bản bằng các thứ tiếng khác nhau. Trong ấn bản đầu tại Âu Châu, nhiều đọc giả đă phải mua giá chợ đen v́ nhà xuất bản in không kịp. Tại Nhật Bản những người không muốn chờ đợi, đă xếp hàng để mua trước cửa nhà in, không đợi sách giao đến tiệm nữa...

Tại sao cuốn sách nầy lại bán chạy như vậy? Theo các nhà b́nh luận th́ không những nội dung cuốn nầy phong phú hơn nhiều cuốn sách tương tự mà tác giả, bà Betty Eadie, đă kinh nghiệm được sự chết và kể lại những diễn tiến ở cơi bên kia, mà bà ta gọi là cơi sáng, một cách chi tiết rơ ràng. Sau khi cuốn sách xuất bản, tác giả đă được mời đi diễn thuyết khắp nơi, đâu đâu bà cũng thư hút được một cử tọa đông đảo chưa từng thấy. Nhiều đ ài phát thanh và truyền h́nh trên thế giới đă có chương tŕnh phỏng vấn tác giả và thảo luận về hiện tượng "người chết sống lại". Đây là một đề tài đang được bàn căi rất sôi nổi, người tin kẻ ngờ, và có người đă chất vấn tác giả từng chi tiết một nhưng bà Eadie đă giải đáp được hầu hết thắc mắc của mọi người nên số người hâm mộ bà ngày càng nhiều.

Nhận thấy đây là một quyển sách giá trị, một đề tài đáng để cho chúng ta suy gẫm nên chúng tôi đă xin phép tác giả để tóm tắt và lược dịch những đoạn chính. Chúng tôi không chú trọng đến hiện tượng "người chết sống lại" v́ đă có nhiều cuốn sách viết về đề tài nầy rồi và cũng không muốn đi vào chi tiết những cảnh giới tác giả đề cập ở cơi bên kia. Trong phần lược dịch nầy, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến nội dung của cuốn sách, hay thông điệp cần thiết cho nhân loại, mà tác giả đă nhấn mạnh rằng đó chính là lư do mà bà trở lại cơi trần.

Sau đây là những đoạn chính của cuốn sách trên nói về trường hợp của bà Betty Eadie sau cuộc giải phẩu tại bệnh viện...

Có lẽ tôi chỉ vừa mới thiếp đi thôi v́ đồng hồ vẫn chỉ 9 giờ rưỡi, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy toàn thân bỗng tràn ngập một cảm giác lạ lùng. Linh tính báo cho tôi biết có một chuyện ǵ sắp xảy ra. Tôi nh́n quanh pḥng, cánh cửa vẫn khép hờ, ánh sáng bên ngoài lọt vào một cách yếu ớt, và tự nhiên tôi cảm thấy sợ hăi v́ phải ở trong pḥng một ḿnh. Tôi cố gắng tự chủ nhưng đầu óc tôi cứ hoang mang về một điều ǵ không thể diễn tả. Tôi thấy trong người yếu dần. Tôi muốn bấm vào nút chuông cạnh giường để gọi ư tá nhưng không sao nhúc nhích được. Có một âm thanh kỳ lạ như tiếng vo ve ở đâu trổi lên, lúc đầu c̣n nhỏ nhưng càng ngày càng to. Bỗng nhiên tôi cảm thấy có một mănh lực kỳ lạ thúc đầy tôi muốn ngồi bật dậy nhưng thể xác tôi tự nhiên lại cứng đơ một cách lạ lùng. Tôi cố sức vùng vẫy nhưng vô hiệu, chân tay tôi không tuân theo mệnh lệnh của tôi nữa. Dường như có một sức mạnh nào đó đang thu hút lấy tôi, tôi nghe như có tiếng ai gọi thầm đâu đây. Bất chợt có một cái ǵ dội mạnh vào lồng ngực khiến tôi giật ḿnh. Cảm giác nầy không đau đớn nhưng kỳ lạ khiến tôi trong ḿnh bỗng nhẹ hẳn đi như vừa trút được một gánh nặng. Tôi có cảm tưởng như ḿnh vừa được giải thoát được các ràng buộc, thân thể lân lân sảng khoái như bay bổng. Rồi một cái ǵ đó dội mạnh vào lồng ngực tôi lần nữa khiến tôi thấy ḿnh dường như thoát hẳn ra ngoài. Ra ngoài? Nhưng ra ngoài cái chi đây? Đầu óc tôi hoang mang lạ lùng. Tôi cố gắng cựa mạnh và tự nhiên thấy ḿnh đang lơ lửng trong không gian gần chạm đến trần nhà. Tôi quay đầu nh́n lại và thấy một thân thể đang nằm bất động trên giường. Chỉ một thoáng giây tôi đă ư thức được ngay đó chính là xác tôi. Không hiểu sao tôi không thấy sợ hăi chút nào. H́nh như có một sức mạnh nào đó đang che chở tôi, một cảm giác b́nh yên khiến tôi có thể yên lặng nh́n ngắm cái xác đó mà không hốt hoảng.

Phải rồi. Đó chính là xác của tôi. Nó c̣n tốt lắm nhưng không c̣n sử dụng được nữa, thật đáng tiếc v́ nó chưa hư hại bao nhiêu, vẫn có thể dùng được vào nhiều việc. Đang lặng ngắm cái xác, tôi bỗng ư thức được một điều thật kỳ diệu. Lần đầu tiên tôi nh́n rơ ḿnh dưới trạng thái của ba chiều đo. Khi trườc tôi có thể thấy ḿnh qua hai chiều đo lúc ngắm ḿnh trong gương, nhưng hiện nay cặp mắt của tôi có thể thấy rơ mọi khía cạnh của thể xác, đ àng trước, đ àng sau, mọi phía một cách đầy đủ, toàn vẹn, từng chi tiết.

Bất chợt tôi thấy h́nh như ḿnh không c̣n chịu áp lực của trọng lực nữa. Cớ thể tôi nhẹ nhơm, có thể cử động một cách dễ dàng thoải mái hơn trước. Dù vừa trải qua một cuộc giải phẩu nhưng tôi không thấy đau đớn, khó chịu v́ vết thương. Ngay lúc đó tôi biết rằng ḿnh đă thực sự chết rồi, đă rời bỏ thể xác mà người ta mới giải phẫu xong. Th́ ra cái xác đó không phải là tôi mà chỉ là một cái vỏ, một cái bóng, một bộ quần áo củ mà tôi đă sử dụng trong nhiều năm nay. Cái xác đó nằm bất động nhưng tôi lại tự do, thoải mái và dĩ nhiên đây là một kinh nghiệm từ trước đến nay tôi không hề nghĩ đến.

Vừa nghĩ đến đó th́ bỗng có ba người đ àn ông ở đâu xuất hiện. Họ ở đâu đến tôi không biết nhưng chắc chắn không phải từ bên ngoài bước vào v́ cửa pḥng vẫn c̣n khép hờ như cũ. Tất cả đều mặc áo thụng màu nâu, quanh hông có cột một sợi dây màu vàng, hai đầu bỏ thơng xuống. Người họ tỏa ra một thứ ánh sáng rất dịu và đến lúc đó tôi mới nhận ra chính ḿnh cũng đang tỏa ra một thứ ánh sáng tương tự. Không hiểu sao tôi không thấy e ngại hay sợ hăi v́ sự xuất hiện của những người lạ mặt nầy. Thoạt trông họ chỉ trạc 70 hay 80 tuổi, nhưng tôi biết rằng tuổi thật của họ khác xa với số tuổi mà tôi phỏng đoán. Có lẽ họ đă sống rất lâu rồi, từ những buổi xa xưa lắm! Nh́n cách phục sức, tôi thấy họ giống như các tu sĩ thời cổ. Phải chăng họ xuất hiện dưới h́nh ảnh đó để biểu lộ một đức tính hay một minh triết lớn lao?

Một người mỉm cười cho tôi biết rằng giữa tôi và họ đă có những liên hệ "từ ngàn xưa". Tôi không hiểu câu nầy có nghĩa ǵ. Tại sao lại có sự quen biết như vậy được? Ngàn xưa phải là một thời gian rất xa trong dĩ văng nhưng xa thế nào được cuộc đời chỉ ngắn ngủi có mấy chục năm thôi? Vừa nghĩ đến đó th́ tôi thấy ngay một h́nh ảnh xa xưa hiện ra trước mắt, một cuộc sống khác với đời sống vừa qua của tôi, và bỗng hiểu được sự liên hệ giữa tôi và những người nầy. Phải rồi, chúng tôi đă quen biết nhau từ lâu lắm rồi và đời sống thực sự của tôi vốn không có khởi đầu hay chấm dứt mà chỉ là một diễn tiến kéo dài không ngừng xuyên qua thời gian. Lúc đó tôi mới ư thức rằng những người nầy thực sự là những người bạn chọn lọc của tôi trong cái đời sống lớn lao, kéo dài vô tận đó, và trong kiếp sống vừa qua của tôi, họ đă đóng vai những "thiên thần hộ mạng" cho tôi.

Một người cho biết rằng tôi chết chưa đúng số và lư do họ đến đây là để trấn an tôi. Trấn an? Tôi chợt hiểu được nguyên nhân của cảm giác b́nh an êm ái khi vừa qua đời lúc năy, một cảm giác không sợ hăi, không hoảng hốt mà ư thức rơ rệt được các diễn tiến xảy ra. Khi đó tôi mới hiểu ba người nầy thật hết sức lưu tâm đến tôi. Tôi định lên tiếng cảm ơn th́ chợt nhớ ra rằng từ năy đến giờ chúng tôi không hề nói chuyện đến nhau bằng tư tưởng. Đến lúc đó tôi mới ư thức được sự diễn tả bằng lời nói, ngôn ngữ mà tôi vẫn sử dụng, quả thật rất giới hạn so với cái kinh nghiệm mới mẻ về sự truyền thông bằng tư tưởng nầy. Tôi biết có nhiều điều họ muốn chia sẻ với tôi, cũng như tôi muốn nói với họ, nhưng chúng tôi biết rằng lúc nầy c̣n có những việc khác quan trọng hơn cần phải làm.

Tự nhiên tôi nghĩ đến chồng và các con của tôi. Hiện nay chồng tôi đang làm ǵ? Mấy đứa con tôi ra sao? Làm sao một người đ àn ông không bao giờ trông nom trẻ nít lại có săn sóc một lúc sáu đứa nhỏ đây? Không có tôi th́ làm sao những đứa bé nghịch ngợm nầy có thể thuận ḥa với nhau được? Không chừng chúng đă bầy đồ chơi bừa ra khắp nhà rồi. Tôi phải gặp chúng ngay th́ mới yên tâm được.

Tôi nh́n ra cửa sổ. Có lẽ tôi phải đi ra ngoài bằng cửa sổ, nhưng vừa nghĩ đến đó th́ tôi đă thấy ḿnh đi xuyên qua cửa sổ rồi. Tự nhiên tôi hiểu rằng tôi có thể đi xuyên qua mọi vật một cách dễ dàng và tôi có thể đi bất cứ đâu mà tôi muốn. Tuy nhiên tôi không có th́ giờ suy nghĩ nhiều về cái kinh nghiệm mới mẻ nầy, tôi chỉ nghĩ đến gia đ́nh của ḿnh. Sao bao năm làm lụng vất vả để gây dựng một mái ấm gia đ́nh, tự nhiên tôi cảm thấy sợ hăi khi có thể mất đi một cái mà tôi vừa có, cái hạnh phúc mà tôi đă nhọc sức bao lâu nay để vun vén, săn sóc, tạo dựng nên. Vừa nghĩ đến nhà th́ tôi đă thấy ḿnh đứng trước cửa nhà. Tôi vội vă bước vào pḥng khách và thấy chồng tôi đang ngồi đọc báo trên chiếc ghế bành quen thuộc, lũ nhỏ đang đ ùa nghịch chạy lên chạy xuống cầu thang, la hét ầm ĩ. Quả thật hết chỗ nói! Tôi thường dặn chúng không được chạy nhảy như vậy kia mà. Mẹ vừa vắng nhà một ngày mà lũ nhỏ đă tác oai tác quái rồi. Tôi chăm chú quan sát từng đứa một, và tự hỏi chúng sẽ ra sao khi thiếu người mẹ vẫn thường chăm sóc cho chúng? Không hiểu v́ một lư do nào đó, tôi đồng thời ư thức được cuộc đời của mỗi đứa một cách mầu nhiệm. Tôi biết mỗi đứa đều có một nhiệm vụ riêng, một đời sống riêng, và sẽ phải học hỏi để có những kinh nghiệm khác nhau. Thật là một lầm lẫn lớn khi tôi nghĩ rằng chúng là "con của tôi" trong khi thực sự chúng cũng như tôi, đều là những thực thể tâm linh, có cá tính, sự thông minh, hay các nghiệp quả riêng biệt trước khi đầu thai vào cơi sống nầy. Mọi đứa đều có tự do ư chí và sẽ tự chọn một cuộc sống riêng. Chúng có đời sống của chúng cũng như tôi có đời sống của riêng tôi. Chúng được giao phó cho tôi để săn sóc, trông nom và giáo dục trong một thời gian nhất định nào đó thôi, sau đó chúng sẽ đi con đường riêng mà chúng đă chọn. Đây là một chương tŕnh được hoạch định bởi những định luật cao cả, và dĩ nhiên khi chúng ta hoàn tất nhiệm vụ nầy th́ đời sống trong kiếp nầy của chúng ta cũnng sẽ chấm dứt. Tôi nh́n thấy những thử thách lớn lao và đầy khó khăn mà chúng sẽ phải gặp, nhưng đồng thời cũng biết rằng những việc nầy là điều cần thiết cho sự phát triển của chúng. Tất cả đều ch́ là những phần rất nhỏ trong một chương tŕnh giáo dục lớn lao, được sắp đặt bởi những quy luật hết sức hoàn hảo.

Tôi thấy ḿnh như trút được gánh nặng rất lớn. Từ trước đến nay tôi thường quá lo lắng cho chúng. Sức tôi th́ yếu ớt, ṿng tay tôi th́ bé nhỏ, làm sao có thể lo liệu chu toàn cho mọi thứ? Thế nhưng tôi đă sắp đặt, hoạch định và mơ ước những điều thật viển vông. Tôi đă thầm mơ rằng những đứa con tôi sẽ trở nên những người có địa vị trong xă hội, những nhà bác học, những y sĩ nổi tiếng, hay thương gia giàu có. Quả thật tôi đă lầm lẫn rất lớn khi nghĩ rằng ḿnh có thể sắp đặt, hoạch định những chương tŕnh to tát như vậy. Nhưng nay th́ mọi việc đă giải quyết v́ cuối cùng th́ cuộc đời của chúng cũng đều tốt đẹp cả. Cuộc sống của gia đ́nh tôi cũng thế, cái hạnh phúc mà tôi hằng lưu tâm trước sau ǵ cũng sẽ xảy ra trong một tiến tŕnh tất yếu...

Tôi cảm thấy thoải mái và sung sướng khi kinh nghiệm được các điều nầy, có lẽ nhờ thế mà tâm hồn tôi trở nên an tĩnh hơn. Những nỗi lo lắng, sợ hăi dường như tan biến khiến tôi cảm thấy hết sức thoải mái trong đời sống mới mẻ nầy. Tôi trở lại bệnh viện mà không nhớ ḿnh về bằng cách nào. Tôi thấy thể xác ḿnh vẫn nằm yên bất động trên giường, ba người bạn của tôi vẫn đứng đợi cạnh đó. Tôi cảm thấy ngay được t́nh thương của họ và cả niềm vui nho nhỏ của họ nữa. H́nh như họ biết tôi vừa trở về nhà và đă kinh nghiệm được điều mà tôi cần phải biết. Tôi muốn nói với họ nhiều điều nhưng một người cho biết đă đến lúc tôi phải tiếp tục cuộc hành tŕnh và họ sẽ không cùng đi với tôi.

Khi người ta đứng trước một sức mạnh lớn lao hẳn người ta phải biết rơ, giờ đây tôi cũng vậy. Dường như có một cái ǵ kỳ lạ xảy ra, một sức cuốn hút lớn lao trán ngặp khắp căn pḥng khiến tôi không thể cưỡng lại được. Tôi thấy ḿnh đang bị hút đi bởi một luồng gió lốc cực mạnh nhưng tôi không hề sợ hăi mà lại kinh nghiệm được một sự b́nh an, thoải mái. Tôi nghe có tiếng chuông thánh thót ở đâu vọng lại, âm thanh hết sức đặc biệt mà tôi không thể quên được. Đột nhiên cảnh vật chung quanh đều mờ dần và tôi đang thấy ḿnh ở trong một đường hầm tối om, đen như mực. Theo lệ thường th́ tôi phải sợ hăi lắm, nhưng không hiểu sao nằm trong một màn đêm dầy đặc như vậy mà tôi vẫn cảm thấy một niềm vui rộn ràng, một cảm giác b́nh an như được che chở. Tôi thấy cũng có những người hay súc vật đang bị lôi cuốn vào cái đường hầm đen tối nầy. Họ ở cách tôi khá xa nhưng có lẽ tất cả đều kinh nghiệm được sự b́nh an như tôi v́ tôi không thấy ai có vẻ sợ hăi hoảng hốt cả. Tất cả đều tiến bước trong đường hầm đen tối đó, nhưng cũng có vài người thơ thẩn không chịu đi mà cứ la cà từ chỗ nầy đến chỗ kia. Tôi không thấy họ làm phiền ai nhưng không hiểu sao họ lại không đi cùng với chúng tôi! Chúng tôi tiếp tục lướt đi với một tốc độ khá nhanh, mặc dù chân không hề bước nhưng mọi vật chung quanh cứ vun vút trôi đi như mây khói.

Được một lúc tôi cảm thấy có một t́nh thương mănh liệt ở đâu trút xuống, tràn ngập khắp đường hầm đen tối nầy, một t́nh thương hết sức thanh tịnh, vô nhiễm, một thứ t́nh thương không bút mực nào có thể tả xiết. Ngay lúc đó tôi cảm thấy có một đốm sáng khá xa. Không hiểu sao tôi bị thu hút bởi điểm sáng đó nên rảo bước về hướng đó, trong khi những người khác h́nh như không thấy điểm sáng nên họ vẫn mải miết đi về một hướng khác. Càng đến gần điểm sáng, tôi càng thấy có một t́nh thương hết sức mănh liệt từ điểm sáng toát ra và sau cùng tôi nhận thấy đó là một người. Người đó đi đến đâu th́ ánh sáng tỏa lan ra đến đó, một thứ ánh sáng chói lọi, sáng hơn cả mặt trời. Tôi thầm nghĩ với ánh sáng nầy th́ mắt người chắc chắn không thể chịu nổi, nhưng hiện nay tôi không thể nh́n bằng con mắt thịt nữa mà bằng một thứ nhăn quan khác.

Khi người đó đến gần th́ dường như ánh sáng của người đó ḥa nhập vào ánh sáng toát ra từ thân tôi như hai ngọn đ èn ḥa nhập ánh sáng vào làm một. Ngay lúc đó tôi cảm thấy ngây ngất, dường như tôi đang nhập vào người đó và thấy một sức mạnh từ đâu đến tràn ngập khắp thân thể. Đó là một t́nh thương tuyệt đối, một thứ t́nh thương vô điều kiện mà chưa bao giờ tôi cảm nhận được. Người đó giơ rộng hai tay ra ôm lấy tôi vào ḷng. Ngay lúc đó tôi bỗng ̣a lên khóc nức nở, và thốt lên "Con đă trở về nhà! Con đă trở về nhà!" Tôi ư thức rơ rằng tôi là một phần của người đó và từ xưa đến nay tôi cũng chưa bao giờ rời xa người đó. Tôi không hề thắc mắc người đó là ai nhưng biết chắc rằng người đó không thể là ai khác hơn Đấng Cứu Thế.

phale
28-10-11, 09:04 AM
Phải, người đó chính là Thượng Đế, là t́nh thương, là tất cả, và tôi vẫn biết đến ngài. Từ thuở xa xưa tôi đă biết ngài, trước khi bắt đầu cuộc hành tŕnh xuyên qua thời gian, và dù trải qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều cơi giới khác nhau, nhưng phần tâm linh của tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ngài và không hề rời xa ngài. Suốt đời tôi luôn luôn kính sợ ngài, giờ đây tôi biết rơ ngài chính là người mà tôi tôn quư nhất. Tôi biết ngài hiểu được tất cả những tội lỗi mà tôi đă phạm, những sai lầm mà tôi đă làm, nhưng không hiểu sao tất cả những điều đó giờ đây không quan trọng nữa. Dường như trong cái biển t́nh thương vô biên đó, tất cả đều tan đi một cách nhanh chóng như bọt nước. Tôi ngước nh́n ngài và cảm thấy ngài muốn chia sẻ t́nh thương của ngài đối với tôi, và tôi cũng muốn chia sẻ t́nh thương của tôi đối với ngài. Ngay lúc đó ngài nh́n thằng vào mắt tôi và nói: "Con chết chưa đúng số, chưa đúng ngày giờ". Thật không có lời nói nào lại gây cho tôi một xúc động sâu xa đến thế.

Trước đây tôi không ư thức rơ mục đích của cuộc đời, tôi cứ t́m kiếm một cái ǵ và không biết điều ḿnh làm có đúng không, nhưng giờ đây chỉ nghe câu nói ấy, tôi biết rơ ḿnh có một sứ mạng nhất định, một mục đích rơ rệt mà khi xưa tôi không hề hay biết. Lúc đó tôi mới ư thức thật rơ ràng cuộc đời trần thế của tôi không phải là một cuộc đời vô nghĩa. Mạng của tôi chưa dứt v́ chưa đúng số và chỉ khi nào mục đích và ư nghĩa của cuộc đời đă hoàn tất th́ mới đến lúc từ giă cơi trần. Dù biết thế nhưng tôi vẫn phản đối: "Không, con không thể xa ngài được", và tự nhiên tôi hỏi ngài liên tiếp "Ngài là Thượng Đế sao? Là người con vẫn sùng kính cả đời sao? Ngài quả thật khác xa với những điều con nghĩ". Cứ thế tư tưởng của tôi miên man với trăm ngàn câu hỏi. Tôi muốn biết tại sao tôi chết chưa đúng số, tôi muốn hiểu rơ hơn các tín niệm mà trước đă học nhưng vẫn c̣n thắc mắc thật lạ lùng v́ câu hỏi chưa thốt ra tôi đă hiểu ngay câu trả lời. H́nh như đứng trong luồng ánh sáng của ngài, luồng sáng của sự hiểu biết, có một mănh lực tuôn tràn vào trong trí tôi tất cả sự thật. Khi đă có ḷng tin, đă để luồng ánh sáng đó tràn vào ḷng, th́ các câu hỏi đến với tôi thật nhanh chóng và câu trả lời cũng đến cùng một lúc, nhanh không thể tưởng tượng được.

Ngày trước tôi không biết ǵ về sự chết cả. Các quan niệm sai lầm về sự chết nay đă được giảng giải rơ rệt. Nấm mồ chỉ là nơi chứa đựng thể xác, một bộ quần áo cũ đă hư hỏng, chứ chẳng dính ǵ đến phần tâm linh cả. Tôi biết ngài là con Thượng Đế, và cũng chính là Thượng Đế. Ngài được chọn làm Đấng Cứu Thế khi trái đất nầy chưa được thành lập. Ngài chính là đấng Tạo Hóa. Tôi hiểu rằng ngài có sứ mạng xuống trần gian để giảng dạy về t́nh thương. Tôi hiểu các việc nầy một cách rơ ràng và chợt ư thức rằng v́ một lư do nào đó dường như đă có một tấm màn che đậy tâm trí tôi lúc mới sinh khiến tôi cứ u mê, sống trong đời mà như người mê ngủ. Các câu hỏi và câu trả lời cứ thế tuôn trào trong trí óc tôi. Nhưng Đấng Cứu Thế đă nói: "Cứ từ từ thôi, con sẽ biết tất cả những điều con muốn biết". Dĩ nhiên tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. Đây là một tính xấu của tôi. Khi c̣n nhỏ tính nầy đă làm cha mẹ tôi bực ḿnh, lúc lập gia đ́nh chồng tôi nhiều lúc đă gắt lên "vừa thôi chứ! Làm sao cái ǵ em cũng đ̣i biết hết vậy?" Nhưng hiện nay tôi thấy ḷng ham hiểu biết là một ân sủng. Tôi sung sướng v́ được tự do học hỏi. Sự lĩnh hội nầy đến một cách nhanh chóng như tôi đang đọc trăm ngàn cuốn sách một lượt. Tôi chỉ nh́n lướt qua cuốn sách là đă có thể biết được mọi chi tiết, trước sau, trong ngoài, tất cả sắc thái và nội dung, ngay lập tức. Hơn thế nữa, khi tôi đă hiểu được một điều th́ tất cả những điều liên quan như hiện ra, xen vào đó như những sợi chỉ đan vào nhau giúp tôi hiểu trọn vẹn. Danh từ toàn tri chưa bao giờ lại có ư nghĩa đối với tôi như lúc nầy. Sự hiểu biết thấm nhuần khắp thân tôi. Nó và tôi, và tôi kinh ngạc trước khả năng có thể hiểu biết các định luật vũ trụ một cách tốt đẹp như vậy.

Được bao bọc trong biển sáng chói lọi, các câu hỏi mà tôi thắc mắc từ trước đến nay bỗng dưng được giải đáp trọn vẹn. Khi xưa tôi thường thắc mắc tại sao thế giới nầy lại có nhiều tôn giáo khác nhau, tại sao mỗi tôn giáo lại phân chia thành các giáo phái? Tại sao Thượng Đế không ban cho nhân loại một tôn giáo duy nhất thuần túy mà thôi? Câu trả lời đến với tôi ngay tức khắc: Mỗi con người đều có những mức độ phát triển tâm linh khác biệt, do đó phải có những tŕnh độ hướng dẫn khác nhau. Tất cả mọi tôn giáo trên toàn cầu đều hết sức cần thiết v́ nó đáp ứng những nhu cầu khác biệt nầy. Không một tôn giáo nào có thể đáp ứng được tất nhu cầu của mọi con người, ở mọi tŕnh độ. Mỗi tôn giáo là một viên đá lót đường để đưa con người tiếp tục đi xa hơn trên con đường dẫn đến Chân Lư. Dĩ nhiên khi một cá nhân đă phát triển, đă nâng cao tŕnh độ hiểu biết về Thượng Đế th́ người đó có thể cảm thấy không thỏa măn với lời dạy bảo của tôn giáo mà người đó đă từng theo đuổi, học hỏi. Hiển nhiên người sẽ đi t́m một tôn giáo hay triết lư khác để bù đắp vào chỗ thiếu sót đó. Khi điều nầy xảy ra th́ người đó có thể đạt đến một tŕnh độ hiểu biết khác về Chân Lư, mỗi bước đươ ng đều có những cơ hội để học hỏi thêm về Chân Lư. Do đó, đă hiểu được điều nầy th́ người ta cần biết rằng chúng ta không có quyền chỉ trích bất cứ một tôn giáo nào, v́ tôn giáo nào cũng đều quan trọng và đáng quư như nhau. V́ con người không toàn thiện, toàn tri, do đó họ cần học hỏi nhiều. Tùy theo tŕnh độ hiểu biết và khả năng tâm linh mà họ được giao phó các sứ mạng, đặt vào các địa vị, trong các quốc gia hay tôn giáo, các môi trường của đời sống, để có dịp tiếp xúc với những người khác và học hỏi. Đời sống là một môi trường để thử thách, để học hỏi và muốn hiểu biết đích thực ư nghĩa của cuộc sống th́ người ta phải biết dẹp bỏ bản ngă, dẹp bỏ cái ư nghĩ rằng chính cá nhân có thể biết tất cả, mà phải khiêm tốn hơn, lắng nghe lời chỉ dẫn thầm lặng của đấng Thiên Liêng.

Nhưng tại sao đang sống trong t́nh thương tuyệt diệu của Thượng Đế mà có những linh hồn lại tự nguyện đầu thai xuống trần để học hỏi khi họ có thể t́m thấy câu trả lời lại chính nơi đây? Vừa nghĩ đến đó th́ tôi chợt kinh nghiệm ngay được sự tạo lập trái đất như sự kiện nầy đang diễn ra trước mắt tôi. Có lẽ đây là một điều quan trọng mà Thượng Đế muốn cho tôi tiếp thu được v́ trước mắt tôi cả một diễn tiến của sự tạo lập trái đất với muôn ngàn tia sáng chói lọi...

Được bao bọc trong biển sáng vô biên nầy, tôi ư thức được rằng tất cả mọi người đều là các thực thể tâm linh trước thuở khai thiên lập địa và chính họ đă góp phần vào công việc tạo lập nầy. Chúng ta đích thực là con của Thượng Đế và chính chúng ta đă phụ giúp vào công việc của ngài. Thật là một vinh hạnh lớn lao khi con người đươc góp phần vào công việc cao cả đó. Các tâm linh xuống trần là để phụ giúp việc sắp đặt các điều kiện cơi trần với các định luật của loài người, các định luật thuộc về vật lư, các giới hạn của xác thân và các quyền lực tâm linh. Tất cả mọi sự đều được tạo dựng bằng những chất liệu thiêng liêng trước khi được cấu tạo bằng các năng lực vật chất. Các tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các giải thiên hà cũng như các núi non, sông hồ hay đại dương đều được cấu tạo một cách tương tự. Tôi hiểu rằng sự tạo lập bằng những chất liệu thiêng liêng th́ rơ, trong khi phần vật chất chỉ như những âm bản lờ mờ, không rơ. Trái đất chỉ là một cái bóng của sự mỹ lệ, vinh quang mà thôi. Nó phản ánh những sự tuyệt hảo của cơi tâm linh nhưng điều quan trọng là nó phải được khám phá và khám phá ra sự toàn hảo nầy chính là mục đích của đời sống. Đây là căn bản cần thiết của sự phát triển cá nhân khi họ góp phần vào công cuộc chung của đấng tạo Hoá. Thật là khôi hài khi những cá nhân tưởng ḿnh đă phát triển ra điều nầy hay điều nọ. Họ không biết rằng các tư tưởng sáng tạo mà con người có được chỉ là do các phản ứng vô h́nh phát sinh từ các cơi trên. Những phát minh quan trọng hay những phát triển về kỹ thuật đều phát xuất từ cơi tâm linh. Chính những cá nhân ở cơi đời tiếp nhận được nguồn cảm hứng nầy rồi mới tạo ra các phát minh. Khi biết vậy th́ tôi cũng hiểu rằng đă có một mối liên hệ sâu xa và linh động nối cơi tâm linh và cơi trần. Con người cần các rung động sáng tạo của cơi trên để giúp họ tiến bộ.

Từ ngàn xưa, con người đă lựa chọn sứ mạng xuống trần để góp phần vào công việc chung, nhưng khi khoác lấy cái vỏ vật chất, họ thường quên đi mục đích chính của ḿnh. Chỉ khi trải qua các thử thách, các kinh nghiệm, con người mới hiểu rơ họ là ai và sẽ biết sống thuận theo thiên ư... Tất cả những thực thể tâm linh xuống trần đều là những thực thể dũng cảm, dù cho một kẻ kém phát triển ở cơi trần cũng là một thực thể can đảm và dũng cảm ở cơi tâm linh... Con người cần biết rằng các hành động của họ quyết định chiều hướng cuộc đời họ, do đó con người có thể thay đổi hay chuyển hướng cuộc đời họ bất cứ lúc nào. Đây là một điều quan trọng v́ Thượng Đế không can thiệp vào cuộc đời của con người trừ khi họ yêu cầu ngài. Qua sự toàn tri, ngài sẽ giúp họ đạt được các mong muốn một cách chính đáng. Nhưng hơn hết, mọi người đều có may mắn là đă được ban cho một khả năng rất quan trọng, đó là tự do ư chí và họ có thể sử dụng quyền lực đó, điều nầy cho phép con người chọn lựa niềm phúc lạc hay nỗi khổ đau, nhưng dù là đau khổ hay hạnh phúc, tất cả đều chỉ là những kinh nghiệm cần thiết để học hỏi, để nhận thức và ư thức được sự mầu nhiệm của các định luật tạo hoá...

Được bao bọc trong biển sáng của đấng Vô Cùng, tôi ư thức rằng con người cần phải biết giúp đỡ nhau, săn sóc nhau, thông cảm nhau và nhất là biết tha thứ cho nhau. Con người sống là để yêu thương v́ yêu thương chính là tinh hoa của phần tâm linh hằng có trong mỗi người chúng ta. H́nh dáng con người có thể không giống nhau, màu da có thể khác, tŕnh độ học vấn có thể chênh lệch, nhưng đó chỉ là bề ngoài mà phần phán xét nhau được. Nằm sâu trong cái vỏ vật chất khác biệt là phần tâm linh cao cả hay một t́nh thương vô biên không hề khác biệt. Ai ai cũnng có khả năng yêu thương v́ yêu thương là một năng lực bất tận, càng cho ra bao nhiêu nó lại càng tràn đầy bấy nhiêu. Dĩ nhiên mọi người đều phát triển dưới một tŕnh độ nào đó chưa đầy đủ trọn vẹn, nhưng không ai có thể đo lường mức phát triển nầy. Chỉ có Thượng Đế mới biết và chỉ có ngài mới có thể phán xét một cách hoàn toàn. Ngài biết rơ phần tâm linh của chúng ta trong khi phần lớn chúng ta chỉ thấy một vài điểm bất toàn bộc lộ ở bên ngoài chứ không thể nh́n vào tận bên trong được.

Một điều tôi biết rất rơ là bất cứ việc ǵ có tính cách biểu lộ t́nh thương hay ḷng thiện cảm đều là những hành động thuận với thiên ư, v́ Thượng Đế chính là t́nh thương. Một nụ cười, một lời khích lệ, một hy sinh nhỏ nhặt để làm vui ḷng người khác cũng làm tăng trường khả năng yêu thương vốn có nơi mọi người. Dĩ nhiên không phải ai chúng ta gặp cũng đều đáng yêu cả, nhưng khi chúng ta thấy một người thật khó thương th́ thường là họ nhắc nhở cho chúng ta một cái ǵ đó ở bên trong chúng ta mà chúng ta không thích. Tôi c̣n học được rằng, chúng ta phải biết yêu thương cả kẻ thù, phải biết xả hết mọi giận hờn cay đắng cũng như tính cố chấp, không tha thứ. Những điều nầy không những đi ngược với thiên ư mà c̣n phá hoại phần tâm linh của chúng ta. Con người được đánh giá qua việc con người ta đối xử với kẻ khác ra sao và giá trị của con người được Thượng Đế nh́n qua việc họ đă gieo rắc t́nh thương của ngài đối với thế gian như thế nào...

Được bao bọc bởi luồng ánh sáng rực rỡ của đấng Sáng Tạo, tôi đă quan sát sự tạo lập vũ trụ, chiêm ngưỡng việc những thực thể tâm linh mang lấy xác thân vật chất để kinh nghiệm sự sáng tạo, chiêm ngưỡng công tŕnh của đấng Sáng Tạo... Tôi đă thấy những người tiên phong khai phá lục địa Mỹ Châu, họ đă trải qua những khó nhọc khi vượt đại dương như thế nào, đă phải chiến đấu và khắc phục các trở ngại ra sao để hoàn tất sứ mạng được giao phó. Tôi biết rằng chỉ có những người cần kinh nghiệm nầy mới được giao phó công việc đó. Tôi c̣n thấy các đấng thiên thần vui mừng cho những người đă vượt được trở ngại để thành công, và buồn rầu khi thấy có những người không vượt qua được các trở ngại nầy. Dĩ nhiên có người thất bại v́ sự yếu kém của chính họ, nhưng cũng có khi là do sự yếu kém của kẻ khác. Nhưng dù thành công hay thất bại, tất cả đều là những kinh nghiệm cần thiết cho sự hiểu biết và phát triển cá nhân...

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ư thức được rằng tất cả chúng ta đều xuống trần v́ sự tự nguyện, và chúng ta luôn luôn nhận được những sự trợ giúp nhiều hơn điều chúng ta biết. Tôi nh́n thấy t́nh thương biên của Thượng Đế tỏa ra khắp nơi, ban phát cho tất cả các con của ngài. Tôi cũng thấy các thiên thần đứng quanh chúng ta, sẵn sàng trợ giúp và chia vui với chúng ta hoàn tất được công việc giao phó. Tôi thấy rơ ánh sáng chói lọi của đấng Cứu Thế đang ban rải khắp nơi. Toàn thân tôi như tan biến trong ṿng tay của ngài. Ngài đă cho tôi thấy tất cả những ǵ tôi nh́n thấy và giúp tôi hiểu được những ǵ tôi cần biết.

Các câu hỏi vẫn liên tiếp xảy ra trong trí tôi, và những câu trả lời cũng không ngớt tuôn trào cho đến khi nó bao trùm lên tất cả mọi phương diện về đời sống. Trí óc tôi quay về các định luật cai quản đời sống trái đất như các định luật thiên nhiên. Phần lớn con người chỉ biết đến các định luật nầy một cách qua lo mơ hồ, qua các giả thuyết hay chứng minh khoa học, nhưng đó chỉ là những mảnh vụn rất nhỏ. Các định luật được tạo ra để hoàn thành một mục đích nhất định và chúng bổ khuyết lẫn nhau cho mục đích cao cả chung. Khi con người nhận thức được các định luật nầy, học được cách sử dụng các năng lượng của chúng th́ con người sẽ vượt lên sự hiểu biết thông thường để đạt đến được những hiểu biết lớn lao và dần dần sẽ hiểu được các định luật của vũ trụ.

Tất cả mọi vật đều do quyền lực thiêng liêng tạo ra, mọi yếu tố, mọi phần tử đều có sự sống riêng, có phần tinh thần cũng như vật chất và nhờ thế tất cả đều có thể kinh nghiệm được sự sáng tạo. Mọi yếu tố có thể hành động độc lập theo khả năng của nó để đáp ứng với các định luật và mănh lực chung quanh. Tất cả đều góp phần vào một diễn tiến chung và chính bằng các quyền lực tự nhiên và các định luật sáng tạo mà đấng Hóa Công đă tạo ra trái đất nầy. Do đó, nhờ biết sống đúng với các định luật thiên nhiên, ta sẽ gặp các hậu quả do sự thiếu hiểu biết các định luật nầy. Nếu chúng ta gây ô nhiễm cho môi trường chúng ta sống th́ đó là vi phạm các định luật thiên nhiên và luật sinh tồn. Hậu quả có thể mang lại sự ốm đau, bệnh tật hay tử vong. Nếu chúng ta phí phạm xác thân vào các việc như ăn uống quá độ, ngủ nghĩ quá nhiều hoặc sử dụng các dược chất gây kích thích các cơ quan khiến suy nhược thể xác th́ chúng ta phải chịu.

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ư thức được rằng mọi định luật thiên nhiên đều được đặt ra vào những mục đích nhất định. Tất cả các thực thể tâm linh được tạo ra để kinh nghiệm sự sáng tạo và tùy theo khả năng độc lập riêng mà chúng đáp ứng với các định luật nầy một cách khác nhau. Mỗi tâm linh đều có chủ quyền đối với phần tử vật chất của nó và đây là một điểm hết sức quan trọng. V́ mọi vật đều được cấu tạo bằng những chất liệu thiêng liêng trước khi khoát lấy cái vỏ bằng vật chất nên phần tâm linh bên trong mới thực sự là chính. Nó có bổn phận kiểm soát, sai khiến cái vỏ vật chất bên ngoài. Sự sa đọa chẳng qua là việc thiếu ư thức, quên mất cái nguồn gốc thiêng liêng, sống hời hợt, tuân theo dục vọng của cái vỏ vật chất. Đáng lẽ ra mọi hành động hay phản ứng của cái vỏ nầy phải là sự thể hiện hay phản ảnh của yếu tố tâm linh, vốn cấu tạo bằng chất liệu từ đấng Sáng Tạo v́ "con người được tạo ra qua h́nh ảnh của đấng Sáng Tạo" nhưng đa số đă không hiểu rơ việc nầy. Tuy nhiên ảnh hưởng của cái vỏ vật chất tầm thường kia không thể xâm lấn hay ảnh hưởng ǵ đến phần tâm linh được. Đối với người thiếu ư thức, không có ḷng tin th́ phần tâm linh sẽ tạm thời tiềm ẩn cho đến khi được thức động bởi một yếu tố hay hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Có lẽ v́ thế nên cuộc đời luôn luôn là những thử thách để nhắc nhở con người hăy tỉnh thức quay về với Thượng Đế, quay về với cái quê hương tinh thần lúc nào cũng sáng chói, đầy ân phước, hoàn hảo và tốt đẹp. Muốn sống một cách trọn vẹn, chúng ta phải biết làm sao cho phần tâm linh của chúng ta trở nên tốt đẹp, và không cách nào hữu hiệu hơn việc chân thành cầu nguyện, mở rộng cách cửa tâm hồn cho phần tâm linh được bay bổng, hướng thượng và trở về với cái quê hương tinh thần của nó. Đó là ư nghĩa cao đẹp nhất của sự sống.

phale
28-10-11, 09:04 AM
Khi kinh nghiệm được điều nầy tôi muốn hét to lên quá sung sướng, tôi hiểu và đấng Cứu Thế cũng biết rằng tôi đă lănh hội được điều ngài muốn dạy, cặp mắt tinh thần của tôi tự nhiên mở rộng ra để thấy rằng Thượng Đế đă tạo ra biết bao nhiêu vũ trụ, ân phước của ngài tràn đầy khắp nơi mà một người b́nh thường khó có thể hiểu được. Mọi năng lực trong vũ trụ, dù lớn hay nhỏ, dù tích cực hay tiêu cực cũng đặt dưới quyền lực của ngài.

Theo luật thiên nhiên, tích cực hấp dẫn tích cực và tiêu cực thu hút tiêu cực. Ánh sáng theo ánh sáng và bóng tối thích bóng tối, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nếu chúng ta phát triển các khả năng tiêu cực hay tiêu cực, chúng ta sẽ hấp dẫn và kết hợp với những người có khả năng tương tự. Khi nghĩ đến điều thiện, điều tốt th́ chúng ta sẽ thu hút các luồng điện lành trong vũ trụ, và trái lại khi nghĩ đến các điều ḿnh tham lam, ích kỷ th́ môi trường chung quanh sẽ hấp dẫn các luồng điện xấu kéo đến. Tôi nh́n thấy rơ các mănh lực xoay vần chung quanh mọi người tùy theo tư tưởng và hành động của họ. Tôi thấy rơ lời nói, hành động của họ ảnh hưởng đến các địa hạt chung quanh như thế nào và lôi kéo những năng lực vô h́nh trong thiên nhiên ra sao. V́ tương lai của con người là một sức mạnh có thể tạo ra những hoàn cảnh, do đó việc kiểm soát tư tưởng rất quan trọng. Sự vận hành của tư tưởng giống như một tia chớp phát sinh, thu hút những năng lượng trong thiên nhiên. Những năng lượng nầy lúc đầu mong manh như những sợi tơ, dần dần kết lại thành những mănh lực, giống như tơ dệt thành vải, và trở thành một sức mạnh lớn lao có thể tạo ra những hoàn cảnh hay thay đổi nó một cách mầu nhiệm. Diễn tiến của tư tưởng xảy ra rất nhanh nên chúng ta cần biết kiểm soát các tư tưởng, nhất là các tư tưởng tiêu cực, phải thận trọng lời nói và nên tập cách giữ im lặng trong các hoàn cảnh tiêu cực...

Khi hiểu biết được sức mạnh của tư tưởng, tôi lại hiểu thêm một lần nữa về sức mạnh của t́nh thương. T́nh thương luôn luôn điều động phần tâm linh và phần tâm linh sai xử các cơ quan vật chất. Nhưng t́nh thương phát xuất từ đâu? Hiển nhiên là từ Thượng Đế. Không có t́nh thương th́ Thượng Đế đă không tạo lập ra vũ trụ nầy, do đó trước hết chúng ta phải biết yêu thương ngài. Biết yêu ngài chính là biết mở rộng trái tim ḿnh để cho ngài rót vào đó những năng lượng đầy yêu thương của ngài, và đó chính là t́nh thương lớn lao nhất. Sau đó phải biết sử dụng cái năng lượng mà ta vừa nhận được để điều ḥa phần tâm linh, để cho nguồn thương yêu nầy đi xuyên qua thân thể ta, ảnh hưởng đến tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta. Sau cùng phải biết ban rải nguồn thương yêu đó cho mọi người chung quanh, nhưng ta phải nhớ rằng chỉ khi trái tim ta tràn đầy t́nh thương th́ ta mới có thể ban phát t́nh thương đó cho người khác được. Khi trái tim ta tràn đầy t́nh thương th́ ta mới có thể ban phát t́nh thương đó cho người khác được. Khi trái tim của ta khép kín đối với t́nh thương của đấng thiêng liêng th́ bất cứ điều ǵ chúng ta làm cho người khác đều chỉ là những việc có tính cách vị lợi, ích kỷ chứ không phải là bác ái, vị tha.

Một khi đă ư thức được năng lượng của Thượng Đế hiện diện trong ta th́ ta cũng ư thức được nguồn năng lượng của ngài hiện diện ở nơi khác. Dĩ nhiên ta không thể nào không thương yêu cái phần đó của ngài trong kẻ khác được. Từ đó tôi hiểu rằng khi không biết yêu kính Thượng Đế, chúng ta đă từ chối cái năng lượng của t́nh thương từ cơi trên trút xuống, cánh cửa tâm hồn ta đóng chặt lại và đời sống sẽ dần dần trở nên khô khan, lạnh lùng. Khi trái tim ta không nhận được t́nh thương th́ làm sao nó có thể yêu thương cho được! Khi ḷng chúng ta đầy những nhỏ nhen. Ích kỷ th́ làm sao ta có thể ban rải những năng lượng của t́nh thương cho người khác? Mọi sự thương yêu nếu có, đều chỉ là những vay mượn giả tạo, những toan tính hơn thiệt, những lợi dụng đ̣i hỏi, và chắc chắn đó không phải là t́nh thương chân thật.

Được che chở trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ư thức rằng đă có lúc tôi nghi ngờ ngài, sợ ngài không thương yêu tôi. Khi tôi tôi nghĩ rằng ngài không yêu thương tôi là lúc tôi rời xa ngài nhưng thật ra không phải thế. Nay tôi ư thức rơ rệt rằng ngài chính là mặt trời, c̣n tôi chỉ là một hành tinh bé nhỏ xoay quanh mặt trời, khi gần, khi xa nhưng ánh sáng hay t́nh thương của ngài th́ không bao giờ thay đổi cả. Tôi nhớ lại những lư do hay hoàn cảnh khi xưa mà tôi đă xa lánh ngài. Tôi biết có những người làm tôi xa lánh ngài nhưng ḷng tôi không hề cảm thấy khó chịu hay cay đắng. Những người nay thật sự ra chỉ là nạn nhân của sự thiếu hiểu biết. Họ đă dạy về Thượng Đế bằng sự sợ hăi. Mục đích của họ có thể tốt nhưng tư tưởng và hành động của họ lại tiêu cực. Chính v́ nghi ngờ mà họ không thể cho t́nh thương của Thượng Đế xuyên qua họ. Họ đă khép kín con tim lại và cố gắng trấn áp sự trống rỗng đó bằng lư luận đầy sợ hăi. V́ sợ hăi nên họ đă thu hút các mănh lực của sự sợ hăi và đă dạy bảo qua sự sở hăi nầy. Họ hăm dọa, bắt buộc kẻ khác phải tin ở Thượng Đế, đưa ra các h́nh phạt ghê gớm khiến mọi người phải sợ ngài và dĩ nhiên người ta không thể thương yêu một Thượng Đế như thế được. Làm sao người ta có thể thương yêu trong sợ hăi? Làm sao người ta có thể hạnh phúc khi bị áp chế? Làm sao phần tâm linh có thể phát triển khi tinh thần bị bóp nghẹt? Khi tâm hồn đă khép chặt th́ định luật về t́nh thương đă bị bẻ găy rồi.

Đấng cứu thế nh́n tôi mỉm cười như khuyến khích. Ngài vui mừng v́ thấy tôi đă kinh nghiệm được những điều cần thiết. Giờ đây tôi hiểu rằng chỉ có một Thượng Đế duy nhất. Không những tôi không tin có những định luật đại đồng điều khiển tất cả mà biết rằng đằng sau đó c̣n có một đấng tối cao nữa. Tôi hiểu rơ rằng vũ trụ nầy được tạo ra do t́nh thương của ngài và Thượng Đế chính là một t́nh thương thiêng liêng, bao la bất tận.

Được che chở trong luồng ánh sáng của ngài, gịng ư thức của tôi cứ tuôn chảy không ngưng với các câu hỏi và câu trả lời. Khi đă hiểu được các định luật thiên nhiên và t́nh thương của đấng Cứu Thế, tôi bắt đầu hiểu được những mănh lực nầy có thể ảnh hưởng đến chúng ta trên phương diện vật chất như thế nào. V́ các yếu tố tâm linh trực tiếp ảnh hưởng đến vật chất nên khi phần tâm linh mạnh mẽ, nó sẽ ban cho phần vật chất những năng lực dồi dào, giúp thể xác có thể tránh được các bệnh tật hay chữa lành những vết thương. V́ tư tưởng có thể lôi cuốn những mănh lực trong không gian, tích cực cũng như tiêu cực, nên khi con người mất niềm tin, tuyệt vọng, chán nản th́ họ sẽ vô t́nh thu hút các mănh lực tiêu cực và làm cho sự bảo vệ thân xác trở nên yếu dần để bệnh tật từ đó sinh ra. Khi người ta đă mất niềm tin, người ta thường đóng kín phần tâm linh lại, chỉ biết nghĩ ḿnh một cách ích kỷ. Khi trái tim bị bóp nghẹt với các mănh lực tiêu cực nầy th́ con người chỉ c̣n biết đ̣i hỏi, xin xỏ một cách vô lư và càng không thỏa măn, người ta càng tiêu cực càng mất niềm tin và càng ngày càng tự hủy hoại ḿnh một cách đáng thương. Chỉ khi nào biết dẹp bỏ cái bản ngă chật hẹp, tham lam đó và mở rộng tâm hồn cho ánh sáng của Thượng Đế rót vào, không nghĩ đến ḿnh hay cho ḿnh, mà chỉ nghĩ đến sự điều ḥa tuyệt diệu của một trật tự chung, của một quyền lực thiêng liêng cao cả, th́ khi đó các mănh lực tiêu cực mới bị đanh tan và chúng ta có thể khỏi bệnh mật cách mầu nhiệm.

Tất cả những việc chữa bệnh đều phải bắt đầu từ bên trong v́ như tôi đă kinh nghiệm, phần tâm linh mới là chính, cái vỏ vật chất bên ngoài chỉ là phụ thuộc. Dĩ nhiên bàn tay của một y sĩ hay thuốc men có thể giúp người ta giảm bớt đau đớn do bệnh tật nhưng việc chữa lành tuyệt của căn bệnh hoàn toàn do các yếu tố tinh thần. Thể xác mà thiếu tinh thần th́ không thể sống được, cũng như, tinh thần suy kiệt chính là nguyên nhân của những căn bệnh trầm kha ngày nay. Tiếc thay con người ngày nay đă quá tin tưởng vào sự "thần diệu" của thuốc men, của kiến thức y học mà quên đi sự mầu nhiệm của đấng tối cao lúc nào cũng sẵn có, và luôn luôn tác động một cách huyền bí, khó giải thích.

Thân xác chúng ta được cấu tạo bằng những tế bào. Những tế bào nầy được sắp đặt trong một chương tŕnh tuyệt hảo để có thể nuôi dưỡng sự sống. Chúng tự thay đổi, sinh sản và loại trừ những tế bào đă cũ, đă hư hỏng, hay thiếu hiệu năng. Mặc dù chúng thu hút các chất bổ dưỡng từ môi trường chung quanh nhưng cái chương tŕnh tuyệt hảo điều động chúng làm việc chính là phần tinh thần hay tâm linh nằm sâu ở bên trong mọi chúng ta. Cũng như thế, phần tâm linh của chúng ta nhận sự điều động từ t́nh thương của đấng Thượng Đế, do đó khi nó khép chặt cách cửa nầy, không tin tưởng hoặc phủ nhận ngày, th́ nó sẽ phá hoại các chương tŕnh tuyệt diệu đang điều hành phần vật chất của chính nó, và từ đó bệnh tật có cơ hội phát sinh. Nói một cách khác, bệnh tật chẳng qua chính là sự hủy hoại trên một phương diện thâm thúy nào đó. Khi con người nản chí ngă ḷng, họ thường thốt ra những câu như "tôi đau", "tôi nhức", "tôi bị bỏ quên", "tôi khổ quá", "tôi không thể chịu đựng được",... Phải chăng luôn luôn có "cái tôi" trong những câu than van đó? Phải chăng không những ḿnh đă chấp nhận cái tiêu cực đó là của ḿnh và c̣n đón nhận nó vào bên trong nữa?

Giờ đây tôi chợt thấy chính ḿnh là nguyên nhân của những căn bệnh ḿnh mắc phải. Mọi sự kiện đă xảy ra đều do ḿnh đă chấp nhận nó như thế. Muốn chữa bệnh, việc đầu tiên là phải thay đổi sự suy nghĩ tiêu cực bằng những hành động và lời nói tích cực, người ta nên bắt đầu bằng sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không có nghĩa là đ̣i hỏi, van lơn hay mong cầu một cách ích kỷ mà là biết chấp nhận việc đă xảy ra, rồi đặt tất cả vào tay Thượng Đế để ngài hành động. Phải biết chân thành cầu nguyện th́ sức mạnh của đức tin sẽ thu hút được các luồng thần lực trong vũ trụ giúp chúng ta chữa lành căn bệnh. Điều quan trọng là chúng ta không nên chói bỏ sự hiện hữu của bệnh tật hay các nỗi khó khăn, nhưng phải biết chối bỏ sức mạnh của nó đối với chúng ta. Chúng ta cần sống với đức ti chứ không phải chờ khi có kết quả rồi mới tin tưởng. Sự nh́n thấy kết quả hay nhận thức vốn là hoạt động của trí năo, mà trí năo thường phân tích, chứng minh và hợp lư hóa mọi vần đề. Nó chỉ là những lư luận của thể xác, không thể so sánh với đức tin vốn được phần tâm linh điều khiển. Phần tâm linh xây dựng trên các yếu tố cảm xúc, chấp nhận và tiếp thu. Muốn có đức tin, chúng ta phải biết cách mở rộng cơi ḷng để có thể cảm nhận được các năng lực cao cả của đấng thiêng liêng. Phát triển đức tin giống như người đi gieo hạt, dù có vài hạt rơi rớt ra ngoài nhưng tựu trung chúng ta vẫn gặt hái được kết quả. Bất cứ hành động nào xây dựng trên đức tin chân thành chắc chắn có kết quả và đó là định luật thiêng liêng.

Cho đến lúc đó tôi mới thấy được sức mạnh của tinh thần tác dụng trên vật chất biết là mạnh mẽ biết chừng nào. Đây là một điều mà trước đây tôi không hề biết đến, mà đa số có lẽ đa số mọi người cũng không mấy ai để ư. Tôi thấy tinh thần có những hoạt động riêng biệt mà trí óc không thể hiểu được. Tinh thần thường xuyên giao thiệp với các nguồn thần lực phát xuất từ Thượng Đế. Nó là khi cụ tiếp nhận sự hiểu biết và sáng suốt của ngài. Tôi nh́n thấy cái phần tinh thần nầy sáng chói giống như một bóng đ èn điện trong thân xác con người. Khi nó tỏa sáng th́ trung tâm chúng ta tràn đầy ánh sáng và t́nh thương, và chính mănh lực nầy cho thể xác sự sống và sức mạnh. Khi nó yếu đi th́ tinh thần con người suy giảm và thể xác của con người bắt đầu có dấu hiệu của sự tàn tạ, tiêu vong. Điều đáng nói ở đây là đa số con người lại không nghĩ như vậy. Họ bỏ ra rất nhiều thời gian để săn sóc cái thể xác tạm bợ nầy. Lo cho nó ăn thật ngon, ngủ nghỉ thật nhiều, chăm sóc cho các nhu cầu của nó mà không hề biết lo cho phần tinh thần. Tôi c̣n biết rằng chính chúng ta đă chọn bệnh tật cho chính ḿnh qua thái độ của chúng ta trước cuộc sống. Những người tham lam, ích kỷ chỉ thu tập vào chứ không biết cho ra, đă vô t́nh thu hút những năng lực tiêu cực vào ḿnh và đó là một trong những nguyên nhân của bệnh ung thư. Các tế bào tích tụ các năng lực nầy sẽ phát triển bất thường, sưng phồng lên thành các cục bướu. Những người sử dụng quyền lực đ àn áp, ức hiếp người khác sẽ thu hút các mănh lực tiêu cực và các mănh lực nầy sẽ bóp nghẹt tim hay phổi. Tuy nhiên bệnh tật c̣n là những bài học rất tốt giúp chúng ta phát huy phần tinh thần và sự học hỏi đau đớn khi bị bệnh sẽ giúp người đó ư thức hơn về hậu quả các hành động của họ.

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của Thượng Đế. Tôi biết rằng sự chấp nhận tất cả là một kinh nghiệm quan trọng. Khi biết chấp nhận các sự kiện tiêu cực đă xảy ra và gắng sức vượt qua, người ta học được cách vô hiệu hóa các mănh lực tiêu cực nầy và đó chính là bài học quan trọng mà con người cần phải học. Tôi ư thức rằng con người có thể chữa lành chính họ qua việc chấp nhận để phát triển, khởi đầu là tinh thần, t́nh cảm, trí năo và sau cùng là đến thể chất v́ ai cũng có quyền sống một cuộc đời sung măn. Con người cần biết xả bỏ dĩ văng, đă phạm lỗi th́ cần biết ăn năn và sửa đổi, nếu làm tổn hại cho người khác th́ phải biết cách chuoc lại những lỗi đó, nếu làm tổn hại tâm linh ḿnh th́ phải biết cầu xin t́nh thương của Thượng Đế để chữa lành. Khi ngă th́ biết tiếp tục đứng dậy và đi nữa, dù có ngă cả triệu lần người vẫn có thể đứng dậy và tiếp tục v́ đó là bài học mà họ cần phải học.

Kinh nghiệm được điều nầy tôi thấy rằng tuyệt vọng chính là một sự kiện ghê gớm mà ta cần phải tránh. Đôi khi sự tuyệt vọng, ngă ḷng, thối chí có thể dẫn đến t́m một lối thoát bằng cách tử tự. Đó là một hành động sai lầm, có tính cách nhất thời, làm lỡ cơ hội học hỏi ở trần thế và khi bước qua cơi sáng nh́n lại, ta sẽ tiếc nuối cái cơ hội học hỏi nầy biết bao.

Con người cần biết rằng họ xuống trần để học hỏi, kinh nghiệm và điều quan trọng là không nên khắt khe quá đáng với chính ḿnh. Chúng ta cần đi từng bước một, kinh nghiệm từng sự kiện một, không lo lắng trước sự phán đoán chê trách của người đời và cũng không lấy thước đo của họ mà đo lường hành động của chúng ta. Chỉ có Thượng Đế là người phán xét duy nhất và chúng ta có trách nhiệm định luật đối với các định luật thiêng liêng của ngài. Tôi biết rằng tất cả sự sáng tạo đều khởi đầu bằng tư tưởng nên mọi tội lỗi, lầm lạc, tuyệt vọng, hy vọng, sự ghen ghét hay t́nh thương cũng bắt đầu từ tư tưởng. Cũng như thế, bệnh tật hay sự chữa lành bệnh cũng bắt đầu từ tư tưởng. Tóm lại, chúng ta có thể tạo hạnh phúc hay đau khổ co chính chúng ta qua tư tưởng.

Được che chở trong luồng ánh sáng tuyệt vời, tôi thấy rơ trái đất đang xoay trong không gian như không hiểu sao lại có những tia sáng từ đó phát ra như những ngọn hải đăng. Có những tia sáng thật mạnh nhưng cũng có những tia sáng yếu ớt và bất chợt hiểu được rằng đó là những lời cầu nguyện của người trần thế. Những lời cầu nguyện chân thành, tràn đầy đức tin th́ mạnh mẽ và thường được đáp ứng ngay, trong khi những lời van xin, đ̣i hỏi, lặp đi lặp lại th́ không mấy khi phát ra ánh sáng. Tôi c̣n biết rơ những lời cầu nguyện có tính cách hứa hẹn, mua chuộc của những người muốn ao ước một cái ǵ đó cho ḿnh. Họ hứa hẹn với Thượng Đế sẽ làm thế nầy hay thế nọ nếu lời cầu xin được toại ư, như để ngài là một người sẵn sàng mua bán, trao đổi với họ. Thực sự họ không hề có đức tin và luôn luôn nghi ngờ v́ khi không toại ư họ thường nổi giận mà không biết rằng tự hào đă tạo ra một hàng rào ngăn cách giữa họ và Thượng Đế. Giờ đây tôi hiểu rằng không những Thượng Đế nghe được tất cả mọi lời cầu nguyện của thế gian mà c̣n biết rơ nhu cầu của người khác khi họ cầu nguyện nữa.

Kư ức tôi tự nhiên mở rộng. Tôi có thể thấy được những kỳ công của đấng Sáng Tạo từ những thai dương hệ xa xưa đến những giải thiên hà nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Tôi cảm thấy như có một mănh lực nào đó thúc giục, ḷng ham hiểu biết trổi lên và tôi thấy ḿnh đang đi trong một khoảng không gian vô tận. Mặc dù chung quanh tối đen nhưng tôi không hề thấy sợ hăi. Tôi thấy người nhẹ nhơm có thể bay bổng hay làm tất cả những ǵ tôi muốn. Tôi tự do vùng vẫy trong khoảng không gian thênh thang nầy và bất chợt ư thức rằng ngay cả khoảng trống dường như không có ǵ nầy cũng tràn đầy t́nh thương của Thượng Đế. Tôi nghe thoang thoảng đâu đây một âm thanh êm dịu, vui tươi và thấy hết sức thoải mái. Th́ ra âm thanh nầy có mănh lực chữa lành mọi sự. Nó giống như lời an ủi thiêng liêng, biểu lộ một t́nh thương không bờ bến có thể hàn gắn mọi đổ vỡ tâm linh. Đến lúc đó tự nhiên tôi hiểu biết về sức mạnh của âm thanh với các công năng mầu nhiệm của nó. Nếu một nhạc sĩ cảm xúc được nguồn sáng tạo cao cả nầy, họ có thể soạn được những bản nhạc tuyệt vời, có thể hướng dẫn tâm hồn người nghe rung động với nhịp sống của vũ trụ, nhưng nếu một nhạc sĩ thiếu ḷng tin, không biết mở rộng tâm hồn, sẽ soạn ra những nhạc điệu tiêu cực khiến tâm trí người nghe bị xáo trộn, xác thân thêm bệnh hoạn v́ các nhịp điệu có tính cách hủy hoại.

Tôi tiếp tục thăm viếng những hành tinh, những giải thiên hà, những thế giới khác với thế giới của chúng ta nhưng trong đó cũng có dân cư, sinh vật và tôi biết rằng tất cả đều là con của Thượng Đế cũng như chúng ta, nhưng không hiểu sao tôi không nhớ rơ chi tiết những chốn nầy mà chỉ c̣n các ấn tượng mà thôi. Sau nầy khi trở lại cơi trần tôi thấy ḿnh dường như bị lừa gạt v́ đă không nhớ được nhiều về các cơi giới mà tôi đă đi qua, nhưng tôi biết rằng sự kiện nầy thực ra có ích cho tôi. Nếu có thể ghi nhận những nơi chốn tốt đẹp ấy th́ biết đâu tôi lại chẳng chán ngán cuộc sống hiện tại và có thể làm cho đời sống mất đi cái ư nghĩa đích thực của nó...

Tự nhiên tôi thấy ḿnh đang bước đi trong một đường hầm tối đen và tôi biết rằng đă đến lúc tôi phải trở về. Tôi nghe văng vẳng đâu đây cả ngàn tiếng ca hát khuyến khích. Lời ca hết sức hùng mạnh và tràn đầy một t́nh cao cả vô bờ bến. Trái tim tôi rung động ḥa nhịp với t́nh thương bao la đó khiến tôi cảm động muốn ̣a lên khóc. Tôi không bao giờ tin được một người tầm thường như tôi lại có diễm phúc được hưởng một ân phước lớn lao như vậy, nhưng tôi cũng biết rằng trong cơi vĩnh cửu không có ai là tầm thường cả. Mọi linh hồn đều có một giá trị vô cùng cao cả v́ tất cả đều bắt nguồn từ đấng sáng tạo.

Tôi thấy ḿnh đang đứng trong căn pḥng bệnh viện, cửa vẫn khép hờ, ngọn đ èn trên bồn rửa mặt vẫn leo lét sáng và thể xác tôi vẫn nằm yên trên giường. Tôi nh́n cái vỏ vật chất lạnh lẽo bất động đó và có cảm tưởng dường như đó là một bộ quần áo củ mà người ta thường lượm ở đâu về. Tôi đang được tắm gội trong biển ánh sáng đẹp đẽ biết bao mà nay phải mặc lại bộ quần áo nặng nề, lạnh lẽo như thế nầy sao? Tuy nhiên tôi ư thức được nhiệm vụ giao phó và lời đấng Cứu Thế đă dặn ḍ nên đ ành phải trở lại với nó. Tôi cảm thấy như có một luồng điện giật mạnh khiến toàn thân tôi rung động và chợt ư thức được sự đau đớn của vết thương trên da thịt. Ba người bạn thân đă xuất hiện ngay bên cạnh giường. Họ nh́n tôi âu yếm như chia sẻ với tôi về sự đau đớn mà tôi đang trải qua. Tôi cố gắng nói với họ nhưng sao cứ thềo thào không thành tiếng. Tôi muốn cảm tạ tạo họ về t́nh bằng hữu bất diện. Tôi muốn thốt lên "Tôi thương các bạn" nhưng không sao nói nên lời. Tôi đ ành nh́n họ bằng cặp mắt chan chứa lệ và họ cùng nh́n tôi bằng ánh mắt đầy thiện cảm, dường như họ hiểu điều tôi muốn nói. Tự nhiên tôi nghe văng vẳng một lời chúc lành, đồng thời một sức mạnh kỳ diệu, êm ái, b́nh an đưa tôi ch́m dần vào một giấc ngủ đẹp đẽ.

Khi tôi tỉnh vậy th́ đồng hồ trên bàn chỉ đúng hai giờ sáng. Như vậy tôi đă "chết" được hơn bốn tiếng đồng hồ. Trong bốn giờ đó tôi đă kinh nghiệm được bao nhiêu điều. Tôi nằm im, ôn lại những chuyện đă xảy ra, cảm thấy ḷng tràn trề sung sướng v́ đă được gặp đấng Cứu Thế và ở trong ṿng tay của ngài. Tôi cảm thấy khỏe khoắn hơn và ánh sáng của ngài sẽ tiếp tục soi sáng tôi, đem lại cho tôi sự che chở và an ủi khi cần. Tôi cũng biết rơ rằng Thượng Đế chính là t́nh thương, và xuyên qua t́nh thương của ngài, niềm vui lớn lao nhất sẽ đến. Tôi đă nh́n thấy các phần thưởng tuyệt diệu của nó, đă kinh nghiệm được rằng chết không phải là điều ǵ đáng sợ. Điều quan trọng của cuộc đời không phải t́m cách tránh né sự chết hay quá lo sợ v́ nó nhưng để sống, sống một cách thoải mái, trọn vẹn trong t́nh thương của Thượng Đế. Các kinh nghiệm mà tôi ghi nhận lại đây chỉ có ư nghĩa khi nó có thể giúp con người thay đổi thái độ của họ đối với cuộc sống, hiểu rằng mục đích của đời sống chính là để yêu thương, mọi việc khác chỉ là phụ thuộc.

Tôi nghe văng vẳng đâu đây lời dặn ḍ cuối cùng của Thượng Đế, một thông điệp rất giản dị mà ngài vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Các con hăy yêu thương lẫn nhau".

phale
28-10-11, 09:06 AM
Chương 3

Những Người Chết Sống Lại

Một Vài Trường Hợp Đặc Biệt Khác
Lời dịch giả:

Sau cuốn "Embraced by the Light" dẫn đầu về số bán, lại có các cuốn "Saved by the Light", "Closer to the Light", "Into the Light", "Life after life", "Reflection on the after life", "Life at Death", "Return from Death",... Cuốn nào cũng bán rất chạy, phá kỷ lục trong các loại sách tâm linh và lôi kéo theo nhiều cuộc tranh luận hết sức sôi nổi. Chi tiết các cuốn sách trên không khác nhau bao nhiêu, ai cũng kể rằng sau khi chết họ thấy ḿnh được bao trùm trong một luồng ánh sáng êm dịu, tinh khiết, và được hướng dẫn về tinh thần. Tất cả đều kết luận rằng chết không phải là điều ghê gớm đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ mà chỉ là một sự "chuyển tiếp" giữa các kiếp sống, một kinh nghiệm tâm linh mà những ai trải qua sẽ không thể quên được. Mặc dù những cuốn sách trên ghi nhận hàng trăm những trường hợp người chết sống lại, chúng tôi chỉ lựa chọn một vài trường hợp đặc biệt để cống hiến quư vị độc giả... Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Hary Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston v́ chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đă chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn pḥng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám va xác nhận bà lăo đă hồi sinh. Trường hợp bệnh nhân đă tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có ǵ lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đă nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

"Tôi đang ngồi nhà đọc báo th́ thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tôi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết ḿnh đang ở đâu. Tôi lên tiếng kêu gọi nhưng vô hiệu. Tôi ṃ mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc th́ nhận thức rằng có lẽ ḿnh đă chết. Tôi biết ḿnh mắc chứng đau tim đă lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng c̣n sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn. Điều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều nầy th́ tôi thấy ḿnh đang đứng ngay bên cạnh giừ¬ng quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc úc động tôi cố gắng tự trấn tĩnh và tự nhủ rằng ḿnh sống như thế cũng là đủ rồi. Trong khi xúc động th́ luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện th́ thấy ḿnh dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đăng hơn.

"Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bổng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy ḿnh lơ lửng trên không nh́n xuống phía dưới. Lúc đó ở trên cao nh́n xuống, tôi thấy một chùm ch́a khóa màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để ch́a khóa trên đó làm chi? Đang suy nghĩ vẩn vơ th́ tôi thấy ḿnh đă đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận bóng rổ trên tivi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào. Đa số có vẻ vội vă, có người hoảng hốt là đ àng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác ḿnh một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. V́ một lư do ǵ không rơ, tôi hiểu ngay sự bạn tâm của anh ta v́ không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đă lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất b́nh tĩnh theo nên tôi đ ành bỏ anh ta ở đó mà đi ra chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy ḿnh đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu. Mỗi khi trong người khó chịu th́ lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hăi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai th́ thấy ḿnh đang đứng cạnh chúng. Hai đứa con đang bàn việc tôi đă không chịu mua bảo hiểm nhân thọ... Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại đọc rơ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó lâu tôi càng bực bội và hai đứa cứ căi nhau măi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Đến lúc đó tôi lại nghĩ đến cuộc đời ḿnh. H́nh như tôi đă sống một cách ích kỷ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rơ những quyết định của ḿnh, những lỗi lầm mà tôi đă tạo. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rơ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó, v́ sao tôi đă hành động như vậy, tại sao tôi lại làm việc đó... Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao ḿnh lại có thể b́nh tĩnh nhận xét như thế được. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rơ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của ḿnh. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất. Tôi là một người quá tự hào về ḿnh, quá hănh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng nhiều điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cơi sống nầy. Chính v́ tự hào mà tôi đă khoác lên ḿnh những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lư trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đă làm? Chưa bao giờ tôi lại có ư nghĩ lạ lùn như vậy và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện. Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy b́nh tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Đế hăy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mănh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được cá âm thanh quen thuộc. Tôi thấy minh đang nằm trên giường bệnh viện... Tôi đă tỉnh lại"

Lời khai cua ba Houghton đă được bác sĩ Elizabeth Kubler Ros kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có ddaasmnhs cuộc với nhau về trận bónh rổ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đă thuật lại. Hai đứa con của bà Hughton cũng xác nhận họ đă căi nhau về việc mua bảo hiểm và tiền bồi chôn cất. Điều bất ngờ nhất là một bác sĩ đánh mất chùm ch́a khóa xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghon mà ông nhớ rằng rong lúc vội vă, ông đă ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ nầy rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đứng dưới đất không thể nh́n thấy nó được nên mặc dù t́m kiếm măi mà vẫn không ai thấy..trừ khi họ đứng trên trần nhà mà nh́n xuống.

Điều bà Houghton kể lại cũng trùng với rất nhiều bệnh nhân đă chết rồi lại hồi sinh như vậy. Đa số đều xác nhận một trạng thái nhẹ nhàng, thanh thản trong một bầu ánh sáng trong suốt như pha lê. Tuy nhiên thế giới bên kia không phải chỉ là những bầu ánh sáng rực rỡ mà c̣n có sự tiếp xúc với những vong linh khác như trường hợp của Steve Buckley sau đây mà chúng tôi trích từ Comment la vie continue après la motr của Prentiss Tucker.

Steve Buckley là một tân binh vừa nhập ngũ. Anh được huấn luyện tại một căn cứ quân sự tại tiểu ban Carolina. Trong buổi thực taajp cách gài ḿn, gỡ ḿn th́ một quả ḿn đă nổ ngay gần chỗ anh đứng. Tuy thân thể không bị thương nhưng anh bị sức chân động làm ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện. Mọi phương pháp làm hồi sinh đều vô hiệu. Khi đến bệnh viện một y sĩ khám xác nhận là anh đă chết. Xác anh được quàn tạm trong nhà xác chờ thông báo cho thân nhân. Khoảng vài giờ sau đó, anh tỉnh dậy trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau đó anh đă thuật lại câu chuyện như sau:

"Tôi không hề ư thức ǵ về quả ḿn nổ, tôi chỉ biết rằng bỗng dưng tất cả đều im lặng, một thứ im lặng, một thứ im lặng tuyệt đối. Tôi lên tiếng gọi lớn nhưng không nghe ai đáp lại, cả sân tập bỗng trở nên vắng hoe, bao nhiêu bạn đồng ngũ bỗng dưng biến đâu hết. Tôi đang phân vân chưa biết phả lam ǵ th́ thấy có một người mặc thường phục, tay cầm một cây dù đang đứng giữa băi ḿn. Tôi tự hỏi tại sao giữa quân trường lại có một thường dân đứng khơi khơi như vậy? Lúc đó trời rất quang đăng mà tại sao người nầy cầm dù? Người lạ nh́n tôi mỉm cười và rảo bước đến bên tôi. Tôi bèn la lớn để cảnh báo ông rằng ông ta đang đi trên một băi ḿn nhưng chưa kịp nói ǵ th́ ông ta đă đến sát cạnh. Ông lên tiếng bằng một giọng thân mật:

- Có phải cháu Steve đó không? Tôi là cậu Jules đây.

Rồi ông ta thân mật hỏi thăm về mọi người trong gia đ́nh tôi như một người thân thuộc. Không những ông ta biết rơ gia đ́nh tôi mà c̣n biết đến cả con chó Basette mà mẹ tôi rất cưng nữa. Linh tính báo cho tôi bieet một sự chẳng lành. Tôi nhớ mang máng rằng mẹ tôi có một người em ruột tên là Jules nhưng ông ta đă chết từ lâu rồi kia mà. Ông Jules thong thả nói,

- Nầy cháu Steve, mẹ cháu nhớ cháu lắm đó. Hôm nay bà làm món lassagna, một món mà cháu rất thích ăn.

Tôi đâm ra bối rối:

- Làm sao ông biết được? Ông Jules mỉm cười một cách bí mật:

- Thế cháu có muốn về thăm nhà không?

Tôi ấp úng đáp:

- Làm sao có thể về được? Nhà tôi ở tận New York kia mà... Hơn nữa tôi đang thực tập quân sự, phải sáu tháng nữa mới được về phép.

Ông Jules mỉm cười nắm lấy tay tôi xiết chặt:

- Không sao đâu, cháu chỉ cần nghĩ đến mẹ cháu là được.

Tôi luống cuống không biết phải làm ǵ th́ vừa vặn thấy thượng sĩ York đang đi gần đó, tôi bèn lên tiếng gọi nhưng ông nầy không nghe, cứ cắm cúi đi thẳng. Tôi vội chạy đến chặn đầu ông thượng sĩ York nhưng dường như ông ta không trông thấy tôi mà cứ tiếp tục đi. Đến lúc đó ông Jules bước lại ôn tồn khuyên:

- Ông ta không nh́n thấy cháu đâu. Cháu có muốn về thăm nhà không? Sau một hồi thuyết phục, tôi bằng ḷng và nghĩ đến mẹ tôi. Tự nhiên cảnh vật chung quanh đều thay đổi, tai tôi vẫn nghe giọng ông Jules ôn tồn:

- Cháu cứ b́nh tĩnh và tập trung tư tưởng để nghĩ đến mẹn cháu là được rồi.

Tôi thấy ḿnh đang đứng trong nhà trước mặt mẹ tôi. Bà đang làm món lassasgna thơm phức. Các em tôi đang ngồi xem tivi, chúng nói chuyện ồn ào và không chú ư đến sự hiện diện của tôi cả. Trong lúc xúc động tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ tôi nhưng bà vẫn thản nhiên nấu nướng, không hề biết đến sự hiện diện của tôi. Đến lúc đó tự nhiên tôi thấy lạnh ḿnh. Lúc năy thượng sĩ York cũng không hề thấy tôi. Phải chăng tôi đă chết? Tôi vừa hoảng hốt th́ chung quanh bỗng như tối sầm lại, dường như có một sức mạnh nào đó kéo tôi vào một lớp sương khói màu xám đục... Tôi chưa biết phải phản ứng như thế nào th́ ông Jules đă đến bên cạnh. Khi đó tôi thấy ḿnh như đang đứng cạnh ông, tôi thấy ḿnh b́nh tĩnh hơn.

- Chuyện ǵ đă xảy ra cho tôi vậy? Tôi đă ra sao?

Ông Jules nắm lấy tay tôi trấn an và ôn tồn:

- Cháu đă về nhà rồi, có đúng không? Phải chăng đó là điều mà cháu ao ước trong suốt thời gian học tập quân sự?

Tôi thắc mắc:

- Nhưng tại sao mọi người không ai nh́n thấy tôi hết? Tại sao tôi không thể nói chuyện với ai được?

Ông Jules thong thả giải thích:

- Cháu phải hiểu rằng cháu đă về nhà nhưng không bằng thể xác mà bằng một thể xác khác... Chính cái tư tưởng mong muốn trở về nhà trong suốt thời gian cháu học tập quân sự đă khiến cậu t́m đến gặp cháu để giúp cháu hoàn tất tâm nguyện trên.

Tôi thút thít khóc:

- Như vậy là cháu đă chết rồi phải không?

Oâng Jules thong thả:

- Rồi cháu sẽ hiểu. Hiện nay cậu chỉ có thể cho cháu biết rằng cháu không c̣n ở cái thế giới quen thuộc của cháu nữa... Nhưng cháu không nên phí thời giờ vô ích, cháu chẳng mong trở về thăm nhà hay sao?

Tôi định thần nh́n quanh, cả nhà đă bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Cha tôi vừa rót một ly rượu chát lớn, thong thả thưởng thức mùi vị trước khi ăn. Các em tôi đang cười đ ùa bàn tán về chương tŕnh tivi mà chúng vừa xem. Mẹ tôi vừa cắt đĩa lassagna vừa lẩm bẩm: "Phải chi có thằng Steve ở đây, nó vẫn thích món nầy lắm!" V́ một lư do thầm kín nào đó, tôi đọc rơ tư tưởng của mẹ tôi và xúc động mạnh. Ông Jules giải thích:

- Ở cơi trần, người ta có thể nhận thức được mọi vật bằng năm giác quan thông thường như nghe, nh́n, ngửi, nếm và sờ mó nhưng ở cơi nầy, các giác quan trên không c̣n sử dụng được nữa mà chỉ có tư tưởng mà thôi. Nếu cháu muốn tiếp xúc với mẹ cháu, cháu hăy tập trung tư tưởng gửi đến mẹ cháu những niềm yêu thương tốt đẹp nhất th́ mẹ cháu sẽ nhận được.

Tôi cố gắng dần tất cả ḷng yêu thương đến cho mẹ tôi, tự nhiên tôi thấy bầu ánh sáng chung quanh tôi bỗng trở nên sáng chói, một cảm giác lạ lùng, thanh thản như thấm khắp người tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thoải mái, sung sướng dễ chịu như lúc đó. Tự nhiên mẹ tôi bỗng dừng tay lại, h́nh như bà cảm thấy điều ǵ, mắt bà rơm rớm nước mắt và bà thốt lên một câu rất khẽ, tôi biết mẹ tôi thầm gọi tên tôi. Ngay lúc đó tôi thấy rơ t́nh thương của mẹ tôi dành cho tôi, một cảm giác ấm áp, hạnh phúc tràn đầy khiến tôi như gia tăng sức mạnh.

Ông Jules mỉm cười nói:

- Cháu thấy không, những người quá cố đâu có đi xa, họ vẫn hiện diện chung quanh những người thân đấy chứ. Họ hiểu biết mọi sự việc xảy ra trong gia đ́nh và có thể giúp đỡ người nhà một cách giáp tiếp mặc dù không thể liên lạc, nói chuyện hay báo tin cho người nhà biết sự hiện diện của họ được.

Tôi thân mật hỏi cậu Jules:

- Phải chăng cậu vẫn đến thăm gia đ́nh cháu luôn?

Ông Jules khẽ lắc đầu cười:

- Đối với cậu th́ tất cả mọi người đều là gia đ́nh cả, một thời gian nữa cháu sẽ hiểu rơ hơn. Có những liên hệ cá nhân mà qua luật thiên nhiên, họ trở thành thân thiết như cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè nhưng c̣n biết bao liên hệ trước đó nữa chứ kiếp sống nầy chỉ là một giai đoạn ngắn trong một đời sống kéo dài bao la vô tận...

Tôi thắc mắc ngắt lời:

- Như vậy cậu t́m đến cháu làm ǵ?

Ông Jules thân mật:

- Cháu đă có nhiều liên hệ với cậu từ lâu, hiện nay cháu chưa nhớ đâu nhưng một thời gian sau cháu sẽ hiểu. Chúng ta đă từng là bạn bè, đă làm việc chung với nhau trong nhiều kiếp sống...

Tôi ngạc nhiên:

- Như vậy cháu đă làm ǵ?

Ông Jules mỉm cười:

- Rồi cháu sẽ biết nhưng hiện nay có một người nữa mà cháu muốn gặp.

Ông giơ tay chỉ phía sau và tôi thấy một bầu ánh sáng chói lọi trong không trung khiến tôi phải nhắm mắt lại cho khỏi loá. Tôi nghe một giọng nói êm dịu:

- Nầy anh Steve, anh c̣n nhớ em không?

Tự nhiên tôi nhận ra ngay giọng nói của Marjorie, một người bạn gái ngày trước nhưng cô ta đă cheest v́ một tai nạn khi c̣n ở trung học kia mà. Tôi mở mắt ra và thấy Marjorie đang đứng trước mặt tôi, toàn thân bao phủ trong một lớp ánh sáng chói lọi. Cô bật cười:

- Anh đừng ngạc nhiên, em vẫn như xưa chứ đâu có khác ǵ... Ơ ḱa! Tại sao anh lại nghĩ rằng em là một thiên thần?
Tôi bối rối:

- Nhưng... nhưng tại sao cô lại biết như vậy?

Marjorie bật cười liến thoắng:

- Em biết chứ! Em đọc được tư tưởng của anh... anh ngạc nhiên v́ màu sắc hào quang ư? Anh cũng có hào quang đấy chứ, anh không thấy sao?

Chưa lúc nào tôi lại bối rối như lúc nầy. Sự có mặt của ông Jules và bây giờ là Marjorie, một người bạn gái đă qua đời từ nhiều năm, khiến tôi mệt mỏi muốn ngồi xuống đất. Tuy nhiên Marjorie không để tôi yên, cô vẫn liến thoắng như hồi nào:

- Nầy anh Steve, anh không hề mệt đâu, anh chỉ mệt v́ anh tưởng anh mệt đó thôi. Lúc năy anh đâu có mệt, anh đang vui vẻ, khỏe khoắn kia mà. Anh nghĩ nhiều quá... Chuyện đă qua rồi anh nghĩ làm chi!

Quả thật tôi đă nghĩ đến cái chết của Marjorie năm xưa, chính tôi đă đi đưa đám tang nàng và ngồi bên cạnh mộ nàng rất lâu. Marjorie dường như cảm động, mắt cô chớp chớp một lúc rồi vui vẻ hồn nhiên trở lại:

- Anh Steve thân yêu, em biết điều đó. Hồi đó em biết hết, thấy hết và nghe hết nhĩng điều anh nói bên mộ em. Sau đám tang, em thấy anh đi thơ thẩn ngoài nghĩa địa một ḿnh, em thấy anh khóc nhiều. Anh c̣n đi theo con đường dẫn đến trường mà trước kia chúng ta thường dạo mát. Lúc đó em vẫn đi cạnh anh mà anh đâu có biết.

Tôi kêu lên thất thanh:

- Thật sao, em vẫn ở bên anh hay sao?

Marjorie thản nhiên gật đầu:

- Đúng thế. Em thấy anh buồn quá nên quàng lấy vai anh để an ủi nhưng anh nào có hay. Em biết ḿnh đă chết nên không thể nào tiếp xúc với anh được nữa, nhưng thật ra danh từ "chết" không đúng đâu. Sự thật th́ chúng ta không bao giờ chết cả. Đúng vậy, em và anh cũng như mọi người khác chẳng bao giờ chết. Anh thấy không, hiện nay chúng ta vẫn linh động, thoải mái, sống mạnh mẽ hơn khi nào hết kia mà! Chúng ta đang tiến về nguồn, nguồn sống yêu thương tràn đầy ân phước của Đấng Tối Cao. Dĩ nhiên lúc nầy anh c̣n đang bán tín bán nghi nhưng em mong anh tin em. Nhiều người không tin em mặc dù em cố gắng thuyết phục họ, nhưng anh th́ phải khác chứ. Anh biết không, em đă gặp rất nhiều người bị tai nạn xe cộ như em vậy. Họ than khóc quá nhiều, kẻ th́ oán hận người đă gây ra tai nạn, người th́ tiếc đă không làm được những việc khi c̣n sống. Em đă đến bên họ, khuyên can họ không hề chấm dứt như họ nghĩ mà là một sự chuyển tiếp. Trong giai đoạn nầy họ được sống trong t́nh thương yêu tuyệt vời nhưng chẳng mấy người chịu nghe.

Càng nói bầu ánh sáng bao quanh Marjorie càng sáng chói, bao phủ quanh thân nàng khiến nàng trông càng đẹp, một vẻ đẹp thanh cao, đáng kính khiến tôi phải lùi lại. Marjorie nheo mắt nh́n tôi và thong thả:

- Đó là công việc mới của em, một công việc quan trọng. Trướn khi giao việc nầy cho em, ngài đă căn dặn em phải suy nghĩ kỹ. Em đă đắn đo rất cẩn thận trước khi nhận lời. Công việc thật nặng nhọc nhưng em rất sung sướng đă an ủi, giúp đỡ cho những người vừa từ trần. Em ở kề cận bên họ, nhắc nhở cho họ rằng đời sống thật sự chỉ có sự yêu thương chứ không có sự hối tiếc, giận hờn.

Tôi ngạc nhiên:

- Em nói ngài đă giao việc cho em, vậy ngài là ai?

Marjorie chỉ về phía sau tôi:

- Chính cậu Jules đă đưa em đến gặp ngài. Ngài là Thượng Đế chứ c̣n ai nữa! Quả thật tôi bối rối. Tôi đưa mắt nh́n ông Jules và Marjorie không biết phải nói như thế nào nữa. Phải chăng tôi đang mê ngủ? Phải chăng đây chỉ là một giấc chiêm bao? Ông Jules âu yếm:

- Cháu không chiêm bao đâu. Hiên nay cháu đang ở một cơi giới khác với cơi trần. Ở đây thời gian và không gian không c̣n chi phối nữa, cũng không có các ràng buộc vật chất. Khi muốn đến đâu người ta có thể đến đó ngay, lúc nầy cháu đă chẳng trở về nhà đó sao? Bây giờ cháu hăy đi theo cậu, chúng ta có việc phải làm, sau nầy cháu sẽ có dịp gặp Marjorie sau.

Tôi ngạc nhiên:

- Nhưng cậu muốn đưa cháu đi đâu?

Ông Jules từ tốn trả lời:

- Có lẽ cháu đă quen ít nhiều với đời sống bên nầy rồi nên cậu sẽ giải thích cho cháu về những việc đă và sẽ xảy ra. Trước hết nhân loại đang trăi qua một cuộc chiến tranh lớn. Tại sao lại có cuộc chiến tranh nầy và trong cuộc chiến cháu cháu sẽ được giao phó nhiệm vụ ǵ. Cuộc chiến hiện tại là một điều không thể tránh được mặc dù nó có vẻ phi lư và dă man. Con người không thể tránh được hiểm họa chiến tranh v́ đă có nguyên nhân th́ phải có hậu quả. Mặc dù những người gây chiến tranh phải chịu trách nhiệm về việc họ đă làm nhưng mọi người, v́ những nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, cũng đều chia phần trách nhiệm và phải học lại bài học mà họ cần phải học. Đời sống là một trường học mà trong đó chiến tranh là một bài học quan trọng. Trong hoàn cảnh đau khổ, tang tóc, nhiều người nghĩ rằng thế giới đă đến lúc suy tàn, sức mạnh của bạo lực sẽ đ àn áp tất cả, điều ác sẽ thắng điều thiện, kẻ áp chế sẽ đạt được điều họ muốn. Điều nầy hoàn toàn không đúng. Một khi Thượng Đế đă điều khiển th́ trước sau mọi sự sẽ đều tiến đến chỗ tốt đẹp, toàn thiện. Một côn trùng nhỏ bé chết ngài cũng biết, va cũng do ư ngài th́ cuộc chiến dù tàn khốc đến đâu th́ cũng không xảy ra ngoài ư muốn của ngài được. Tuy nhiên dù sao chăng nữa, những kẻ góp phần gây ra cuộc chiến vẫn phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.

phale
28-10-11, 09:11 AM
Vẻ mặt của ông Jules bỗng trở nên dịu dàng, đôi mắt ông như đắm ch́m trong một cơi giới nào đó, h́nh như ông đang ôn lại những kinh nghiệm tranh đấu, đau khổ mà rồi nhân loại sẽ phải trải qua trước khi biết nhận thức về hành động của họ và thay đổi để trở nên thánh thiện, hiền lành. Ông mỉm cười bảo tôi:

- Bây giờ chúng ta sẽ ra mặt trận v́ một người bạn cũ của cháu sắp từ giă cơi trần, cháu hăy t́m cách an ủi và giải thích cho anh ta hiểu các sự kiện diễn ra ở cơi giới bên nầy, như vậy cháu sẽ quen với công việc mà cháu sẽ đảm nhiệm từ nay.

Tôi theo ông Jules đến một khu rừng rậm, có tiếng súng nổ khắp nơi, tôi biết ḿnh đă ra đến mặt trận. Tôi nh́n thấy các chiến sĩ ẩn núp dưới giao thông hào, có một số đang chuẩn bị cho một cuộc xung phong. Có tiếng đạn rít bên tai khiến tôi hoảng sợ, bảo ông Jules nên t́m chỗ ẩn tránh đạn th́ ông mỉm cười lắc đầu:

- Cháu không phải lo, bom đạn không là ǵ được cháu đâu. Hiện nay cháu đâu c̣n thể xác nữa mà sợ!

Ông Jules chỉ cho tôi thấy một binh sĩ đang ḅ dưới đất. Anh nầy định ṿng ra phía sau một mô đất lớn để đánh tập hậu nhóm lính Đức đang trấn giữ ổ súng liên thanh gần đó. Điều anh không ngờ là vị trí của anh đă bị phát giác, một người lính Đức giơ súng lên nhắm anh bóp c̣. Tôi chưa kịp la lên th́ anh đă bật ngửa ra sau, đầu bị một viên đạn bắn trúng. Ngay lúc đó tôi nhận ra anh là Andrew, một người bạn láng giềng đă nhập ngũ trước tôi ít lâu. Tôi thấy Andrew từ từ thoát ra khỏi thể xác và vẫn tiếp tục ḅ mà không hề biết rằng anh ta đă trúng đạn, bỏ lại cái xác nằm sóng sượt phía sau. Ông Jules thúc nhẹ vào hông tôi như ra giấu, tôi vội bước về phía Andrew. Anh nầy ngạc nhiên la lớn:

- Ủa Steve đấy ư? Anh làm ǵ ở đây vậy?

Tôi chưa kịp trả lời th́ Andrew đă kéo tôi nằm sát xuống đất:

- Cẩn thận kẻo bọn lính Đức nh́n thấy!

Nhưng không kịp nữa, ba người lính Đức đă ở sau g̣ đất xông ra. Andrew hoảng hốt giơ súng lên nhưng đến lúc đó anh nhận ra anh không hề cầm súng. Trông điệu bộ luống cuống của anh tôi bật cười:

- Nầy Andrew, anh đă chết rồi c̣n đâu!

Nhưng Andrew không nghe câu tôi vừa nói, anh bận nh́n sững ba tên lính Đức đang khám xét cái xác của anh. Một người lục túi áo của anh lấy ra bao thuốc lá trong khi hai người kia tháo súng và bao đạn trên vai anh. Andrew nổi giận xông đến đấm đá túi bụi nhưng ba người lính kia vẫn thản nhiên như không có chuyện ǵ xảy ra. Andrew giận dữ kêu la om x̣m cho đến lúc ba người lính thu thập xong chiến lợi phẩm, rút vào sau g̣ đất th́ anh mới xúc động ôm lấy xác của ḿnh khóc oà. Tôi lúng túng nh́n anh không biết phải an ủi thế nào cho đến khi anh ngửng lên nh́n tôi:

- Nầy bạn Steve, anh cũng chết rồi sao? Tôi gật đầu. Andrew im lặng như suy nghĩ, bất chợt anh thốt lên:

- Thôi thế là hết. Bạn chết trước tôi vậy bạn có thấy thiên đàng ở đâu không?

Từ trước đến nay tôi chưa hề suy nghĩ vè điều nầy nên thoạt nghe cũng hoảng hốt, tôi nh́n quanh nhưng không thấy cảnh vật có ǵ khác lạ. Andrew cũng lên tiếng.

Tôi chẳng thấy có ǵ khác lạ hết, ở đây giống hệt như cơi trần chỉ khác ở chỗ tôi nói mấy tên lính kia cũng không nghe, tôi đánh chúng cũng không được. Bây giờ chúng ta phải làm sao đây? Nếu lính Đức đến, ḿnh có đánh nữa không?

Tôi lắc đầu:

- Anh quên rằng chúng ta đă chét rồi sao?

Andrew gật đầu đồng ư, rồi theo thói quen anh móc túi lấy thuốc lá ra hút nhưng dĩ nhiên không thể hút được. Anh lẩm bẩm chửi một hồi rồi than:

- Trời ơi, tôi không hút thuốc được nữa, có ǵ khổ bằng không được hút thuốc được nữa, như vậy là chết tôi rồi...

Tôi đập nhẹ lên vai anh nhắc nhở:

- Nhưng chúng ta đều đă chết rồi kia mà.

Andrew giật ḿnh sờ tay lên trán và la lớn:

- Trời ơi, làm sao đầu tôi lại lủng một lỗ lớn như thế nầy! Có ai băng bó dùm cho tôi, làm ơn gọi y tá cho tôi... Thôi chết rồi, lủng lỗ to như thế vầy th́ mất hết máu rồi c̣n ǵ...

Ngay lúc đó ông Jules bước đến bên Andrew. Ông vừa băng bó vừa thoa thuốc:

- Thuốc nầy thần diệu lắm, chỉ thoa vào là khỏi ngay, bảo đảm không có thẹo... Anh nh́n xem, vết thương lành rồi đó.

Andrew sờ tay lên trán. Vết thương đă hoàn toàn biến mất. Anh bật cười sung sướng:

- Hay thật! Hay thật! Làm sao lại có thứ thuốc kỳ diệu như vậy. Nầy bác sĩ, thuố nầy chế tạo ở đâu vậy?

Ông Jules mỉm cười từ tốn:

- Nầy anh bạn, không phải thuốc nầy công hiệu đâu, tôi chỉ bày tṛ ra vậy thôi. Chính anh đă chữa lành cho anh đó. Bên nầy cơi của tư tưởng và do sức mạnh cua tư tưởng mà anh thấy ḿnh b́nh phục. Dù có mất cả tay chân nhưng khi nghic rằng ḿnh lành lặn th́ tự khắc sẽ lành lặn ngay. Điều đáng tiếc là nhiều người không biết vậy. Họ cứ nghĩ ḿnh đang đau đớn, khổ sở v́ cụt tay, cụt chân, cụt đầu và sống măi trong t́nh trạng khủng hoảng như vậy rất lâu. Chính cái tâm trạng đau khổ kéo dài đó sẽ tạo ra những nỗi ám ảnh trong tiềm thức, ảnh hưởng vào những kiếp sống mai sau. Cùn như thế, một người chết v́ nước, v́ lửa thường bị ám ảnh bởi những yếu tố nầy và sau đó thường sợ lửa hay nước. Điều anh cần biết là chính cái tâm trạng khi chết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ở kiếp sau, làm sao có thể chết một cách thoải mái, an lành, chấp nhận sự chết mà không chống lại nó. Nghệ thuật chết là làm sao không mong cầu kéo dài thêm đời sống, không hối tiếc về những điều có thể làm nhưng đă không làm, không giận hờn oán ghét bất cứ ai mà thanh thản bước qua cơi tư tưởng nầy một cách ung dung tự tại. Bây giờ anh đă biết cách chữa lành bệnh rồi, tôi nghĩ anh có thể giúp đỡ cho các bạn bè anh cũng vừa từ trần, họ rất đông và đang đau đớn, khổ sở cần được giúp đỡ. Các anh cần biết rằng, ở cơi nầy không có chiến tranh nữa, chúng ta có thể giúp đỡ nhau, d́u dắt nhau mà không sợ bị ngộ nhận hay hiểu lầm v́ các giá trị ở cơi trần qua đến bên nầy không c̣n nghĩa lư ǵ nữa. Tất cả mọi thứ như tiền bạc, địa vị, danh vọng, quyền lực đều có thể trở nên vô giá trị vĩnh cửu mà thôi. Andrew rụt rè đặt câu hỏi:

- Thưa ông, vậy gặp lính Đức th́ tôi phải làm sao? Ông Jules mỉm cười:

- Quân Đức cũng là bạn của anh và anh nên giúp đỡ họ.

Andrew nhăn mặt tỏ vẻ không đồng ư nhưng anh cũng cố gắng:

- Nhưng họ đâu biết tôi là bạn, nếu tôi gặp họ xông lại đánh th́ sao? Tôi cũng cần phải tự vệ chứ.

Ông Jules lắc đầu:

- Anh nên tránh đi. Ở cơi trần anh phải tự vệ chứ ở bên nầy th́ họ không thể làm ǵ được anh đâu. Dù họ có bao vây hay bắn anh cũng vô ích thôi. Anh vừa qua đây chưa hiểu hết mọi việc, anh nên nghe theo lời khuyên của tôi. Hiện nay chúng ta đang ở cơi tư tưởng, tất cả mọi hiện tượng vật chất hay đều không thể làm hại chúng ta được, v́ chúng ta đâu c̣n thân xác nữa. Nầy các bạn, những người vừa từ trần chưa biết điều đó. Họ đang đau khổ cần được an ủi, và anh hăy coi họ như một con người đang cần được giúp đỡ. Đừng nghĩ rằng họ là người Đức, người Mỹ hay người Pháp, sự phân biệt đó không có ư nghĩa ǵ ở cơi bên nầy cả. Cũng đừng nghĩ rằng họ là thù hay là bạn và các danh từ đó hoàn toàn vô giá trị mà chỉ nên nghĩ rằng có những người đang đau khổ cần được cứu giúp. Khi anh hàng động với cái tâm trong sạch, đầy bác ái, thương yêu th́ không một mănh lực ǵ có thể hại anh được. Nếu anh không oán ghét, giận hờn mà chỉ một ḷng thương xót, giúp đỡ người khác th́ luồn ghào quang bao quanh anh sẽ trở nên sáng chói, kẻ hung á sẽ không dám nh́n anh chứ đừng nói ám hại anh. Dù anh ở bất cứ nơi đâu, anh cũng sẽ được Thượng Đế che chở v́ anh đang làm việc đúng với thiên ư.

Andrew vội vă đứng thẳng người lên theo thói quen của một quân nhân và nghiêm giọng:

- Xin tuân lệnh ngài.

Ông Jules mỉm cười quay về phía tôi:

- C̣n cháu Steve, công việc của cháu khác với Andrew. Thời gian cháu ở bên cơi nầy không c̣n lâu nữa, vậy cháu hăy cố gắng quan sát, học hỏi những ǵ cháu có thể học được. Cháu sẽ trở lại cơi trần.

Tôi ngạc nhiên kêu lớn:

- Cậu nói sao? Cháu sẽ trở lại cơi trần?

Ông Jules gật đầu:

- Đúng thế. Cháu chưa chết. Lúc trái ḿn nổ, cháu bị sức ép dồn ngay ngực nên tắt thở, cháu đă hôn mê mấy giờ liền nhưng t́nh trạng nầy sắp chấm dứt. Nhiệm vụ của cháu quan trọng hơn của Andrew, cháu sẽ tiết lộ cho nhân loại biết về những điều cháu đă họ hỏi được ở cơi nầy.

Tôi bối rối một lúc rồi rụt rè:

- Thưa cậu Jules, nếu cháu không chết, phải chăng đây chỉ là một giác mộng? Làm sao cháu có thể giải thích cho mọi người biết rằng cháu không chiêm bao? Làm sao cháu không bị mọi người lên án là bịp bợm hay điên loạn?

Ông Jules mỉm cười gật đầu:

- Không đâu! Đây không phải là một giấc mộng. Sự trở về của cháu rất quan trọng và hữu ích cho nhân loại, nhất là trong giai đoạn nầy. Cháu cứ làm hết sức ḿnh và nên nhớ c̣n có ơn trên phù hộ cho cháu nữa. Không bao lâu nữa cháu sẽ tỉnh lại và cậu sẽ giúp cháu nhớ lại những điều ở cơi nầy.

Tôi ngạc nhiên:

- Nếu cậu không giúp th́ khi tỉnh lại cháu sẽ quên hết sao?

Ông Jules gật đầu:

- Thông thường th́ người ta không nhớ được nhiều những chuyện xảy ra trong giấc ngủ. Trí óc con người sẽ thu xếp những dữ kiện nầy một cách lộn xộn vô trật tự và đầu óc phán đoán của con người sẽ không chấp nhận nó nên đa số đều loại bỏ những kư ức nầy. Cháu nên biết ngoài thể xác, c̣n có những thể khác nữa, mỗi thể đều có những giác quan riêng của chúng. Nếu không biết kiểm soát các thể nầy, các dữ kiện ở cơi tư tưởng sẽ bị ghi nhận một cách sai lạc, méo mó và trở nên mơ hồ lộn xộn, vô lư... Do đó con người ta sẽ không thể nào suy luận nó một cách hữu hiệu. Một lúc khác cậu sẽ giảng cho cháu nghe sau, bây giờ chúng ta hăy lên đường v́ thời gian không c̣n nhiều lắm đâu.

Tôi đi theo ông Jules đến một căn nhà nhỏ, trong nhà có một người đ àn bà và hai đứa con nhỏ. Hai đứa bé đang đ ùa nghịch một cách vô tư nhưng người đ àn bà th́ đang đau khổ. Bà vừa khóc hết nước mắt v́ nhận được giấy báo chồng bà vừa tử trận. Ngay lúc đó một quân nhân quần áo dính đầy máu bước vào. Ông nói với vợ:

- Nầy Emma, anh đă về đây.

Dĩ nhiên người đ àn bà không nghe thấy ǵ vẫn ngồi khóc, nhưng hai đứa bé ngừng chơi kêu lên:

- Cha! Cha đă về!

Người đàn bà đưa tay bồng hai đứa bé và khóc lớn:

- Cha các con chưa về đâu.

Ông Jules nói với tôi:

- Cháu thấy không, hai đứa bé c̣n nhỏ, đầu óc vô tư và nhạy cảm nên chúng nhận ra ngay được sự sự hiện diện của cha chúng mặc dù mắt không nh́n thấy.

Ông quay ra nói với người quân nhân:

- Nầy anh bạn, chị nhà không thấy anh đau nhưng anh hăy đợi một lúc nữa khi chị ngủ, khi tâm hồn của chị thoải mái, không bận bịu hay bị chi phối bởi các tư tưởng tiêu cực th́ chị có thể tiếp xúc được với anh. Dĩ nhiên khi thức dậy chị sẽ không nhớ ǵ hết nhưng nếu anh khéo léo khuyên bảo th́ chị sẽ cảm thấy được an ủi rất nhiều. Anh đă hiểu và chấp nhận số phận nên anh không cón đau khổ bao nhiêu nhưng anh có thể giúp cho chị bớt đau khổ...

Người quân nhân cung kính nghiêng ḿnh trước ông Jules.

- Xin cám ơn ngài. Ngài đă giúp đỡ tôi và các anh em trong binh chủng của chúng tôi rất nhiều. Thay mặt các anh em, tôi xin cảm tạ ngài.

Ông Juleschỉ tay về phía tôi:

- Đây là thanh niên mà tôi đă nói với anh trước đây.

Người quân nhân bắt tay tôi một cách nồng nàn:

- Nhờ anh nói dùm với nhà tôi rằng "Bông hồng dù ở đâu cũng là bông hồng và lúc nào cũng đẹp hết". Anh cứ nói như vậy là nhà tôi hiểu. Sau đây là địa chỉ của nhà tôi...

Cậu Jules chờ tôi nói chuyện với người quân nhân kia xong rồi mới ra hiệu cho tôi đi theo. Lần nầy đă quen nên tôi lướt đi một cách nhẹ nhàng, hai chân tôi không hề đụng đất và chỉ thoáng giây chúng tôi đă đến căn nhà khác. Trong nhà có hai người già đang ngồi than khóc dưới ngọn đ èn leo lét. Họ vừa nhận được điện tín báo tin người con trai của họ đă tử trận. Tuy nhiên họ không biết rằng anh nầy cũng đang có mặt trong nhà, dĩ nhiên dưới một dạng thể khác. Anh mặc bộ quân phục dính đầy máu, cố gắng tiếp xúc với cha mẹ nhưng không được nên rất đau khổ. Anh kêu lên:

- Trời ơi, mẹ tôi không nghe thấy tôi. Mẹ tôi tưởng tôi đă chết nhưng tôi vẫn c̣n sống kia mà. Làm sao tôi có thể nói cho mẹ tôi hiểu được đây!

Cậu Jules vỗ vai người quân nhân, an ủi:

- Anh hăy b́nh tĩnh. Tôi sẽ giúp anh nhưng trước hết anh hăy nghe tôi nói đă. Anh hăy nh́n bức h́nh chụp khi anh vừa tốt nghiệp trường vơ treo trên tường kia, khi đó anh mặc bộ quân phục mới và sạch sẽ, người không bị một vết thương nào, anh hoàn toàn khỏe mạnh, vui vẻ. Bây giờ anh hăy tưởng tượng rằng hiện nay anh cũng y hệt như thế.

Người quân nhân làm theo lời ông Jules. Lạ thay chỉ trong một thoáng giây sau anh đă mặc một bộ quân phục mới tinh. Gương mặt anh hết đau khổ, nhăn nhó mà trở nên sáng sủa, tươi tắn. Các vết thương trên thân thể anh hoàn toàn biến mất. Chính người quân nhân cũng ngạc nhiên về sự kiện nầy nên anh sững người một lúc rất lâu trước khi quay nh́n về phía cha mẹ. Cậu Jules nói tiếp:

- Anh hăy nghĩ đến tâm trạng của anh trong ngày tốt nghiệp đó. Anh đă hănh diện và sung sướng biết bao, phải không? Bây giờ anh hăy hồi tưởng hoàn cảnh tốt đẹp lúc đó rồi đến bên cạnh cha mẹ anh, chia sẻ sự sự sung sướng đó với họ. T́nh thương có một sức mạnh an ủi phi thường, anh hăy làm như tôi nói đây...

Người quân nhân làm y hệt như lời khuyên, và tôi thất rơ một luồng hào quang từ thân thể anh ta lan tỏa ra, lan rộng khắp pḥng, bao bọc cả hai người già đang ngồi đó. Tự nhiên bà mẹ bớt khóc và trở nên b́nh tĩnh hơn. Bà nói với chồng:

- Henri, tôi có cảm giác rằng con ḿnh không đến nỗi nào, chắc nó được ơn trên phù hộ... Tôi chắc nó thế nào cũng được ơn trên phù hộ.

Ông già cũng ngưng khóc. Ông nh́n vợ một lúc rồi nhẹ nhàng:

- Có lẽ bà nói đúng. Chúng ta hăy cầu nguyện Thượng Đế.

Cả hai bước đến bên thánh giá treo trên tường và quỳ xuống cầu nguyện. Người quân nhân cũng bước đến quỳ bên cha mẹ. Tự nhiên căn pḥng bỗng bừng sáng lên một thứ ánh sáng chói lọi, tinh khiết khiến tôi cũng cảm thấy sung sướng, thoải mái lây. Cậu Jules nói với tôi:

- Cháu thấy không, sự đau khổ của người chết có thể ảnh hưởng đến người sống và ngược lại, nếu người sống đau khổ, than khóc th́ họ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến người chết. Điều quan trọng lúc nầy là phải làm sao để giúp cho họ b́nh tĩnh trở lại, sáng suốt ư thức về sự việc đang diễn ra. Một phương pháp rất hữu hiệu là gợi lại cho họ những kỷ niệm đẹp nhất, những cảm giác sung sướng nhất, để giúp họ thoát khỏi th́nh trạng hoảng hốt kia. Chỉ khi nào họ thoải mái an lạc và sáng suốt th́ cháu mới có thể giúp đỡ họ được. Người quân nhân nầy là sĩ quan trường vơ bị, từ nhỏ đă say mê binh nghiệp, ngày tốt nghiệp là ngày anh sung sướng nhất v́ đă thỏa măn được niềm mong ước từ trước. Biết cách nhắc nhở anh ta hồi tưởng lại kỷ niệm đó để anh b́nh tĩnh trở lại, thoát khỏi ảnh hưởng đau khổ của cái chết, giảm bớt sự giằng co quyến luyến với gia đ́nh th́ anh mới có thể siêu thoát được.

- Nhưng siêu thoát là thế nào?

Ông Jules mỉm cười:

- Con người là một thực thể phức tạp gồm có nhiều thể khác nhau chứ không phải chỉ có thể xác mà thôi. Điều nầy khoa học không thể giải thích rơ rệt v́ đối tượng của khoa học chỉ xây dựng trên căn bản của các giác quan thuộc về thể xác, vốn hết sức giới hạn. Khi xác thân không c̣n sử dụng được nữa, các thể khác cần được giải phóng ra khỏi xác thân càng sớm chừn g nào càng hay chừng đó, đó là sự siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người khi từ trần hết sức quan trọng v́ nếu có sự quyến luyến th́ sự giải phóng nầy sẽ bị tŕ hoăn lại rất lâu, gieo các ấn tượng đau khổ lên các thể kia, và ảnh hưởng đến các kiếp sống mai sau. Đó cũng là lư do người ta cần tránh than khóc, kêu gọi kể lể trong các đám tang mà phải b́nh tĩnh đặt hết tâm hồn vào sự cầu nguyện cho người quá cố được siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người khi từ trần hết sức kinh khủng đối với những ai tin rằng chết là mất hết tất cả. Đa số đều bám vào sự sống một cách tuyệt vọng. Có người cho rằng có một thế giới khác, một cảnh âm ty địa ngục ghê sợ, đang chờ đón họ nên họ nhất định không chịu từ bỏ cơi trần. Do đó có một sự phấn đấu mạnh mẽ giữa phần thân xác sắp tan ră và phần tâm linh cố gắng giữ nó lại. Đó cũng là lư do nhiều người cứ hấp hối măi mà không chết được, họ ở t́nh trạng không sống mà cũng không chết (comatose). Sau khi chết, nhiều người cứ quanh quẩn bên cái xác thân của ḿnh, dù thấy xác thân đó đă rữa ra, bị gịi bọ đục khoét cho đến khi xác thân hoàn toàn tan ră th́ mới siêu thoát được. T́nh trạng nầy có thể kéo dài nhiều năm, gieo vào tâm thức người đó những ấn tượng hết sức ghê gớm, đau khổ và sự ám ảnh nầy sẽ ảnh hưởng nhiều đến cá tính của người đó trong kiếp sau.

Sau khi cầu nguyện xong, người quân nhân bước đến cạnh cậu Jules:

- Cám ơn ngài đă giúp cho tôi và cha mẹ tôi. Bây giờ tôi phải làm ǵ?

- Anh hăy đợi khi cha mẹ anh ngủ say, khi các giác quan thể xác của cha mẹ anh tạm thời yên nghỉ th́ anh có thể tiếp xúc được với hai ông bà ở một b́nh diện khác. Điều cần nhất là chính anh phải có sự thoải mái, b́nh an đă rồi anh mới có thể an ủi được cha mẹ anh, giúp họ bớt đau khổ.

Người quân nhân gật đầu như hiểu lời khuyên bảo:

- Xin cám ơn ngài. Nếu cha mẹ tôi bớt đau khổ th́ tôi có thể yên tâm được rồi.

- Anh cứ yên tâm. Tôi biết cha mẹ anh sẽ được thoải mái. Ông bà đă biết chấp nhận và đặt tất cả vào bàn tay Thượng Đế. Một khi đă để cho Thượng Đế hành động th́ mọi sự sẽ tốt đẹp. C̣n về phần anh, chút nữa có một thiếu nữ tên là Marjorie sẽ đến gặp anh. Cô ta sẽ giúp đỡ và hướng dẫn anh. Anh nên nghe theo lời khuyên của cô ấy.

Cậu Jules giới thiệu tôi với quân nhân kia và nói rơ về trường hợp đặc niệt của tôi. Người quân nhân mừng rỡ xiết chặt tay tôi:

- Nếu anh có thể ghé thăm cha mẹ tôi và nói với ông bà rằng "Robbie vẫn khỏe mạnh như thường". Tên tôi là Robert, bạn bè thường gọi là Rob nhưng cha mẹ tôi lại thích gọi tôi là Robbie, đây là một tên riêng chỉ cha mẹ tôi biết mà thôi. Đây là địa chỉ của cha mẹ tôi...

phale
28-10-11, 09:13 AM
Sau khi giă từ người quân nhân đó, ông Jules và tôi tiếp tục đi nữa. Vừa ra đến đường chính, tôi nh́n thấy một xe chở lính Đức đi ngang. Tôi giật ḿnh kêu lớn:

- Cậu ơi! Lính Đức ḱa!

Cậu Jules mỉm cười:

- Phải rồi chúng ta đang ở tại nước Đức nhưng cháu đừng lo, họ không trông thấy chúng ta đâu. Cháu quên rằng chúng ta đâu c̣n thể xác nữa.

Chúng tôi thấy một ông già gầy g̣, quần áo nhàu nát, đầu đội nón nỉ, vẻ mặt đau khổ đang đứng trước một căn nhà. Cậu Jules nói:

- Đó là Lebowitz, một thương gia giàu có đă qua đời từ mấy năm nay nhưng không siêu thoát v́ c̣n quyến luyến tài sản, sự nghiệp.

Ông già ngước cặp mắt lờ đờ nh́n cậu Jules rồi nói một cách buồn bă:

- Thưa ông, căn nhà nầy do chính tôi xây cất, chính tôi đă lựa chọn từng ḥn gạch, từng khúc gỗ. Hăy nh́n cái cửa bằng gỗ sồi kia, chính tay tôi đă chọn từ bên Đan Mạch, c̣n chiếc cửa sổ bằng kính màu nữa, nó đă được hoàn tất bởi những thợ giỏi nhất miền Florence... Căn nhà nầy của tôi và tôi không thể bỏ nó được.

Cậu Jules nh́n ông già bằng cặp mắt thương hại rồi nói với tôi:

- Năm trước, chính quyền Đức ra lệnh cho người Do Thái phải rời bỏ khu nầy để tập trung vào một khu biệt lập. Ông Lebowitz Không chịu nên bị họ đánh trọng thương. Tuy mang thương tích trầm trọng nhưng ông nhất định không vào bệnh viện điều trị mà cứ bám riết căn nhà nên vài hôm sau bị nhóm SS giết chết. Từ đó ông cứ quanh quẩn bên căn nhà nầy. Tôi bèn hỏi:

- Như vậy ông ấy sẽ ở đây đến bao giờ?

- Ông ta sẽ tiếp tục ở t́nh trạng nầy cho đến khi nào ḷng quyến luyến kia tiêu tan hết. Có thể là một vài năm, chục năm hay có khi lâu hơn thế nữa.

Cậu Jules nói với ông già:

- Nầy ông bạn, ông bạn đă chết rồi, đă rời bỏ thế giới nầy rồi th́ c̣n quyến luyến căn nhà đó làm chi nữa! Hiện nay căn nhà đó đă thuộc về người khác rồi...

Ông lăo khăng khăng lắc đầu:

- Không... Không... đây là nhà của tôi, sống tôi ở với nó, chết tôi cũng ở với nó. Không ai có thể buộc tôi rơi bỏ nó được.

Ngay lúc đó có một nhóm người từ đâu bước tới mở cửa bbước vào nhà. Ông Lebowitz Xông ra cản lại nhưng không được. Ông vừa xô đẩy họ vừa quát lớn:

- Quân ăn cướp! Đồ sát nhân! Bọn ngươi hăy cút khỏi nhà của ta!

Dĩ nhiên là những người đó đâu hay biết, họ vẫn thản nhiên bước vào mặc cho ông già la hét om ṣm. Cậu Jules thở dài:

- Một ngày nào đó ông ta sẽ hiểu và sẽ hối tiếc cho sự điên rồ nầy.

- Phải chăng người chết nào cũng thế?

Cậu Jules lắc đầu:

- Không hẳn như thế. Sau khi chết, người ta bước vào một giai đoạn chuyển tiếp (transition period), khi các điều kiện vật chất mà họ thường bám víu vào đang từ từ tan ră và một thế giới mới lạ bắt đầu hiện rơ dần. Cái thế giới của ánh sáng, nhiều người gọi đây là "cơi sáng" cũng không sai. Đây không phải là thứ ánh sáng như là ánh sáng mặt trời, mà là một thứ ánh sáng rọi khắp cũng mọi nơi, không một cái ǵ có thể che khuất được nó. Một người có tâm trạng xấu xa, hèn kém th́ không dám nh́n thứ ánh sáng nầy và thường trasnh né nó, nhưng một người hiền lành thánh thiện th́ thoải mái hơn v́ họ biết chấp nhận sự thật. Dù sao chăng nữa khi từ giă xác thân, ai cũng thấy bầu ánh sáng nầy và nó soi rơ tâm thức họ, cho họ thấy rơ các diễn tiến vừa xảy ra trong cuộc đời vừa qua. Họ sẽ thấy ḿnh thành công chỗ nào, đă học hỏi được những ǵ. Họ sẽ thấy lại những cảnh đổ máu do chính họ gây nên hay những đau khổ mà họ đă gây cho người khác. Họ cũng ư thức được các hành vi nhân đức, hy sinh, quả cảm của ḿnh và rút tỉa kinh nghiệm học hỏi. Dần dần họ ư thức rằng các hành động trong quá khứ đă đưa đẩy họ đến hoàn cảnh trong cuộc sống của họ trong kiếp nầy và hành động của họ trong kiếp nầy sẽ quyết định số kiếp tương lai của họ. Sau khi đă duyệt xét lại tất cả mọi hành động cua ḿnh, họ sẽ ó những quyết định riêng, dù đó là quyết định ǵ chăng nữa đó cũng la bước đầu quan trọng của sự tự biết ḿnh. Chính sự tự biết ḿnh nầy là khởi điểm cần thiết cho sự tiến hóa của con người.

Một người hiền lành nhân ái, biết sống thuận theo thiên ư khi qua đời sẽ thấy một biển ánh sang bao bọc quanh họ. Lớp ánh sáng nầy thâm nhập vào người họ khiến họ cảm thấy lâng lâng sung sướng dường như được gia tăng thêm sức mạnh. Thật ra khi đó các nguyên tử nặng trược trong thể vía của họ đang tan ră nên họ thấy trẻ trung hơn, thoải mái hơn, b́nh an hơn và không c̣n sợ sệt lo lắng nữa. Chính sự không sợ hăi lo lắng nầy giúp họ tiến dần vào nguồn ánh sáng, ḥa hợp được với các tư tưởng thanh cao tốt lành và đem nguồn tư tưởng an lành đó gieo rắc cho những người thân đang than khóc, đau buồn để an ủi họ. Tuy nhiên, người chết như vậy ít khi nào lưu lại cơi trần lâu, v́ một khi nhăn quan của họ đă mở rộng, đă thấy một thế giới khác tốt đẹp hơn, huy hoàng hơn, an lành thoải mái hơn th́ đâu c̣n ai muốn trở vầ cái thế giới đầy phiền muộn lo lắng ngày trước làm ǵ. Tuỳ theo sự tiến hóa và khả năng phát triển mà họ được dẫn dắt, học hỏi chân lư một cách rơ ràng. Họ sẽ không c̣n ngờ vực điều ǵ nữa, những giác quan mới của họ được thức động và một gian đoạn sống mới sẽ bắt đầu.

Một người b́nh thường, đời sống không có ǵ đặc biệt, không làm điều ǵ quá xấu hay điều thiện đáng kể th́ khi từ trần sẽ không được như thế. Mặc dù cũng nh́n thấy ánh sáng huy hoàng của Thượng Đế nhưng đa số lại do dự, rụt rè, không ư thức rằng họ có thể ḥa nhập vào đó để tiến lên cơi trên mà cứ quanh quẩn ở trong các cảnh giới quen thuộc vói họ. Một người khi c̣n sống không biết chăm lo phát triển về tinh thần mà chỉ lo những chuyện vẩn vơ tầm thường, sống không có mục đích rơ rệt, th́ sẽ thấy thời gian bên nầy trôi qua rất chậm, ngày giờ dài đăng đẳng, bởi v́ những chuyện giải trí bằng vật chất xa hoa kia không thể thực hiện được nữa. Họ sẽ t́m cách quanh quẩn bên những môi trường quen thuộc nhưng rất đau khổ v́ không thể tiếp xúc với người thân hay thỏa măn các dục vọng được nữa. Họ sống vất vưởng trong một bầu không khí ảm đạm, buồn chán không thể siêu thoát được và luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết hay tâm trạng lúc chết. Nếu được một người nào đó giúp đỡ hướng dẫn th́ họ có thể từ bỏ sự lưu luyến nầy để tiến lên cơi trên, nếu không họ có thể sống một cách bất động trong hoàn cảnh nầy rất lâu.

- Như vậy người ta sống tại đây lâu mau như thế nào?

- Thời gian lưu tại đây tùy theo các nguyên tử vật chất tích tụ trong thể vía của họ. Nếu các nguyên tử vật chất tiêu biểu bằng sự ham muốn, đam mê, cảm xúc và tập quán của xác thân thu hút những nguyên tử của vật chất tương ứng. Tâm thức của con người chẳng qua chỉ lànhững rung động của những nguyên tử và sự rung động nầy tương ứng với những cảnh giới khác nhau. Một người hoàn toàn sống buông thả, mặc cho dục tính lôi cuốn, không phát triển chút nào về trí thức hay tinh thần th́ sẽ thu hút các nguyên tử nặng trước, có sức rung động khít khao, rất khó tan ră, do đó họ sẽ phải trăi qua thời gian rất lâu tại những cảnh giới ô trược, xấu xa. Trái lại, một người đă chủ trị được dục vọng, ít ham muốn th́ thể vía trong sạch, thanh nhẹ, không cần phải tinh luyện ǵ nữa, phần nặng trược sẽ mau tan ră và họ có thể tiến bước lên những cơi giới cao hơn. Cậu Jules đặt tay lên vai tôi một cách thân ái.

- Cháu Steve, cậu đă chỉ cho cháu thấy một vài khía cạnh của đời sống bên kia cửa tử. Một số người tưởng rằng chết là hết, là sự vĩnh viễn chia ĺa và bây giờ cháu thấy rơ đó là một sự sai lầm rất lớn. Chúng ta là con của Thượng Đế, được tạo ra từ ngài nên dĩ nhiên là không bao giờ chúng ta có thể chết được. Kiếp sống của chúng ta trên thes gian nầy thật ra chỉ là một phần nhỏ của một đời sống lớn lao, cao cả hơn. Xuyên qua những kiếp sống, chúng ta học hỏi và tiến hóa để trở về với nguồn gốc, với Thượng Đế. Mục đích của đời người là hướng thượng và mỗi kiếp sống phải là một bước tiến trở về nguồn. Nếu con người có thể hiểu được các định luật bất biến của vũ trụ hay luật trời th́ họ sẽ biết rằng chẳng có một hung thần hay ác quỷ nào tạo ra các nỗi khổ đau cả mà chính là con người thiếu hiểu biết đă vi phạm các định luật nầy. Hiểu được luật trời, biết tuân theo luật trời, biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau th́ con người có thể tránh được bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu phiền năo.

Trong lúc ông nói, vầng hào quang bao phủ quanh ông phát ra những tia sáng chói lọi, lấp lóe như kim cương. Cậu Jules mỉm cười:

- Sắp đến lúc cháu trở lại cơi trần và Marjorie cũng muốn nói với cháu vài lời từ biệt nên cậu chỉ vắn tắt thôi. Cháu nên nhớ những điều cháu được chứng kiến và học hỏi nơi đây không phải là một giấc mộng hăo huyền mà là sự thật. Điều cháu học hỏi không phải là một đặc ân nào đâu nhưng chính nhờ đức hạnh của cháu. Cháu và cậu đă làm việc với nhau từ lâu, từ nhiều kiếp sống trong quá khứ, hiện nay cháu không nhớ được bao nhiêu nhưng sẽ có lúc cháu biết được những điều cháu đă làm cũng như những hạnh nguyện của cháu. Yù thức được điều nầy, nhiệm vụ của cháu sẽ c̣n quan trọng hơn trước rất nhiều. Chúng ta tạm thơi chia tay ở đây, trong một thời gian không lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau và sexlafm việc chung với nhau.

Cậu Jules vừa dứt lời th́ tôi đă thấy Marjorie từ xa đi đến. Cô lướt đi nhẹ nhàng như một người khiêu vũ. Quanh cô có một bầu ánh sáng chói lọi khiến tôi không khỏi ngây ngất. Marjorie liến thoắng:

- Nầy anh Steve, anh hiểu điều cậu Jules nói rồi chứ?

- Đại khái anh cũng hiểu được đôi ba điều nhưng cậu Jules nói là anh sắp phải trở về... Như vật làm sao anh có thể gặp lại cậu Jules hay em đây?

- Anh đừng lo. Em sẽ đến gặp anh mỗi khi anh ngủ. Nếu cần anh cứ tập trung tư tưởng trước khi anh ngủ để nghĩ đến em th́ em sẽ đến gặp em ngay. Thôi, đă đến lúc anh phải trở về rồi...

Tự nhiên tôi thấy mệt mỏi một cách lạ lùng, ngực tôi đau nhói và hơi thở trở nên khó khăn khiến tôi đưa tay ôm lấy ngực. Tai tôi c̣n nghe văng vẳng tiếng Marjorie:

- Tạm biệt anh Steve, chúng ta sẽ gặp lại nhau...

Khi tỉnh dậy, tôi biết ḿnh đă hôn mê gần một ngày. Cô y tá trực kể rằng tưởng tôi đă chết, người ta đă đem tôi xuống nhà xác để tẩm lieejm nhưng may thay tôi tỉnh dậy kêu la om ṣm. Bác sĩ khám nghiệm, xác nhận tôi c̣n sống và cho chuyển lên pḥng hồi sinh. Cô y tá kể lại rằng tại sao tôi không có hào quang. Tưởng tôi c̣n mê sảng nên cô nhẹ nhàng hỏi tôi muốn nói hào quang nào. Tôi trả lời rằng tại sao cô ta không toát ra hào quang giống như Marjorie. Nghi rằng tôi muốn t́m một người tên Marjorie nên cô trả lời rừng cô là Louise Clayton, và ở đây không có ai tên là Marjorie hết, phải chăng tôi muốn t́m một người tên là Marjorie. Tuy nhiên tôi lại nói rằng Marjorie đă chế từ lâu rồi nhưng tôi đă gặp lại cô ta, quanh người cô ta toát ra hào quang và lúc nào cũng lướt đi như khiêu vũ vậy. Cô y tá cho rằng tôi đă nói mê nhưng tôi nhấn mạnh tôi không mê sảng chút nào cả. Tôi gặp cậu Jules và Marjorie mặc dù cả hai đă chết từ lâu. Tôi c̣n thấy Hạ sĩ AnDrew Shaw bị trúng đạn ở trán trên chiến trường Âu châu, gặp Thượng sĩ Lawrence Sorgen và trung úy Robert Stevenson, cả hai đều tử trận hôm đó. Thấy vậy người y sĩ trực ra lệnh cho cô y tá trích cho tôi một liều thuốc ngủ.

Hai hôm sau, khi tôi hoàn toàn tỉnh táo th́ Louise Clayton bước vào:

- Hôm trước trong lúc mê sảng ông nói rằng ông thấy Andrew Shaw, Lawrence Sorgen và Robert Stevenson bị trúng đạn và tử trận ở Châu âu...

- Đúng thế.

Louise Clayton im lặng nh́n tôi và đưa ra một bản báo cáo mới nhất của bộ Quốc Pḥng thông báo tên những quân nhân tử trận và dĩ nhiên có cả ba người nầy. Việc một người bị hôn mê bất tỉnh tại North Carolina biết được những sự kiện xảy ra trên chiến trường Châu âu quả là một việc kỳ lạ. Tôi bèn kể lại những diễn tiến một cách chi tiết từ khi tôi bị ngất đi cho Louse nghe. Mặc dù cô y tá nầy không lấy ǵ làm tin tưởng cho lắm nhưng cô cũng không thể giải thích v́ sao tôi lại biết tên ba người quân nhân đă từ trần kia. Thật ra lúc đó trong thâm tâm tôi cũng không lấy ǵ làm chắc chắn, phải chăng tôi đă tưởng tượng hay mê ngủ? Không hiểu v́ sao tự nhiên tôi lại nảy ra một ư nghĩ lạ lùng:

- Nầy cô Clayton, xin cô hăy đợi đến sáng ngày mai rồi tôi sẽ nói chuyện với cô rơ hơn về việc nầy. Tôi biết cô không tin và tôi cũng không chắc là tôi đă nói đúng nhưng tôi nghĩ nếu tôi không tưởng tượng ra việc nầy th́ ngày mai chúng ta có thể nh́n nó dưới một khía cạnh khác.

Ngày hôm sau tôi rủ Louise ra ngồi ở chiếc ghế bên ngoài sân bệnh viện. Tôi nói:

- Nầy cô Louise, hôm đó khi vừa tỉnh dậy tôi có nói với cô về hào quang chi đó. Dĩ nhiên cô nghĩ rằng tôi đă nói mê sảng nhưng khi lên pḥng bà y tá trưởng để phúc tŕnh về bệnh t́nh của tôi, cô kể lại chuyện nầy cho bà đó nghe. Lúc đó v́ đang xem một hồ sơ bệnh lư nên bà y tá trưởng không hề ngước mắt lên nh́n cô mà chỉ nói: "Chắc ông đó c̣n mê sảng chứ làm ǵ có ai có hào quang". Sau đó cô rời pḥng trở về, trên hành lang cô gặp một quân nhân ngă trẹo chân ở sân tập nên cô bước phụ giúp việc băng bó cho anh ta. Liệu tôi nói có đúng không? Louise Clayton hoảng hốt không sao trả lời được:

- Ông Buckley, tại sao ông biết được chuyện đó? Khi ấy tôi đă chích cho ông một liều thuốc ngủ và ông đă ngủ li b́ kia mà!

- Đúng thế, tôi không biết ǵ về chuyện đó cả, nhưng hôm qua khi chúng ta đang nói chuyện vói nhau th́ cô tỏ ra không tin. Phần tôi cũng thế, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về chuyện nầy và không biết rằng tôi đă mê hay tỉnh đây. Tôi nhớ lại lời dặn của Marjoire nên đêm qua trước khi đi ngủ tôi đă tập trung khi nghĩ đến cô nầy. Tôi nghĩ rằng điều tôi đă kinh nghiệm thật mơ hồ, không có bằng chứng va chắc nói ra cũng không có ai tin, không chừng người ta c̣n cho tôi là loạn trí. Tuy nhiên sáng nay th́ tôi chắc rằng tôi không mê nữa, tôi đă gặp lại Marjoire trong giấc ngủ và cô ta đă dặn tôi kể lại điều nầy cho cô nghe.

Louise Clayton im lặng một lúc rồi nói:

- Marjoire c̣n nói ǵ nữa?

- Marjoire nói rằng được cô chăm nom săn sóc là một việc rất quư. Đây không phải là một việc ngẫu nhiên đâu mà có sự thu xếp để cô săn sóc tôi. Cô là một người có ḷng từ ái, làm việc thoải mái, chân thành và có những rung động thanh cao, rất tốt cho việc phục hồi sức khỏe của các bệnh nhân. Từ nhỏ cô thích âm nhạc và muốn trở nên một nhạc sĩ dương cầm, nhưng lúc chiến tranh xảy ra, cô t́nh nguyện trở nên một y tá để góp phần vào việc chăm sóc, an ủi các thương bệnh binh... Marjoire nói rằng cô sẽ giúp tôi rất nhiều nếu cô tin rằng điều tôi kể không phải là do tưởng tượng.

Louise Clayton giật ḿnh. Cô suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Theo như ông nói th́ Marjoire có một nhiệm vụ ở cơi bên kia?

- Đúng thế. Marjoire được giao phó nhiệm vụ giúp đỡ những người vừa từ trần c̣n đang hoang mang, hốt hoảng. Cô ấy giúp họ b́nh tĩnh, thoải mái để chấp nhận sự thật là họ đă bước qua thế giới khác, rồi khuyên họ hăy xả bỏ những ràng buoojc với coi nầy để siêu thoát.

- Thế c̣n nhiệm vụ của ông?

- Cậu Jules nói rằng nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ những người sống v́ những người đă chết không giúp được người sống, chỉ những người c̣n sống mới có thể khuyên bảo được người sống mà thôi.

- Như vậy ông sẽ làm ǵ?

- Tôi sẽ giúp những người sống hiểu biết về thế giới bên kia, biết rằng chết không phải là hết như mọi người thường nghĩ. Kiếp sống của chúng ta thật ra chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi của một tiến tŕnh rất dài. Mục đích của cuộc đời không phải là tranh dành, chém giết để đoạt lấy một địa vị, tài sản nhưng để học hỏi về thương yêu. Chúng ta được tạo ra trong t́nh thương của đấng sáng tạo và bản chất thật sự của chúng ta là thương yêu nhưng v́ không ư thức được điều nầy nên càng ngày chúng ta càng hành động trái với mục đích được tạo ra từ ban đầu. Cũng v́ thế cuộc đời thường có những biến động để nhắc nhở chúng ta rằng cai mà chúng ta tưởng là những giá trị lớn lao thật ra chỉ là những bọt nước hời hợt, chóng thành chóng hoại. Sự chết là một giai đoạn cần thiết trong tiến tŕnh của sự sống để con người duyệt xét lại những việc làm của ḿnh, rút kinh nghiệm để học hỏi, rồi chuẩn bị cho sự tái sinh. Sở dĩ chúng ta không thấy được cơi chết v́ giác quan thể xác của chúng ta rất giới hạn, nếu biết nâng cao tâm thức, khai mở được những giác quan của thể vía, v́ chúng ta có thể tiếp xúc được với cái thế giới bên kia cửa tử nầy. Thật ra các giác quan thể vía vẫn hoạt động âm thầm nhưng v́ chúng ta đă quen sử dụng các giac quan của thể xác nên chúng ta ít chú ư đến các giác quan kia. Tuy nhiên khi giác quan của thể xác tạm thời yên nghỉ, như lúc chúng ta ngủ chẳng hạn, th́ các giác quan của thể vía sẽ hoạt động mạnh mẽ hơn. Nó có thể đi khắp đó đây, giao thiệp, tiếp xúc và học hỏi trong thế giới riêng của nó. Dĩ nhiên khi thức dậy người ta không nhớ ǵ hết và cây cầu tâm thức nối giữa thể vía và thể xác chưa được khai mở nên ta chỉ có các ấn tượng mơ hồ, không rơ rệt. Nhờ cậu Jules nhắc nhở, tôi được biết trong tiền kiếp tôi đă từng tập luyện và khai mở được cây cầu tâm thức nầy, nhưng v́ tôi đă không ư thức ǵ đến nó cho đến khi quả ḿn nổ, gây chấn động đến những trung tâm huyền bí trong cơ thể tôi và thức động khả năng nầy. Qua sự chỉ bảo và hướng dẫn của cậu Jules, tôi có thể tiếp xúc với cơi giới vô h́nh trong giấc ngủ và khi tỉnh dậy vẫn nhớ được mọi sự một cách rơ rệt vi cây cầu tâm thức đă được khai mở.

- Nhưng làm sao người ta có thể tin được điều nầy khi họ không thể nh́n thấy hay tiếp xúc được với cơi giới bên kia.

phale
28-10-11, 09:14 AM
- Sở dĩ mọi người không thấy được ơi giới nầy v́ họ chỉ quen sử dụng các giác quan thông thường của thể xác, vốn cấu tạo bằng nguyên tử của cơi vật chất, không đồng chất với cơi giới bên kia. Tuy nhiên chúng ta không nh́n được, sờ được, nghe được ngửi được hay nếm được th́ không hiện hữu. Biết bao nhiêu thứ vẫn hiện hữu mà các giác quan nầy đâu có thấy đâu. Chúng ta đâu có nh́n thấy không khí mà không khí vẫn hiện hữu. Khoa học đă chứng minh có những sinh vật rất nhỏ bé như vi trùng nhưng nếu không có kính hiển vi th́ đâu ai nh́n thấy chúng. Tóm lại, nếu chấp nhận rằng sự hiểu biết dựa trên ngũ quan của chúng ta c̣n thiếu xót th́ con người sẽ khiêm tốn hơn và có thể học hỏi được nhiều điều mới lạ.

- Anh đă học hỏi được những ǵ?

- Sự học hỏi của tôi c̣n nhiều thiếu sót nhưng đại khái thoạt đầu tôi thấy cơi giới bên kia nhưng không có ǵ khác biệt so với cơi mà chúng ta đang sống. Theo lời Jules th́ đây cũng là cảnh giới đối phần (mirror image) của cơi trần, do đó người chết vẫn có thể thấy rơ tất cả mọi sự xảy ra chung quanh họ như nhà cửa, đườn gxas, bạn bè, thân quyến. Ty nhiên tất cả những thứ nầy đều là ảo ảnh v́ cái mà họ thấy chỉ là h́nh ảnh chứ không phải là thực, do đó tuy có thể cảm thấy mọi sự vật nhưng vẫn không thể liên lạc hay tiếp xúc được với những người thân. Dĩ nhiên họ vô cùng khổ sở hay đau đớn trong một thời gian, tùy theo t́nh cảm nhiều hay ít, nhưng dần dần họ sẽ dứt bỏ được các ràng buộc nầy để biết rơ hơn về sự liên hệ giữa họ và những người thân đó. Một khi đă hiểu được nguyên nhân sâu xa của những liên hệ nầy th́ họ sẽ ư thức rơ rệt hơn các định luật bất biến của vũ trụ, từ đó sự học hỏi thực sự bắt đầu...

- Nhưng... nhưng c̣n địa ngục?

- Đó là một tin tưởng sai lầm đă tạo ra nhiều nỗi lo sự một cách vô ích, nếu một kẻ ác xuống địa ngục bị quỷ sứ hành hạ, thiêu đốt thân thể, đánh đập tan xương nát thịt th́ xin hỏi khi chết thịt xương đă thối nát rồi, c̣n đâu mà hành hạ?

- Như vậy những kẻ hung ác không phải xuống địa ngục hay sao?

- Các thuyết về sự hiện hữu của một nơi gọi là địa ngục đă gây nhiều tai hại v́ khi nói đến địa ngục, người ta thường nghĩ rằng đó là một thế giới ở giữa ḷng trái đất với một nhóm các quỷ sứ hết sức dữ dằn, chuyên trừng trị những kẻ phạm tội. Thật ra chẳng có ai trừng phạt ai hết v́ địa ngục hay thiên đ àng chỉ là một trạng thái của tâm thức. Nếu biết sống một cách thoải mái, yêu thương th́ thế giới nầy vốn là thiên đ àng rồi, c̣n ngược lại nếu cứ sống với những khổ đau oán hận th́ nơi đây có khác chi là địa ngục!

Từ đó Louise Clayton thường hay đến gặp tôi để nghe về những kinh nghiệm học hỏi của tôi ở cơi bên kia. T́nh thân ái giữa chúng tôi bắt đầu nẩy nở. Tuy không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu được t́nh cảm của nhau cho đến khi thời gian điều trị chấm dứt, tôi trở lại quân trường và được đưa ra mặt trận Âu châu. Vào lúc đó trận chiến đă tàn, quân đội Đồng Minh đă giải phóng được nhiều nước Âu châu và đang trên đường tiến về Bá Linh. Đơn vị của tôi trú đóng tại nước Pháp, giữ nhiệm vụ tiếp tế cho đơn vị khác. Tuy công việc hàng ngày rất bận rộn nhưng tôi vẫn áp dụng phương pháp của cậu Jules đi an ủi những người vừa từ trần. Hôm đó chúng tôi đi ngang qua một quán rượu, cậu Joles chỉ một đám người đang chen chúc quanh đó.

- Cháu thấy không, đó là vong linh những kẻ nghiện ngập rượu. Khi c̣n sống họ nghiện rượu nên khi chết dục vọng đó vẫn tiếp tục chi phối khiến họ vô cùng đau khổ. Khi c̣n thể xác, uống rượu nhiều quá cơ thể không chịu nổi sẽ lăn ra ngủ, dục vọng tạm thời ngưng hoạt động. Khi chết, dục vọng được tự do biểu lộ, không c̣n thể xác kiềm chế nữ, nó nung nấu tâm can kẻ nghiện khiến lúc nào y cũng thèm khát đến phát điên phát cuồng. Do đó những vong linh nầy thường lân la quanh các trà đ́nh, tửu quán để thưởng thức mùi rượu, nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn sự ham muốn đó nên dục vọng càng ngày càng gia tăng dữ dội khiến vong linh hết sức khổ sở.

Tôi thấy một số binh sĩ đang uống rượu trong quán, có người uống nhiều quá, nôn mửa đầy xuống đất. Các vong linh nghiện rượu xô đẩy nhau chạy đến cúi sát xuống mặt đất để được hít những chất rượu thối tha nầy. Họ say mê hít hơi rượu một cách đắm đuối mà trên thế gian chưa thấy ai thưởng thức mùi vị rượu như thế. Thực ra họ không thể ngửi thấy mùi vị ǵ v́ đâu c̣n các giác quan thể xác nữa, nhưng cái ư nghĩ được thưởng thức rượu quá mạnh, đă xui khiến họ hành động như thế. Chỉ nh́n hành động điên cuồng đó mà tôi đă thấy rợn cả người. Cậu Jules chỉ cho tôi thấy một số vong linh khác đang cố gắng nhập vào xác những người say rượu để thưởng thức một vài dư vị của khoái xác thân. Những người say rượu hay sử dụng ma túy thường dễ bị các vong linh nhập vào. Sự nhập xác nầy tuy chỉ có tính cách tạm thời trong chốc lát nhưng nó cũng gây nhiều hậu quả tai hại cho người bị nhập. Càng bị nhập xác, những người nầy càng dễ bị mất tự chủ, và càng mất tự chủ họ càng dễ bị xui khiến làm điều xằng bậy. Theo sự hiểu biết của tôi, khi sự sống th́nh ĺnh chấm dứt như trường hợp chết bất đắc kỳ tử th́ người chết khó có thể siêu thoát được v́ dục vọng và sinh lực c̣n quá mạnh mẽ. Một cái chết bất ngờ luôn luôn tạo ra những chấn động, tán loạn tâm thần khiến cho người chết hết sức hoang mang và đau khổ. Đôi khi họ trở nên thù hằn, oán hận và chính tâm trạng lúc chết nầy sẽ khiến nên họ trở nên một động lực hết sức nguy hiểm, có thể xúi giục người sống làm những việc hết sức ghê gớm như giết người, hành hạ, hiếp đáp người khác,v.v.. Đa số những vụ sát nhân thường xảy ra khi hung thủ mất tự chủ v́ rượu, ma túy hoặc vi quá giận dữ. Những kẻ nghiện rượu, ma túy, tính khí nóng giận bất thường dễ trở nên nạn nhân của những động lực bất hảo nầy.

Đôi khi các vong linh cũng t́m cách xâm chiếm thể xác của những kẻ yếu bóng vía, những người nhạy cảm, hay những trẻ em yếu ớt nhưng trường hợp nầy chỉ có tính cách nhất thời v́ bản ngă con người thường rất mạnh, không dễ ǵ có thể đuổi nó đi để cướp lấy thể xác được. Thường th́ các vong linh lúc quá thèm muốn, bị dục vọng nung nấu, t́m cách chiếm cứ xác thân của một con thú nào đó v́ bản năng con thú thường yếu hơn sự đ̣i hỏi điên cuồng của một vong linh. Các loài thú kém tiến hóa như heo, cừu, dê, trâu, ḅ dễ trở thành nạn nhân hơn là các loài thú khôn ngoan hơn như chó, mèo, khỉ, ngựa vốn có ư chí kháng cự mạnh mẽ. Sự xâm nhập xác thú nầy có thể trọn vẹn hoặc có khi chỉ trong giây lát nhưng nhờ cơ thể con thú làm trung gian mà vong linh gần gũi được với cơi trần, cảm nhận được mọi sự qua giác quan của con thú thú và thỏa măn được một ít dục vọng như ăn uống, đ̣i hỏi xác thịt th́ vong linh cũng cảm thấy đau đớn, khổ sở và khi con thú bị mổ thịt th́ vong ling sẽ hoảng hốt, đau đớn, tuyệt vọng và trạng thái nầy sẽ ảnh hửong rất mạnh đến đời sống sau nầy của vong linh. Ngoài ra th́ nhập xác thú sẽ tiêm nhiễm vào thể vía của vong linh nên sau nầy dù có đầu thai lại thành người, nó cũng có khuôn mặt, h́nh dáng của con thú đó, hoặc tính t́nh hung bạo, tàn ác hay ngu si đần độn như con thú kia. Trong trường hợp tuyệt đối hơn, vong linh liên kết chặt chẽ với cái vía của con thú đó đă nhập, hễ con thú đi đâu th́ vong linh đi theo đó, giống như một tù nhân của xác thú. Điều nầy có thể giải thích được trường hợp của những kẻ hung dữ, nhiều dục vọng sẽ đầu thai trở lại thành vật.

V́ tâm trạng khi chết có thể ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống về sau nên cậu Jules và Marjorie phải làm việc rất nhiều để giúp đỡ, cảnh tỉnh và an ủi các vong linh. Phần tôi được giao trọgn trách giúp đỡ thân nhân của người chết hoàn tất một tâm nguyện nào đó mà họ chưa làm xong, nhờ thế họ có thể cởi bỏ các ràng buộc với cơi trần để siêu thoát. Dĩ nhiên sự hoạt động của tôi chỉ giới hạn trong lúc ngủ nên việc làm nầy không hiệu quả nhiều so với công việc của cậu Jules hay Marjorie, nhưng tôi rất thích công việc nầy. Khi muốn đi đâu hay gặp ai, tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trước khi ngủ th́ sẽ đến gặp người đó ngay, nhưng tôi không dám sử dụng năng khiếu nầy để gặp Louise Clayton v́ như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh. Cậu Jules đă dặn tôi rất kỹ rằng một người hiểu biết các định luật thiên nhiên không bao giờ làm một việc ǵ đó có tính cách ích kỷ hay riêng tư cho các nhân ḿnh. V́ biết thế, chúng tôi chỉ tiếp xúc với nhau qua thư từ hoặc thỉnh thoảng bằng điện thoại. Sau mấy tháng liên lạc, cảm t́nh của tôi dành cho Louise ngáy càng sâu đậm hơn nên một hôm tôi đă ngỏ lời cầu hôn và cô nhận lời. Chúng tôi dự định sau khi giải ngũ sẽ làm đám cưới.

Thời gian tuần tự trôi, cuộc chiến chấm dứt, quân đội Đồng Minh giải phóng được toàn cơi Châu âu nhưng chúng tôi vẫn chưa được giải ngũ v́ c̣n những khó khăn, rất cần sự hiện diện của một lực lượng quân đội tại đây. Tuy công việc bận rộn nhưng tôi vẫn liên lạc với cậu Jules để học hỏi thêm. Tôi thấy ḿnh thật may mắn v́ đă được giao phó một nhiệm vụ cao đẹp và được d́u dắt để học hổi thêm những kiến thức mới mẻ. Chính nhờ những kiến thức mới mẻ nầy mà đời sống của tôi được nâng lên một b́nh diện rộng lớn hơn, cao cả, tốt đẹp hơn, và từ đó tôi thấy rơ sự tiến hóa trong chương tŕnh vĩ đại mà Thượng Đế đă sắp đặt.

Nếu quan sát một cách kỹ lưỡng và có ư thức người ta sẽ thấy tất cả mọi sinh vật đều có một mối tương quan đặc biệt, điều nầy có thể coi như một thứ t́nh huynh đệ đại đồng v́ vạn vật đều có cùng một nguồn gốc mà ra. Đây không phải là một thứ lư thuyết suông mà là một nguyên lư hiện diện khắp nơi trong vũ trụ. Nên hiểu rằng vũ trụ là một toàn thể mà trong đó tất cả mọi thành phần đều liên quan mật thiết đến nỗi khi một phần tử trong đó biến đổi th́ toàn thể vũ trụ cũng biến đổi theo. Giống như một cái kính vạn hoa (Kaleisdoscope) thay đổi khi một phần tử trong đó thay đổi th́ vũ trụ cũng thế, nó luôn luôn thay đổi để giữ một trạng thái quân b́nh tuyệt đối. Dĩ nhiên trong một thế giới như thế, sự cô lập hay khia rẽ không thể hiện hữu v́ không một cá nhân nào hay một thực thể nào có thể tránh thoát được sự hợp nhất của toàn thể. Sự hợp nhất nầy vượt lên mọi sự khác biệt v́ nó được xây dựng trên căn bản ḥa hợp để giữ sự quân b́nh mà trong đó mọi loài đều tiến hóa dựa theocác định luật bất biến. Trong vạn vật, có một thực tại duy nhất chuyển sinh lực giúp tất cả mọi loài tăng trưởng, nẩy nở, phát triển và sinh sản, đó là sự sống duy nhất sinh hóa muôn loài. Xuyên qua tiến tŕnh sống nầy, cái duy nhất đó phân tán thành vô số tinh chất và h́nh thể khác nhau, và do sự liên quan vô số nầy, các phần tử kết hợp lại với nhau để tạo thành vô số các đơn vị điều ḥa và quân b́nh. Các nguyên tử (căn bản vật chất) được cấu tạo theo nguyên lư đó và rồi phân tử, các tế bào, các cơ quan, và các cơ thể cũng được tổ chức tương tự. Khắp vũ trụ, mọi thành phần đều có khuynh hướng kết hợp để tạo thành các phần tử tốt đẹp quân b́nh và yếu tố chính để bảo tồn sự quân b́nh nầy là t́nh thương. Luật vũ trụ không chấp nhận sự chống đối hay đi ngược lại các mănh lực kết hợp đó v́ nó làm mất đi sự quân b́nh, gây ra các xáo trộn. Để tạo lập lại sự quân b́nh đó, một phản lực phải được tạo ra để tái lập, đó là căn bản của luật nhân quả. Sự chống đối giữa người và người hay giữa người và các sinh vật khác đều là sự đi ngược luật vũ trụ và dĩ nhiên phải chịu hậu quả tùy theo nguyên nhâ đă gây ra nó.

Tại sao con người chống đối, thù hằn nhau? Phải chăng v́ có sự khác biệt giữa màu da, chính kiến, tư tưởng hay tín ngưỡng? Nhưng nếu sự sống là duy nhất th́ tại sao con người lại khác nhau, kẻ thông minh người ngu dại, người hiền lành kẻ hung dữ, hay có những người sinh ra mang màu da khác nhau? Nếu ta có thể hiểu rằng bản chất thực sự của con người vốn không khác nhau nhưng v́ khoác lấy một cái vỏ vật chất để kinh nghiệm thế giới hiện tượng nên sự khác biệt mới có. Chính sự khác biệt nầy tạo ra môi trường để sự học hỏi có thể xảy ra, thúc đẩy sự tiến hóa và nhờ thế vũ trụ mới mang sắc thái "động" thay v́ "tĩnh". V́ tất cả đều phát xuất từ một nguồn sống duy nhất và cái nguồn sống nầy luôn luôn hiện diện khắp nơi, khắp các cơi giới dù h́nh thể đời sống mỗi loài có khác nhau, tất cả vẫn đều liên quan chặt chẽ với nhau trong một tiến tŕnh đời sống. Trong tiến tŕnh đời sống nầy, các sinh vật phải luân hồi trong nhiều kiếp, khi sinh ra ở nơi nầy lúc ở nơi khác, có khi mang thể xác phái nam, khi lại mang thân phái nữ, lúc có màu da nầy khi mang màu da khác nhưng tất cả sự khác biệt đó đều là những mội trường để học hỏi và kinh nghiệm sự yêu thương. Nói cách khác, toàn thể nhân loại kẻ trước người sau, đang dần bước trong một cuộc hành tŕnh rất dài. V́ sự hiểu biết và học hỏi khác nhau nên họ có những tin tưởng, thành kiến và suy luận khác nhau nhưng đây chỉ là yếu tố phụ và ở bên trong họ đều là một: Đó là sự sống duy nhất đang tiến dần đến trạng thái toàn diện, một trạng thái yêu thương bao la vô bờ bến. Cho đến khi đạt đến trạng thái nầy cuộc hành tŕnh của thực thể cá nhân sex chấm dứt v́ khi đó họ đă ḥa hợp vào cái nguồn sáng bao la, thiêng liêng bất tận. Đó chính là sự trở về nhà mà các kinh sách tôn giáo thường diễn tả.

Một hôm tôi có việcphải đi công tác xa hơn một tuần lễ, khi trở về căn cứ tôi nhận được một bức thư ngắn của Louise Clayton có nội dung như sau: "Anh Steve, em đă t́m được việc làm ở một nơi xa, xin anh đừng viết thư cho em về North Carolina nữa. Em đă suy nghĩ nhiều về cuộc hôn nhân của chúng ta và thấy rằng chúng ta quyết định một cách hấp tấp. Chúng ta chức có th́ giờ t́m hiểuu nhau nhiều, vậy em nghĩ chúng ta nên dừng lại tại đây th́ hơn. Kính chúc anh mọi sự may mắn"

Đọc xong bức thư ngắn nầy tôi thấy thế giới dường như sụp đổ mộng đẹp đang xây dựng bấy lâu bỗng chốc tiêu tan. Tại sao Louise lại thay đổi ư kiến đột ngột như vậy? Phải chăng cô đă gặp một người nào học thức hơn hay có tương lai hơn? Louise không thể như thế được, cô là người mẫu mực, dịu dàng và có lư tưởng nên không thể quên lời hứa một cách dễ dàng như vậy được. Phải chăng có chuyện ǵ bất thường xảy ra? Phong thư không đề địa chỉ hồi âm nên tôi không thể nào liên lạc với Louise. Suốt ngày hôm đó tôi như người mất trí. Tôi đă điện thoại về North Carolina nhưng người ta cho biết Louise Clayton đă dọn đi và không để lại địa chỉ. Đêm hôm đó tôi cố gắng lắm mới không nghĩ đến Louise. Tôi biết ḿnh có thể tiếp xúc với Louise nhưng tôi cũng biết làm như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh. Một người phụng sự không được phép dùng quyền năng của ḿnh vào những công việc riêng nghĩ là vào những mục đích ích kỷ. Sau cùng tôi nghĩ đến Majorie và quyết định t́m gặp cô nầy. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau nên chỉ cần tập trung tư tưởng một lúc là tôi thấy Marjorie xuất hiện trong một vùng ánh sáng chói lọi. Cô vui vẻ nói:

- Nầy anh Steve, thật là sung sướng biết bao v́ em có nhiều chuyện kể cho anh nghe. Anh phải mừng cho em v́ em vừa được giao phó nhiệm vụ mới việc nầy khó khăn hơn. Từ nay em nhận lănh trách nhiệm an ủi những tre em vừa từ trần. Ôi chúng dễ thương làm sao! Lúc đầu chúng bơ vơ lạc lơng và rất sợ hăi, nhưng được em hết sức dỗ dành, chúng hết sợ c̣n gọi em bằng mẹ nữa...

- Marjorie liến thoắng nói như không thèm chú ư đến tâm trạng ngổn ngang lo âu, thất vọng của tôi. Cô tiếp tục:

- Anh phải đến gặp mấy đứa bé nầy, chúng dễ thương lắm. Nh́n chung cứ nh́n thấy bông hoa hé nở dưới nắng mai vậy... Ô hay! Anh lo lắng ǵ mà có vẻ khó chịu vậy?

Tôi đau khổ hỏi:

- Dạo nầy em có gặp Louise Clayton không? - Không. Em chỉ gặp cô ấy khi săn sóc anh ở bệnh viện thôi. Công việc của em ở bên nầy rất bận rộn nên em không trở lại cơi trần làm ǵ. Anh và Louise cùng ở cơi trần, gặp nhau dễ dàng, sao anh không đến thăm cô ấy?

Marjorie lặng nh́n tôi một lúc và chợt hiểu. Cô quàng tay vào tay tôi:

- Anh Steve, em hiểu sự đau khổ của anh nhưng đáng lẽ ra anh không nên hỏi em như vậy. Chúng ta gặp nhau để làm việc chung chứ không phải để nói chuyện có tính cách cá nhân. Nếu anh hỏi cậu Jules như vậy th́ cậu ấy sẽ nghĩ sao về anh?

- Marjorie nói bằng một giọng nghiêm trang khiến tôi giật ḿnh như tỉnh mộng. Phải, tôi đă nghĩ về ḿnh nhiều quá. Các nỗi lo lắng nhỏ nhặt, ích kỷ đă làm tôi suưt quên đi trách nhiệm được giao phó. Thật là xấu hổ khi Marjorie hoàn toàn quên ḿnh để giúp đỡ những đứa bé vừa từ trần trong khi tôi chỉ bận tâm đến việc mất người yêu. Tôi tập trung tư tưởng để tự trấn tĩng rồi nói:

- Nầy Marjorie, anh sẽ đến thăm mấy đứa bé mà em săn sóc. Anh cũng thích chơi với trẻ con và nếu em cho phép anh cũng sẽ hướng dẫn cho chúng...

Khi tỉnh dậy, tôi ư thức rơ khả năng tự chủ của tôi chưa được vững cho lắm. Một việc bất ngờ đă làm cho tôi bối rối như vậy th́ làm sao tôi có thể kham được những việc lớn lao hơn. May thay Marjorie đă nhắc nhở cho tôi biết, từ đó tôi chuyên tâm vào việc phụng sự những người vừa từ trần, giúp họ hoàn tất các việc chưa xong hoặc an ủi thân nhân họ.

Ba tháng sau tôi được giải ngũ trở về Hoa kỳ. Tôi có đến North Carolina t́m Louise nhưng không gặp, những người trong bệnh viện cũng không biết cô dọn đi đâu. Vào lúc chiến tranh vừa chấm dứt, số người giải ngũ di chuyển khắp nơi rất nhiều, việc t́m kiếm một người như Louise rất khó nếu không nói là gần như không có hy vọng. Tôi trở về New York sống với gia đ́nh và t́m được việc làm trong một hăng buôn. Ngoài công việc sinh kế hằng ngày, tôi để hết tâm trí vào việc phụng sự những người vừa từ trần trong lúc ngủ. Hôm đó tôi gặp một vong linh tên là Buster, ông nầy nói:

- Nhờ ông giúp cho tôi. Cách đây mấy năm tôi có ngoại t́nh và có một đứa con rơi. Chúng tôi quyết định giấu nhẹm chuyện nầy nên gửi nó vào một viện mồ côi ở Montana. Đó là viện mồ côi dành cho trẻ em khiếm thị v́ đứa bé bị mù bẩm sinh. Mẹ đứa bé đă dọn đi xa và lập gia đ́nh nên cũng không muốn nh́n nhận nó nữa. Phần tôi sống trong ăn năn, hối hận măi cho đến lúc chết. Trước khi từ trần tôi có viết một bức thư và kể lại chuyện nầy để xin lỗi nhà tôi v́ khi c̣n sống tôi không có can đảm thú nhận. Điều bất ngờ là không những nhà tôi đă tha thứ cho tôi mà c̣n muốn mang đứa bé về nuôi nữa. Tiếc thay v́ tôi không đẻ lại chi tiết nên nhà tôi không biết đâu mà t́m. Phiền ông lliên lạc với nhà tôi để mang cháu về dùm, hồ sơ tại cô nhi viện có ghi rơ chi tiết và có lưu lại một bức thư riêng của tôi tại đó.

- Bà Buster quả là một phụ nữ không những giàu sang mà c̣n giàu ḷng trắc ẩn. Sau khi nghe tôi tŕnh bày, bà yêu cầu tôi cùng đi với bà và vị luật sư riêng đến Montana t́m đứa nhỏ. Tất cả mọi chi tiết đều xảy ra đúng như lời ông Buster kể. Chúng tôi t́m được cháu Cheryl dễ dàng. Vị luật sư xem xét giấy tờ và xác nhận Cheryl chính là con ông Buster. Thật ra điều nầy cũng bằng thừa v́ cháu trông giống ông Buster như đúc. Vừa nh́n thấy Chery, bà Buster đă cảm động ôm chầm lấy nó, và có lẽ v́ linh tính sao đó, nó cũng quyến luyến bà buster không rời. Thủ tục nhận lănh đứa nhỏ tại cô nhi viện diễn ra một cách tốt đẹp và nhanh chóng. Trong khi chờ đợi ṭa án tiểu bang chấp thuận, đứa nhỏ được phép về sống với bà Buster. Cô bé Chery thu tập quần áo theo mẹ nuôi nhưng cô chợt kêu lên:

- Trước khi đi con phải vào từ giă cô giáo dạy nhạc của con đă.

Chúng tôi theo cô bé bước vào lớp học. Một nhóm trẻ đang quây quần chung quanh cây dương cầm để tập hát. Tự nhiên mắt tôi hoa lên. Cô giáo dạy âm nhạc kia đâu ai xa lạ mà chính là Louise Clayton, người mà tôi vẫn có ư định t́m kiếm bấy lâu nay.

Tại sao Louise Clayton lại làm việc tại đây? Th́ ra trong thời gian phục vụ tại bệnh viện, cô mắc bệnh ở mắt, thị giác dần dần suy kém và theo thời gian sẽ bị mù. Biết thế và không muốn cho tôi có một gánh nặng là cưới một cô gái mù, Louise viết thư từ hôn rồi dọn đến tận tiểu bang Montana, nơi mà Louise tin rằng không bao giờ tôi có thể t́m thấy được. Cô xin được việc làm tại viện mồ côi dành cho cac trẻ em khiếm thị. Biết được lư do nầy, tôi càng thấy yêu Louise hơn, mọi sự phiền muộn tan theo mây khói. Tôi lặp lại lời cầu hôn một lần nữa và lần nầy Louise chấp nhận một cách hoan hỉ.

Câu chuyện chấm dứt khi Steve và Louise kết hôn. Tác giả, ông Tucker đă kết luận: "Câu chuyện của Steve là một câu chuyện t́nh hay là một câu chuyện về thế giới bên kia cửa tử? Có lẽ cả hai v́ người ta không thể phân chia nó được bởi t́nh thương bắt nguồn từ Thượng Đế và Thượng Đế chính là t́nh thương. Đối với những ai biết sống thuận thao thiên ư th́ vũ trụ nầy chỉ có một điều quan trọng mà thôi: Đó là t́nh thương. Phụ sự người khác là ǵ nếu không phải là ḷng thương yêu, một thứ t́nh cảm êm dịu, vị tha, cao cả và mầu nhiệm. Tất cả những ai đă bước qua cơi sáng ắt phải nhận biết đó là một cơi của t́nh thương rực rỡ, huy hoàng. Điều đáng tiếc là tâm trạng con người khi chết thường quá sợ hăi, đầy quyến luyến và chỉ muốn bám víu vào các quan niệm sai lầm chứ không biết xả đi mọi ham muốn, dục lạc để thực sự kinh nghiệm những ân phước tràn đầy nơi cơi đó. Chính nơi cơi trần đầy xác trộn, bất an của chúng ta hiện nay cũng tràn đầy những tia sáng của t́nh thương nhưng tiếc thay chúng ta quá bận rộn với những ích kỷ nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày mà quên đi sự màu nhiệm tuyệt với của cuộc sống. Phải chăng những sự đau khổ của chúng ta chẳng qua là sự nhớ nhung t́nh thương đó và có lẽ chính v́ sự đau khổ mà người ta mới phát triển t́nh thương hay học yêu thương?"

Trong trang cuối, tác giả đă kể lại cuộc gặp gỡ giữa ông và vợ chồng Steve Buckley, v́ lư do ǵ mà ông xin phép được kể lại những điều ông nghe kể. Ông kết luận: "Rồi một ngày kia, t́nh thương yêu sẽ tràn ngập vũ trụ khi nhân loại ư thức được t́nh thương của Đấng sáng tạo và biết rằng t́nh thương đó không phải là một điều xa xôi diệu vợi, phải nhọc công tốn sức mới có. Thật ra nó vẫn sẵn có trong mọi chúng ta, v́ chúng ta được tạo ra trong t́nh thương và bản chất của chúng ta chính là t́nh thương".

phale
28-10-11, 09:18 AM
Chương 4

Áp Lực Vật Chất Đối Với Những Người Vừa Từ Trần

Trong những lần trước, chúng ta đă t́m hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đă chết rồi hồi sinh (Near death experience).

Trong phần nầy chúng ta sẽ t́m hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần.

Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống măi mà cũng không no. Có lẽ điều nầy ám chỉ những vong linh c̣n nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia th́ đay là một cơi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cơi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cơi trần như dục vọng, sự quyến luyến, ḷng ham ăn uống hay đ̣i hỏi xác thịt.

V́ trước sau ai cũng phải đến đó nên sự hiểu biết về cơi giới nầy là một điều rất cần thiết. Nếu khi du lịch qua xứ lạnh, người ta chuẩn bị y phục ấm để khỏi bị lạnh th́ sự chuẩn bị để qua cơi nầy cũng đ̣i hỏi một sự chuẩn bị cẩn thận. Dĩ nhiên sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất không phải dễ v́ trong mấy chục năm sống ở cơi trần, người ta đă trầm ḿnh trong dục lạc, muốn cở bỏ đâu phải trong một thời gian ngắn như vài ngày hay vài tháng mà được. Thông thường vào lúc tuổi già bóng xế, các thú vui vật chất sẽ giảm bớt đi nhiều. Khi răng long, rụot yếu th́ tự nhiên con người không ham thích ăn uống nhiều như khi c̣n trẻ nữa. Cũng như thế, khi sức khỏe suy yếu bệnh tật, con người sẽ không c̣n thèm muốn các thú vui vật chất như trước và sự suy giảm tự nhiên nầy sẽ giúp người ta giải thoát lần lần khỏi các áp lực vật chất. Tuy nhiên chết là điều không ai có thể biết trước được nên người ta không thể chờ đợi đến khi già mới bắt đầu lo mà phải biết chuẩn bị ngay từ bây giờ. Cuốn Tử Thư Tây Tạng đă ghi nhận: "Đời sống ở cơi trần và cảnh giới bên kia cửa tử có thể so sánh với đời sống của con tằm trong vỏ kén tối tăm và con bướm trong không gian rộng răi. Muốn sống thảnh thơi tự do, con bướm phải biết vất bỏ cái kén để bay lên không trung. Cũng như thế, muốn được thảnh thơi ở cảnh giới bên kia cửa tử, vong linh phải biết xả bỏ các dục vọng vật chất, các khoái cảm xác thân. C̣n giữ những gánh nặng nầy th́ có khác ǵ con bướm khi thoát xác tằm nhưng vẫn mang vỏ kén trên lưng, làm sao có thể bay bổng cho được". Theo cuốn sách nầy, những người chết quá trẻ, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử, thường đau khổ rất nhiều. Sở dĩ họ khổ v́ chưa già, chưa bệnh tật, nên các dục vọng vẫn c̣n mạnh, tạo áp lực khiến họ không thể siêu thoát. Nói một cách khác, họ chưa hề chuẩn bị để giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nên cứ quanh quẩn ở cơi trần, sống trong trạng thái u mê đau khổ. Bị ám ảnh bởi cái chết và tâm trạng lúc từ trần nên thần trí họ không thể sáng suốt để vượt ra khỏi các áp lực nầy. Sự thèm khát mà không được thỏa măn, đói mà không thể ăn, khát mà không thể uống, bị dục vọng hành hạ khổ sở có khác ǵ một cảnh âm ti địa ngục đâu! Chỉ khi nào các áp lực vật chất nầy tiêu tan hết th́ vong linh mới có thể siêu thoát được. Tóm lại hạnh phúc của con người ở thế giới bên kia cửa tử tùy thuộc rất nhiều về sự giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nầy. Cuốn Revelations của nhóm Les Amis de Chamfleury đă ghi nhận rất nhiều trường hợp về những áp lực vật chất mà danh từ Phật giáo gọi là "Cận tử nghiệp", chúng tôi xin trích dịch một trường hợp tiêu biểu như sau:

Bác sĩ Otto Kunz Làm việc tại bệnh viện thành phố Annecy, Thụy Sĩ. Ông bà Kunz Có một người con trai duy nhất tên là Jo đanh theo học đại học Geneve năm thứ hai. Vào tháng 4 năm 1952, cô thư kư của bác sĩ Kunz Nhận được thư của một người tên là Bernard Piquet viết cho bác sĩ nhưng v́ bất cẩn cô xếp lầm bức thư nầy vào một chồng hồ sơ bệnh lư dày cộm trên bàn thư bị thất lạc. Hai tuần sau đó, cậu con trai của bác sĩ đi bơi và chết đuối trong hồ Geneve. Đến cuối tháng sau khi dở hồn sơ bệnh lư, bác sĩ Kunz T́m thấy bức thư thất lạc, nội dung báo trước cái chết của cậu con trai Jo và yêu cầu bác sĩ tiếp xúc với người viết thư. Đại khái bức thư như sau: "Thưa bác sĩ, tôi được giao phó một công việc rất khó khăn mà tôi không biết phải xử trí ra sao. Việc nầy đă gây cho tôi nhiều bối rối nên tôi mạo muội viết thư nầy cho bác sĩ mặc dù chúng ta chưa hề quen biết. Tôi thấy trước tại ngịa địa thành phố Annecy một ngôi mộ mới của một cậu con trai tên là Jo Kunz, con của bác sĩ. Cậu vừa thi xong kỳ thi năm thứ hai đại học rồi đi tắm và bị chết đuối. Đây không phải là lần thứ nhất tôi biết trước được những việc sẽ xảy ra nhưng tôi không bao giờ can thiệp vào những việc nầy. Tuy nhiên lần nầy tôi nhận được lời yêu cầu phải thông báo tin nầy cho bác sĩ trước khi sự việc xảy ra nên tôi rất ngần ngại v́ sợ bác sĩ cho rằng tôi đang toan tính việc ǵ chăng! Tôi suy nghĩ rất kỹ và sau cùng quyết định viết thư nầy để xin bác sĩ liên lạc vói tôi qua địa chỉ và số điện thoại sau....".

Là người hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, bác sĩ Kunz Rất ngạc nhiên v́ lá thư đến trước khi chuyện xảy ra nên ông vội điện thoại cho ông Bernard Piquet. Trong cuộc tiếp xúc, bác sĩ Kunz Được biết ông Piquet không những là một người có địa vị trong xă hội mà c̣n là một nhà thần limh học chuyên nghiên cứu về cơi giới bên kia cửa tử. Oâng Piquet cho biết có rất nhiều vong linh sống vất vưởng, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, v́ c̣n quá nhiều quyến luyến với cỗi trần nên không thể siêu thoát. Nhiệm vụ của ông là liên lạc, giúp đỡ và hướng dẫn những vong linh nầy để họ có thể thích hợp với đời sống ở cơi bên kia. Bác sĩ Kunz Không tin tưởng ở những điều mơ hồ viển vông mà ông Piquet nói nhưng nể ông nầy là người có địa vị trong xă hội nên chỉ nói vỏn vẹn:

- Thưa ông Piquet, những điều ông nói hay lắm, nhưng ông có thể giúp đỡ tôi điều ǵ? Ông muốn xin chúng tôi điều ǵ chăng?

- Bác sĩ đừng hiểu lầm. Tôi không muốn xin xỏ một điều ǵ cả, nhưng cậu Jo, con của bác sĩ, đang cần sự giúp đỡ của bác sĩ v́ cậu đang vô cùng đau khổ.

Nghĩ ông Piquet có ư xấu, bác sĩ nổi giận:

- Ông muốn ǵ th́ cứ nói thẳng ra, con tôi đă chết rồi, xin đừng gợio lại những điều đau đớn đó nữa. Làm sao tôi có thể giúp đỡ con tôi được?

Ông Piquet b́nh tĩnh trả lời:

- Thưa bác sĩ, tuy đă chết nhưng cậu Jo không siêu thoát v́ đang bị ám ảnh bởi tâm trạng khủng hoảng lúc chết, do đó cậu rất đau khổ. Tôi cố sức đỡ giúp cậu nhưng vô hiệu. Có lẽ chỉ bác sĩ mới có thể giúp đỡ được cậu Jo mà thôi v́ ngày thường cậu rất phục bác sĩ.

- Tại sao ông biết điều đó?

- Đó là việc của tôi. Tôi vẫn thường liên lạc vớ thế giới bên kia cửa tử...

- Ông liên lạc bằng cách nào?

- Chúng tôi có nhiều phương tiện không thể kể hết được, nhưng cách giản dị nhất là qua trung gian của một đồng tử (Medium).

Bác sĩ Kunz Rất khó chịu v́ ông không tin những tṛ cầu hồn, cầu cơ, hay tiếp xúc qua đồng tử nên ông lạnh lung nói thêm và câu rồi chấm dứt buổi nói chuyện. Chiều hôm đó ông kể cho vợ nghe. Bà Kunz Vô cùng xúc động nên thúc dục ông phải tiếp xúc lại với ông Piquet:

- Chuyện nầy lạ lắm. Làm sao một người như ông Piquet lại biết trước cái chết của jo được? Nếu cô thư kư Gina không xếp lầm bức thư vào hồ sơ bệnh lư và nếu anh không mở hồ sơ ra coi lại th́ chuyện nầy sẽ ra sao? Biết đâu ông Piquet chẳng nói thật, ḿnh cứ tiếp xúc xem ông ta muốn ǵ và nếu ông ta bày tṛ bịp bợm th́ ta cứ việc gọi cảnh sát.

Lúc đầu bác sĩ Kunz Không nghe, nhưng v́ bà vợ thúc giục măi nên ông đ ành nhờ ông Piquet t́m cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử. Bác sĩ Kunz Chấp thuận với điều kiện buổi tiếp xúc phải được tổ chức tại trường đại học y khoa Geneve, dưới sự chứng kiến của một nhóm bác sĩ bạn thân của ông. Không những thế, buổi tiếp xúc c̣n được thu vào băng để làm tài liệu kiểm chứng. Ông Piquet nhận lời và buổi cầu hồn được tổ chức vào cuối tuần lễ đó. Một người đồng tử (Medium) được đưa đến và ông Piquet hướng dẫn buổi tiếp xúc dưới sự kiểm soát gắt gao của một hội đồng bác sĩ y khoa.

Lần thứ nhất cậu Jo nhập vào đồng tử, cô nầy ú ớ không sao nói được, cứ khua tay khua chân lia lịa một lúc rồi thôi. Ông Piquet cho biết cậu Jo không tỉnh táo và đang xúc động mạnh nên không nói được ǵ. Ông đề nghị mọi người hăy cầu nguyện để sự rung động nầy có thể ảnh hưởng đến thần trí cậu Jo khiến cậu tỉnh táo hơn. Sau khi chờ cho mọi người cầu nguyện xong, ông Piquet yêu cầu cậu Jo trở lại. Lần nầy cô đồng ú ớ một lúc như người bị sặc nước, cứ lấy tay chỉ vào cổ họng như muốn nói mà không sao nói được. Tay chân cứ giẫy giụa như người đang bị chết đuối một lúc rồi thôi. Bác sĩ Kunz Bán tính bán nghi không biết có nên tin hay không. Xem cử chỉ của cô đồng, ông thấy có cái ǵ quen thuộc mà không sao tả được. Ông Piquet giải tán buổi cầu hồn và hẹn sẽ tiếp tục ở một hôm khác. Trong khi chờ đợi, ông yêu cầu ông Kunz Tổ chức một buổi lễ cầu nguyện cho cậu Jo tại thánh đường địa phương. Buổi cầu nguyện diễn ra rất long trọng và trang nghiêm dưới sự chủ lễ của vị giám mục và có rất đong bạn bè của Jo. Vài hôm sau, một buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Geneve. Lần nầy cậu Jo nhập vào đồng tử nhưng cũng như lần trước, cô nầy ú ớ không nói được mà cứ chỉ tay vào cổ họng. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:

- Xin Thượng Đế toàn năng hăy giúp chúng con nghe được tiếng nói của Jo. Đó là điều an ủi lớn đối với chúng con. Chúng con yếu đuối thấp hèn, không thể là ǵ hơn được mà chỉ biết quỳ mọp dưới chân ngài để cầu xin. Gia đ́nh bác sĩ đă mất cậu Jo yêu quư, xin ngài cho phép họ tiếp xúc được với Jo trong chốc lát. Cầu xin ngài làm thế nào cho nỗi đau khổ của chúng con đưa chúng con đến gần ngài. Chúng con không phiền muộn hay trách móc v́ biết đó là ư ngài. Chúng con chỉ xin ngài hăy chăm lo cho linh hồn của Jo. Chúng con hy vọng và tin tưởng ở ḷng thương yêu cao cả của ngài. Xin ngài hăy d́u dắt và hướng dẫn chúng con...

Ông quay ra phía những người quan sát gần đó:

- Nầy các bạn, các bạn phải cầu nguyện một cách chân thành. Cậu Jo cần nhận được những rung động thanh cao, dồi dào của t́nh thương phát xuất từ trái tim của quư vị. Chỉ có t́nh thương mới có thể đưa linh hồn cậu thoát khỏi các áp lực vật chất mà thôi.

Những người ngồi quan sát bàn tán không biết có nên tin những lời ông Piquet hay không. Chỉ riêng bà Kunz Nước mắt đầm đ́a khóc lớn:

- Nầy Jo, nếu quả thật là con th́ hăy cho mẹ biết mẹ sẽ giúp con.

Tự nhiên cô đồng ngồi yên một lúc rồi thốt lên một câu ngắn:

- Khổ quá, khổ quá...

Cả hai ông bà Kunz Đều giật ḿnh v́ giọng cô đồng nói y hệt như giọng cậu Jo. Bà Kunz Xúc động khóc ầm lên nhưng ông Piquet cản lại:

- Xin quư vị hăy b́nh tĩnh, đừng làm cậu Jo thêm đau khổ. Quư vị hăy cầu nguyện chân thành v́ chỉ có sự chân thành mới có thể giúp được Jo trong lúc nầy mà thôi. Xin quư hăy tự xét ḷng ḿnh xem có thanh khiết hay không, v́ chỉ có sự thanh khiết mới có thể rung động và ảnh hưởng đến thần trí đang đau khổ của Jo. Chúng ta nên yên lặng và nghĩ đến Thượng Đế v́ chỉ có ngài mới có thể giúp được chúng ta trong lúc nầy. Tuy một vài người trong quư vị có ḷng thương Jo nhưng vẫn chưa đủ mà cần có sự ḥa hợp của nhiều người để tạo ra được một mănh lực vươn lên cơi trên cảnh tỉnh Jo. Quư vị đừng nghĩ rằng Jo đă chết. Cậu không hề chết như quư vị nghĩ đâu mà chỉ đi qua một cơi giới khác mà thôi. Quư vị có thể chuyển đến cho Jo những tư tưởng thân ái, những t́nh cảm chân thành v́ chỉ những thứ nầy mới làm cho Jo thoát được t́nh trạng u mê hiện nay. Càng than khóc quư vị càng làm Jo thêm đau khổ và càng đau khổ, thần trí Jo càng u mê, quyến luyến, hoảng hốt, không ích lợi ǵ cả.

Mọi người cố gắng cầu nguyện nhưng cô đồng ngồi im mà không trả lời. Sau cùng ông Piquet giải tán buổi cầu hồn. Ngay sau đó hội đồng bác sĩ họp nhau bàn tán, đa số cho rằng ông Piquet đă lừa gạt họ v́ họ chưa thấy có một bằng chứng nào là cậu Jo đă trở lại. Bác sĩ Kunz Tỏ ra siêu ḷng trước lập luận của bạn bè nhưng bà Kunz Quả quyết rằng giọng của cô đồng đúng là giọng nói của Jo và bà muốn tiếp tục thêm một lần nữa. Bác sĩ Kunz Cho ông Piquet biết ư định. Ông nầy trả lời:

- Tôi không thể giúp thêm ǵ v́ người duy nhất có thể làm việc nầy chính là bác sĩ. Tôi đề nghị bác sĩ hăy chủ tọa buổi hướng dẫn kỳ tới.

Hai tuần lễ sau, buổi cầu hồn lại được tổ chức. Lần nầy chính bác sĩ Kunz Hướng dẫn và cậu Jo trở về nhập xác đồng tử. Cô đồng cứ nấc lên như người bị sặc nước. Bác sĩ Kunz Lên tiếng:

- Hăy cố gắng lên Jo. Ba biết con bị sặc nước nhưng hiện nay con xác thân của con không c̣n nữa. Cái xác hiện con đang sử dụng chỉ là xác của một người khác cho con mượn. Cái xác nầy không hề hề hấn ǵ và con có thể nói năng dễ dàng. Quanh đây đều là những người thân yêu, ai cũng thương con và ai cũng muốn nghe con nói lên vài lời...

Tự nhiên đồng tử ngưng lại, cố gắng thốt lên một câu:

- Nhưng con không nói được.

Ông Kunz Vội lên tiếng:

- Con hăy can đảm lên, nói cho ba biết có vật ǵ đang ở trong cổ họng của con?

Cậu Jo cố gắng cử động cái lưỡi. Từ trước đến giờ cậu cứ ú ớ như không nói được, nhưng bây giờ th́ cậu cố gắng cử động lưỡi liên tiếp như muốn nhả một vật ǵ ra.

Ông Kunz Tiếp tục:

- Con thân yêu, hiện nay con không bị ngộp nước nữa đâu. Cái thể xác trước kia của con đă bị hư hại và được đem đi chôn cất rồi. Con hăy quan sát kỹ xem, bây giờ con không ở thẻ xác cũ nữa mà ở một thể mới, tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Con hăy thoát ra sự chi phối của thể xác cũ. Con hăy cầu nguyện, hăy quên đi tai nạn thương tâm vừa qua, cha mẹ và người quanh đây sẽ giúp con. Con hăy thở đều cho thoải mái. Con đă ra khỏi hồ nước, con thấy không? Chung quanh con toàn là ánh sáng đẹp đẽ, con thấy thân thể nhẹ nhàng không? Con hăy can đảm lên...

Cậu Jo vẫn khua tay múa chân như người đang bơi. Ông Kunz Nói tiếp:

- Con không c̣n ở dưới nước nữa mà đang ở trong trường đại học. Con hăy thở một hơi thật dài. Tất cả những thứ trong cổ họng con đă thoát ra ngoài cả rồi, cứ b́nh tĩnh thở đều, không có ǵ ngăn cản con hết...

Cậu Jo đưa tay sờ ngực và cố gắng nói nhưng vẫn chưa nói được, sau cùng cậu khóc tấm tức. Ông Kunz Tiếp tục:

- Con cứ khóc đi, không sao hết. Khóc cho trút hết nỗi đau khổ rồi con sẽ thấy thoải mái hơn.

Cậu Jo khóc một lúc rồi đưa tay ôm cổ. Ông Kunz Vội hướng dẫn:

- Nầy Jo, hiện nay con không c̣n ở dưới nước nữa. Con đang ngồi gần cha mẹ và con hăy b́nh tĩnh. Con đă được vướt lên khỏi hồ nước rồi...

Cậu Jo bật lên một câu:

- Cha mẹ ơi rong rêu bám đầy vào miệng con ghê gớm quá!

- Con cứ b́nh tĩnh, mọi việc đă qua rồi. Hiện nay con đang ở bên cha mẹ, không có ǵ có thể làm hại con nữa đâu.

Này Jo, ngày trước con hát hay lắm, con hăy hát một bài cho cha mẹ nghe đi.

Cậu Jo bật cười thành tiếng, hát một bản nhạc thịnh hành rồi thăng. Lúc đó ông Piquet mới lên tiếng giải thích:

- Cháu Jo từ trần quá sớm, cháu c̣n quyến luyến cha mẹ, tiếc cuộc đời c̣n đẹp nên không muốn từ bỏ cơi trần. Do đó cháu cứ bám víu vào thể xác nên thần trí bị u mê. Cái áp lực vật chất nầy rất kinh khủng cho những ai muốn bám víu vào cơi trần nên người chết cứ bị ám ảnh bởi hoàn cảnh khi chết. Dĩ nhiên họ rất đau khổ. Vấn đề là phải biết hướng dẫn cho cháu biết chấp nhận sự chết để được siêu thoát. Muốn như thế, cháu cần phải hiểu biết về đời sống ở cơi bên kia, loại bỏ những quyến luyến th́ mới có thể tiêu diêu tự tại được. Các ông bà nên biết có rất nhiều người chết vẫn ở trong trạng thái lúc chết từ năm nầy qua năm nọ mà không siêu thoát. Họ không sống ở cơi trần, không sống ơ cơi chết mà cứ ở giữa hai cơi. Chính cái hoàn cảnh không sống mà cũng không chết nầy làm họ u mê đau khổ. Muốn giúp họ chỉ có một cách duy nhất là cầu nguyện thật chân thành để sự thương yêu của quư vị tạo ra một mănh lực soi sáng tâm tư đang hồ đồ của người vừa mới chết. Các sự than khóc, kêu gọi ồn ào chỉ làm tâm tư người chết đă bối rối lại c̣n hoang mang thêm, không ích lợi ǵ hết. Do đó một đám tang phải được cử hành trong sự chân thành cùng cầu nguyện. Quư vị nên biết cơi giới bên kia cửa tử không phải là một cảnh thiên đ àng hay địa ngục như người ta thường diễn tả, mà là một cảnh giới rất sáng, một thứ ánh sáng tràn đầy yêu thương của đấng sáng tạo. Tại đây người ta có dịp hồi quang phản chiếu, ư thức thực của ḿnh để quyết định cho đời sống ở kiếp sau. Đời sống bên nầy rất yên lành, thoải mái v́ chỉ có các tư tưởng rung động thanh cao, không hề bị ô nhiễm bởi các dục vọng vật chất. Muốn thích hợp với đời sống, con người cần biết loại bỏ các ràng buộc vật chất như ḷng tham lam, ích kỷ. Chác Jo hiện nay vẫn c̣n bị ám ảnh nhiều bởi tâm trạng lúc chết nhưng tôi tin cháu sẽ hiểu biết và siêu thoát.

Sau buổi tiếp xúc, các bác sĩ trong hội đồng Y khoa đă họp nhau bàn thảo về trường hợp nầy. Đa số tỏ ra nghi ngờ v́ họ chưa thấy một bằng chứng rơ rệt nào rằng người nhập xác đồng chính là cậu Jo. Bác sĩ Kunz Cũng bối rối không biết có nên tiếp tục nữa không nhưng bà Kunz Th́ hoàn toàn tin tưởng, bà nói:

- Nghe tiếng nói tôi biết đó chính là Jo, không ai có lối nói như vậy ngoài Jo. Hơn nữa, bài hát đó vẫn là bài Jo thường hát, người ngoài không thể biết được. Các ông nghi ngờ ông Piquet đă đánh lừa chúng ta, nhưng ông ta làm thế để làm ǵ? Cho đến nay, ông Piquet chưa hề đ̣i hỏi hay lợi dụng chúng ta một điều ǵ.

Sau một hồi bàn tán sôi động nhưng không hề đi đến một kết luận nào, hội đồng bác sĩ quyết định cho tiếp tục buổi cầu hồn để thu thập thêm dữ kiện. Bác sĩ ben thông báo cho ông Piquet. Ông nầy yêu cầu mọi người hăy chân thành cầu nguyện cho Jo trong hai tuần lễ trước khi tiếp tục. Hai tuần sau, buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Geneve. Cũng như lần trước, bác sĩ Kunz Hướng dẫn và Jo trở lại, vẫn ú ớ không nói được và khua tay múa chân liên hồi. Ông Kunz Lên tiếng:

- Nầy, Jo con hăy ngồi yên đừng lắc lư nữa. Làm thế chỉ mệt thêm mà thôi. Con đă ra khỏi cái xác thân cũ, cái xác đó hư rồi không dùng được nữa, hiện nay con đă có một xác thân khác. Con hăy tĩnh táo và nghe lời cha mẹ nói đây. Chúng ta hăy cùng nhau cầu nguyện. Con c̣n nhớ những câu mà chúng ta thường cầu nguyện trước bữa ăn gia đ́nh không?

phale
28-10-11, 09:21 AM
Cậu Jo gật đầu là lên tiếng cầu nguyện cùng với mọi người nhưng sau đó cậu lại chỉ tay vào cổ như bị sặc nước. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:

- Hỡi Thượng Đế kính yêu, hỡi đấng Đại Từ Phụ toàn năng, chúng con xin quỳ mọp dưới chân ngài để xin ngài giúp cho cháu Jo thoát khỏi các áp lực vật chất. Chúng con xin thành tâm phụng sự ngài, xin ngài tha thứ cho chúng con những tội lỗi mà chúng con đă phạm, xin ngài chỉ bảo cho chúng con một con đường sáng. Nầy Jo, cậu hăy đọc cùng tôi lời cầu nguyện sau: Xin đức Cha tha thứ cho tội lỗi của chúng con, xin đức Cha chỉ bảo cho con một con đường sáng, xin đức Cha giúp con tiến đến gần ngài, con nguyện cương quyết rời bỏ thể xác vật chất nầy để tiến lên cơi sáng của đức Cha. Con nguyện sẽ phụng sự ngài và tiến lên đời sống tâm linh tốt đẹp, con quyết tiến lên cơi sáng...
Khi ông Piquet thốt lên lời cầu nguyện th́ cậu Jo lắng tai nghe một cách chăm chú, không c̣n ú ớ như trước rồi bỗng nhiên cậu cất tiếng đọc theo một cách chân thành. Khi vừa đọc đến câu cuối: "Con quyết tiến lên cơi sáng..." th́ cậu bất ngờ reo lên:

- Ô nh́n ḱa! Ánh sáng! Ánh sáng đẹp quá... Cha mẹ ơi, ánh sáng đẹp quá... Con đă ra khỏi đường hầm tối tăm rồi, trước mặt con toàn là ánh sáng...

Mọi người nín thở theo dơi. Bà Kunz Cảm động khóc thút thít. Cậu Jo reo lớn mừng rỡ:

- Cha mẹ ơi, ánh sáng ở đây đẹp tuyệt vời! Con thấy nhẹ nhơm làm sao... Con có thể bay bổng lên được. Thích quá! Thích quá! Phải rồi, con không c̣n ở dưới nữa mà đă bước vào cơi sáng... Ở đây ánh sáng đẹp tuyệt vời. Cha mẹ ơi, con sung sướng quá, con đă được giải thoát rồi...

Ông Kunz Mừng rỡ kêu lớn:

- Phải lấy Jo con ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi. Suốt mấy tháng nay con không thể nói được nhưng bây giờ con đă nói được rơ ràng rồi.

Ông Piquet ra hiệu cho mọi người cùng quỳ xuống chấp tay cầu nguyện:

- Hỡi đấng Đại Từ Phụ, chúng con cám ơn ngài đă giúp cho cháu Jo. Chúng con yếu đuối không thể làm ǵ hơn là xin quỳ mọp dưới chân ngài và xin ngài chăm nom cho phần hồn của cháu Jo. Chúng con tin tưởng nơi ḷng bác ái cao cả của ngài...

Cậu Jo nói lớn:

- Cha mẹ ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi, tại đây con rất thoải mái an lành, xin cha mẹ đừng lo lắng ǵ nhiều về con.

Nói xong, Jo cười một cách sung sướng rồi thăng.

Mặc dù buổi cầu có kết quả tốt đẹp nhưng đa số mọi người vẫn không tin tưởng cho lắm. Một số bác sĩ đă nghi ngờ rằng đó chỉ là một màn kịch được đạo diễn bởi ông Piquet mặc dù họ không biết ông nầy làm thế với mục đích ǵ. Cuộc bàn căi trở nên sôi nổi hơn khi bác sĩ Kunz Có ư nghiêng về phía ông Piquet và tỏ ư chê trách các bạn đồng nghiệp đă quá khắt khe với những dữ kiện thu thập được. Sau cùng mọi người đồng ư sẽ tổ chức buổi nói chuyện với Jo thêm một lần nữa. Hai tuần lễ sau Jo trở lại, lần nầy cậu tỉnh táo hơn và đă nói như sau:

- Cha mẹ ơi, khi xưa con chỉ biết nghĩ đến đời sống vật chất. Con nghĩ đến tương lai huy hoàng sau khi tốt nghiệp đại học. Con nghĩ đến những tiện nghi của đời sống như có một chiếc xe hơi, một căn nhà riêng, và một t́nh yêu thật đẹp. Chính v́ thế mà con không muốn rời bỏ trần nên cứ sống trong trạng thái bị ngộp nước suốt mấy tháng. Đó là do lỗi của con quá thiết tha với cái vỏ vật chất mà con không muốn từ bỏ. Bây giờ bước qua cơi sáng, con nh́n lại và thấy ḿnh quá ngu dại, lầm lẫn. Từ chỗ của con ở mà nh́n lại cơi trần, con thấy nó âm u, ảm đạm làm sao, khác hẳn với sự tươi sáng của cỏi nầy. Đời sống của con bây giờ đẹp lắm, đẹp không thể tả được. Phải chi khi vừa chết con biết được như vậy...

Bất chợt quay qua một bác sĩ ngồi gần đó:

- Cháu kính chào bá Morris. Cháu biết bác không tin tưởng ǵ ở những điều cháu nói. Cháu biết bác nghĩ cha cháu đă quá dễ dăi với những dữ kiện mơ hồ, không thể kiểm chứng nầy, nhưng bác ơi, cha cháu không lầm lẫn đâu. Làm sao cháu có thể nói cho bác biết được những điều cháu đă thấy hay đă kinh nghiệm được nơi cơi nầy cũng như những điều mà cháu đă thấy nơi cơi trần. Cháu không biết có nên nói tiếp nữa không...Thôi cháu cứ tŕnh bày và để bác tự quyết định.

Cháu biết bác là người rất quư trọng thời giờ. Bác tin rằng thời giờ là tiền bạc nhưng nầy bác Morris, ở cơi bên nầy tiền bạc không c̣n quư báu nữa và cũng không có một giá trị ǵ. Thay v́ lo kiếm tiền, bác nên dành thời giờ để lo cho Yvonne, con gái của bác th́ hơn. Yvonne rất thương bác nhưng hiện nay cô ta đang đau khổ v́ nghĩ rằng không ai hiểu được sự cô đơn của cô ấy. Nầy bác Morris, bác chỉ có một người con gái độc nhất mà bác rất yêu quư nhưng bác lại quá lo lắng về vật chất mà quên rằng con của bác đâu cần những thứ đó mà chỉ cần sự thông cảm của người cha dành cho người con mà thôi. Nầy bác Morris, Yvonne đâu cần những số tiền khổng lồ mà bác cất giữ trong ngân hàng, cô cũng đâu cần những trương mục đầu tư của bác dành riêng cho cô ấy. Điều cô ấy cần là sự cảm thông và hiểu biết của bác ḱa. Cách đây mấy hôm, Yvonne đến gặp bác trong pḥng làm việc để khoe bức tranh cô ấy vừa vẽ xong nhưng bác chẳng những không để ư, c̣n nghiêm giọng bảo cô ấy đi ra chỗ khác để bác làm việc. Bác c̣n nhẫn tâm nói rằng: Đừng làm phí phạm th́ giờ quư như vàng của bác. Bác có biết Yvonne đau khổ như thế nào không? Cô ấy đă xé nát bức tranh và c̣n có ư nghĩ điên rồ là nhảy từ trên lầu xuống đất. May thay sau một lúc khóc lóc, cô ấy nguôi ngoai nhiều nên đă bỏ cái ư định dại dột ấy đi. Cháu thiết nghĩ bác nên suy nghĩ lại. Điều Yvonne thèm khát nhất trong lúc nầy chỉ là một câu nói yêu thương chân thành và dịu dàng của bác, mà điều nầy đâu có khó phải không bác?

Bác sĩ Morris ngồi chết sững.

Mỗi câu nói của Jo là một mũi kim xuyên vào tim ông. Làm sao Jo biết được điều nầy? Những sự kiện riêng tư nầy làm sao một người ngoài có thể biết được, từ khi họ quan sát nó từ một cơi giới nào đó? Liệu ông có nên tin những câu nói mơ hồ phát ra từ miệng một đồng tử như vậy không? Là một khoa học gia, ông không thể chấp nhận những điều "phản khoa học" như thế nầy được, nhưng ông cũng không thể phủ nhận những dữ kiện có tính cách cá nhân mà ông không ngờ nhất. Mặt ông dúm dó lại như đau đớn lắm. Sau cùng ông run rẩy nói:

- Cám ơn... cám ơn Jo. Bác đâu ngờ sự t́nh lại xảy ra như vậy...

Cậu Jo quay qua một người khác:

- C̣n bác Franz Nữa. Có phải bác đang nghĩ rằng cơi giới bên kia cửa là một nơi náo xa lắm, xa như một tinh tú trên bầu trời mà người ta không thể đến được không?

Bác sĩ Franz Giật nẩy ḿnh, ấp úng:

- Phải... phải đấy... nhưng làm sao cậu lại biết?

Jo cười lớn:

- Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở cơi bên nầy người ta có thể đọc rơ tư tưởng của những người bên cơi trần một cách dễ dàng. Nầy bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cơi giới bên nầy rất gần với cơi trần và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên nầy. Để cháu lấy một thí dụ cho dễ hiểu: Khi bác mặc áo choàng là lúc bác ở cơi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra là bác đă qua cơi bên kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có khác ǵ đâu, vẫn y nguyên như trước đấy chứ. Bác không hề thay đổi ǵ, cũng như đi làm bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu th́nh ĺnh Chay bổng lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ. Nói một cách khác, khi từ trần người vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đă hư hại không cón sử dụng được nữa nhưng các giác quan mới lại bắt đầu làm việc. Sau một giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chỗ sáng, bị lóa mắt một lúc rồi mới có thể nh́n được mọi vật một cách rơ ràng th́ cũng như thế, nhờ các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể ư thức được cơi giới bên nầy một cách rơ rệt hơn. Điều đáng nói ở đây là sự quyến luyến với cơi vật chất, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại cứ nhắm mắt, không muốn nh́n ǵ nữa. Tuy họ không c̣n ở chỗ tối nữa nhưng họ cũng chưa thể thấy ǵ ở cơi sáng v́ nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê, đau khổ đ è nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng suốt, không ư thức và cũng hiểu biết ǵ. Ôi, cái tâm trạng sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, cứ vất vưởng trong trạng thái lúc từ trần, ở giữa hai cơi giới nầy thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được.

Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp:

- Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm về thế giới bên nầy. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn không chịu rời bỏ những ràng buộc vật chất. Số nầy rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang, đói khổ, không nơi nương tựa, không biết phải làm ǵ và cũng không chịu nghe ai. Phần con th́ rất thoải mái, muốn làm ǵ cũng được. Con có thể Chay lên Chay xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cơi sáng nầy hơn v́ mỗi lần đi trở lại cái đường hầm âm u tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn v́ thấy c̣n có những người cứ u mê, than khóc, buồn v́ cứ nghe những câu trách móc, than vang, những lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết. Mấy tháng trước con cũng như thế nhưng nhờ cha mẹ và mọi người cầu nguyện mà con tỉnh thức, thoát khỏi cái t́nh trạng kinh khủng kia. Bây giờ con đă hiểu rồi nên cố gắng giúp đỡ những người c̣n đang u mê để họ có thể tỉnh thức... Con làm việc ngày đêm không biết mệt và cũng không cần phải cung ứng nữa...

Bà Kunz Giật ḿnh kêu lớn:

- Sao, con không ăn uống ǵ ư:

Cậu Jo cười lớn:

- Ở bên nầy đâu ai cần phải ăn uống! Người ta sống bằng tâm thức chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa. Nầy mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khỏe của cha mẹ không c̣n như xưa, mẹ không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống. Phần con th́ không nghĩ ǵ đến việc ăn uống, thế mà sức khỏe của con lại hơn xưa v́ ở bên nầy thức ăn cần thiết là t́nh thương chứ không phải thứ ǵ khác. Cha mẹ ơi, lạ lùng lắm! Con nghiệm được rằng t́nh thương là sự cho ra chứ không phải nhận vào. Càng cho ra Chao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khỏe bấy nhiêu. Đó cũng là đặc điểm của cơi sáng bên nầy: Càng yêu thương Chao nhiêu, người ta càng nhẹ nhơm, sung sướng, thoải mái, b́nh an bấy nhiêu. Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những vong linh vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ: Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng đau khổ, oằn oại, thao thức như con đă trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ như thế cho đến lúc tỉnh thức. So sánh với hoàn cảnh của con th́ nhiều người c̣n khổ hơn nhiều, có người đă đau khổ như vậy đă mấy trăm năm rồi, không thể nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được. Chắc hẳn họ đă phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo chỗ con biết, họ là những người khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đă khô kiệt, chỉ c̣n những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải trong những nổi đau khổ cùng cực cho đến khi nào những động năng thù oán đó tiêu tan bớt đi. Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong ṿng mấy tháng thôi, v́ mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng ḿnh đă chết, cứ u mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống ở đâu cũng có cái hay, cái đẹp của nó. Nếu biết như vậy con đâu để ḿnh bị ngộp nước lâu đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đă nghiệm được, cha mẹ nên tŕnh bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đă trải qua.

- Nầy Jo, con có thể cho cha biết tai nạn đó xảy ra như thế nào không?

- Cha muốn con trở lại t́nh trạng khổ sở đó sao?

- Không phải vậy, nhưng bây giờ con đă siêu thoát rồi. Cha tưởng con có thể cho cha mẹ biết sự việc một cách rơ ràng và khách quan hơn.

- Cha mẹ biết rằng con rất thích bơi lội. Hôm đó sau khi thi xong, thấy làm bài trôi chảy, con bèn tự thưởng cho ḿnh bằng cách ra hồ vùng vẫy cho thoải mái. Con nhào lộn một hồi mà quên rằng ḿnh đă mệt v́ phải thức khuya học thi suốt mấy ngày liền. Con vừa bơi được một lúc th́ đuối sức nên bị ch́m xuống đáy hồ, mắc vào những cọng rong rêu. B́nh thường con có thể đạp chân để trồi lên được nhưng hôm đó mệt quá nên con hoảng hốt và bị sặc nước. Thật ra dù có trồi lên được th́ con cũng chết thôi v́ phận số đă đến lúc rồi. Việc ra đi cũng nhẹ nhàng chỉ như người ta lật một trang giấy thôi, nhưng con lại không muốn chết v́ con muốn bám víu vào cái thể xác vật chất. Con thấy ḿnh c̣n quá trẻ mà cuộc đời lại quá tươi đẹp nên không muốn chết, chỉ muốn trở lại với thể xác nên cứ mơ màng trong cái trạng bị sặc nước, cho đến khi được Ơn trên phù hộ giúp con tỉnh thức và hiểu biết. Trong lúc u mê, con không biết ǵ và cũng không hiểu ǵ cả nhưng con cảm nhận được tư tưởng yêu thương chân thành và nghe được những lời cầu nguyện của mọi người. Chính sự cầu nguyện đă giúp con tỉnh táo nhiều.
Bác sĩ Franz Lên tiếng:

- Nầy Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cơi giới bên đó không?

- Được chứ. Cơi bên nầy không phải là nơi mà người đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn hễ ai rơi vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là một cơi sáng rất linh hoạt. Có lẽ nó c̣n linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cơi trần, nhưng sự linh hoạt ở đây không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng, b́nh an, thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một t́nh yêu thương tuyệt đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết. Trong sự b́nh an nầy, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đă xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và học hỏi để chuẩn bị cho một đời sống mai sau.

- Cháu nói sau? C̣n có một đời sống nữa hay sao?

- Đúng thế. C̣n có nhiều cơi giới nữa chứ không phải chỉ có một cơi bên nầy mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu c̣n giới hạn nên cháu không biết rơ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ có lúc cháu sẽ trở lại cơi trần, dĩ nhiên dưới một h́nh thức nào đó. Theo sự biết của cháu th́ việc học hỏi ở bên nầy có tính cách lư thuyết c̣n phải mang ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. V́ người ta chỉ có thể kinh nghiệm được qua đời sống ở cơi trần mà thôi nên trước sau ǵ các vong linh cũng đều tái sinh trở lại.

Cậu Jo quay qua cha mẹ:

- Thưa cha mẹ, con đă nói tất những ǵ con biết về cơi giới bên nầy. Con xin cha mẹ cứ yên chí, đừng quá lo lắng ǵ nhiều cho con và cũng đừng gọi con trở lại nữa... sự liên lạc nầy không cần thiết, gây quyến luyến và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay rất bận rộn. Con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người đă cầu nguyện cho con, chính nhờ việc nầy mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân thành cho người chết có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức quan trọng mà mọi người cần nên biết. Khi từ giă cơi trần, người ta không thể mang theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà chỉ có thể mang được ḷng yêu thương và sự hiểu biết mà thôi. Chính ḷng yên thương là mănh lực duy nhất có thể vượt qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó măi măi, nó cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp người ta tiến hóa, phát triển ở cơi giới bên nầy. Người ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh nầy với hành trang quư báu và độc nhất là sự yêu thương mà thôi. Những điều con nói ra hôm nay cần được tŕnh bày cho mọi người biết rơ, đó cũng là lư do ông Piquet viết thư riêng cho cha để báo trước. Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều nầy không quan trọng, nhưng sự hiểu biết về cơi sáng và các áp lực vật chất sẽ là một hạt giống tốt gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phúc khổ sở lúc ĺa đời, người ta sẽ nhớ lại. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người luôn luôn được b́nh an, hạnh phúc.

Trường hợp của Jo Kunz Là một trong hàng trăm tài liệu đă ghi nhận và soạn thảo thành hồ sơ một cách chi tiết. Một số khoa học gia cho rằng đây là tài liệu rất quư giá về cơi giới bên kia cửa tử cần phải được nghiên cứu rộng răi hơn. Một số khác chưa chịu chấp nhận các hiện tượng nầy v́ tính cách "mơ hồ khó có thể phối kiểm qua các định luật khoa học thực nghiệm". Do đó các nhà khoa học vẫn c̣n bàn căi sôi nổi, chưa ai chịu nhường ai nhưng đó là việc của ho. C̣n về phần chúng ta? Phải chăng chúng ta vẫn chờ đợi cho đến khi những khoa học gia hay giới chức có thẩm quyền chấp nhận th́ mới chịu tin?

phale
28-10-11, 09:21 AM
Theo những tài liệu viết về cơi giới bên kia cửa tử như cuốn Tử thư Ai Cập và Tử thư Tây Tạng th́ những người chết trẻ, chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp lực rất nặng của vật chất nên khó siêu thoát. Người chết trẻ giống như quả non chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta có thể tách rời cái hột ra khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát ra khỏi áp lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khác của xác thịt. Các vong linh nầy không muốn ĺa bỏ cơi trần, không muốn rời bỏ thể xác đang tan ră, nên đau khổ rất nhiều. Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng khi có người sắp từ trần cần phải tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một thời gian. Mặc dù đây là việc nên làm, cần làm và thường được làm nhưng nếu chờ đợi đến khi chết rồi mới lo cầu nguyện th́ có lẽ đă quá trễ chăng? Cuốn Tử thư Tây Tạng khuyên người ta cần chuẩn bị càng sớm cáng tốt, nếu có những ham muốn vật chất th́ phải biết hạn chế lần hồi các dục vọng nầy bằng cách thay thế nó với những thú vui trí thức, nghệ thuật có tính cách hướng thượng. Chương thứ sáu của cuốn Tử thư đă ghi rơ: "Muốn được hữu dụng ở cơi trần và thoải mái ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết làm chủ các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh sự tha thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng v́ đó là những vật vô thường, nay c̣n mai mất. Khi nhắm mắt từ bỏ cơi trần, người ta không thể mang nó theo được mà c̣n bị nó tạo những áp lực khiến cho thần trí hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đọa lạc vào cảnh giới ngạ quỷ hay súc sanh".

Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về cơi giới bên kia cửa tử là một đề tài cần được nghiên cứu rộng răi để chuẩn bị cho mọi người v́ trước sau ai cũng qua bên đó. Tại sao trước khi đi du lịch một nơi nào, người ta đă thu xếp hành lư cẩn thận, nhưng lại cố t́nh phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi chốn mà trước sau ai cũng phải đến?

Theo tài liệu của viện nghiên cứu Gallup th́ với sự tiến bộ của nền y khoa hiện đại, một số người đă chết nhưng được hồi sinh (near death experience) mỗi ngày một nhiều. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cơ quan Gallup đă ghi nhận hơn 8 triệu trường hợp xảy ra. Cũng theo cơ quan nầy, đa số dân chúng Hoa Kỳ (68%) đều tin rằng "có một đời sống bên kia cửa tử". Kết quả cuộc nghiên cứu của viện Gallup cho thấy mặc dù kinh nghiệm cá nhân có phần khác nhau ít nhiều nhưng nói chung đa số đều cho biết họ thấy "nhẹ nhơm, thoải mái, không đau đớn ǵ khi ĺa bỏ thân xác". Phần lớn kể rằng họ đă thấy cái thể xác nằm bất động của ḿnh (out of body experience) và sau đó bị lôi cuốn đi trong một đường hầm đen tối sâu hun hút trước khi đến một biển sáng dịu dàng, thoải mái. Có người kể rằng họ gặp lại các thân nhân đă từ trần trước đó, có người kể rằng họ gặp những cá nhân mà toàn thân sáng chói như thiên thần, có người tin rằng họ đă gặp Thượng Đế hay gặp Chúa Jesus và được ngài chỉ dạy.

Một số khoa học gia đă phủ nhận sự kiện nầy và cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong lúc mê sảng. Họ cho rằng khi sắp chết, cơ thể của con người đă tiết ra những hóa chất đặc biệt, có công dụng gây ảo giác như một thứ ma tuư, mặc dù họ chưa chứng minh được những hóa chất nầy như thế nào. Một số người khác tin rằng lúc chết, cơ thể con người bị xáo trộn mạnh mẽ, bộ óc không c̣n kiểm soát được mọi sự nữa nên hệ thần kinh đă hoạt động rất b́nh thường. Giống như một b́nh điện bị chạm, xẹt lửa lung tung, bộ óc con người lúc tan ră cũng có những rối loạn khiến người ta có cảm tưởng như đang ở trong một thế giới với muôn ngàn tia sáng lắp lánh. Tuy nhiên họ không thể giải thích nếu bộ óc đă tan ră (xẹt lửa) như vậy th́ tại sao khi hồi sinh nó lại hoạt động b́nh thường như không hề có chuyện ǵ xảy ra. Các nhà tâm lư học cho rằng h́nh ảnh về thế giới bên kia chỉ là những sự tin tưởng tọn giáo, nằm sâu trong tiềm thức con người, khi đầu óc bị chấn động lúc chết nó đă phát động như một "phương tiện tự vệ" để giúp con người tránh sự xúc động. Tuy nhiên theo dữ kiện của viện nghiên cứu Gallup, th́ phần lớn số người hồi sinh nói về "đời sống ở cơi bên kia" không phải những người có nhiều đức tính về tôn giáo hay những người không đáng tin cậy. Một số lớn là những người có địa vị hay tŕnh độ học thức rất cao trong xă hội, một số khác là các trẻ em c̣n ngây thơ, chưa biết thêu dệt hay thêm thắt những điều bịa đặt.

Trong cuốn Learning from Children s Near Death Experiences, bác sĩ Melvin Morse viết: "Tôi tin rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới, có thể nối liền khoa học với tôn giáo. Hiểu biết được sự việc nầy, chúng ta có thể thay đổi quan niệm sống một cách toàn diện và nền y khoa cũng sẽ bước vào một giai đoạn khác hẳn khi xưa". Bác sĩ Morse đă ghi nhận hơn 1000 trường hợp trẻ em bị tai nạn, tưởng đă chết nhưng lại được hồi sinh. Các em nầy kể lại hoạt vẽ lên giấy những h́nh ảnh mà các em đă thấy, cũng như những người mà các em đă tiếp xúc ở cơi giới bên kia. Đa số các em đều nói về một nơi chốn rất sáng, có các thiên thần toàn thân sáng chói d́u dắt, an ủi và ôm các em vào ḷng. Nhiều em kể lại đă gặp thân nhân, họ hàng đă qua đời, hoặc bạn bè giúp đỡ trong lúc các em bị xúc động.

Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lănh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đă nh́n cái chết một cách sợ hăi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó v́ làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách b́nh thản, giản dị th́ họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn, lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ư nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính v́ có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng th́ cũng phải có sự hủy diệt, đâu có ǵ tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ư nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đă đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện nầy chứ không thể chấp nhận những lư thuyết mơ hồ nào đó được". Zz Phần lớn các tài liệu nói về người chết hồi sinh chỉ ngưng lại ở một cảnh giới có ánh sáng chói lọi, ít khi đi xa hơn nhưng đă có những tài liệu khác của những người đă chết t́m cách liên lạc với cơi trần, kể rơ về cảnh giới bên kia cửa tử. Chúng tôi trích lại một tài liệu từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ư đến những điều mà những nhà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết v́ thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đă hư hoại th́ trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đă nói: "Nếu đă chết làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cơi giới nào ngoài đời sống nầy nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều ǵ th́ cha sẽ t́m đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông v́ bận việc nên cũng không để ư ǵ buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đă viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến v́ tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn kêu các em lại dự buổi cơ bút nầy, một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút ch́ và chỉ một lát sau cây bút đă tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài ḷng đă gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ư trong đợi để kể cho các con nghe về những điều ở cơi bên nầy mà cha đă chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đă biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết ǵ nữa. Một lúc sau cha thấy ḿnh đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rơ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha lại thấy trong ḿnh dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị g̣ bó, ràng buộc như trước. Các con biết lúc đó cha đang bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy ḿnh có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn ǵ. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó th́ bất chợt cha nh́n thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rơ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một h́nh thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đ́nh đang xúc động và không thể hiểu sao cha cứ thấy trong ḿnh buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ư thức rằng ḿnh đă chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy ḿnh b́nh tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm ch́m trong những lời cầu nguyện nầy thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rơ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rơ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ư thức tường tận các hành vi của ḿnh, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đă làm cũng như các điều xầu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đă làm và hối tiếc về những điều mà lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rơ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong t́nh trạng vật vờ, nữa ngủ nữa thức nầy một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy th́ thấy ḿnh vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như bầu ánh sáng lần trước. Cha thấy ḿnh có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ v́ không c̣n xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ th́ cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người nầy có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biềt tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cơi bên nầy. Sở dĩ cha không tiếp xúc được với một số người v́ họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học nầy làm cha tạm hài ḷng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cơi bên nầy tầng số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước th́ ở cơi bên nầy, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể t́m đến các cảnh giới khác nhau. Sự kiện nầy làm cha vô cùng cảm thấy vô cùng thích thú v́ như vậy quả có một cơi giới bên kia cửa tử và cơi nầy lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa. Zz Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đ àng địa ngục nhưng hiện nay cha cảm thấy quan niệm nầy có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động nầy như thế nào? Tại sao cha lại có tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo t́nh cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau, người có t́nh thương cao cả khác với những người tính t́nh nhỏ mọn, ích kỷ hay nhữnng người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt cậu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, th́ người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cơi bên nầy cả. Điều nầy làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tác chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên nầy ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm ǵ với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người nầy bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xa xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước đến nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà ḿnh vẫn hănh diện thật ra chẳng đáng kể ǵ só với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người ta nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ư thức về tần số rung động của ḿnh.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi c̣n sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đay cũng không khác cơi trần bao nhiêu, cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn, có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc, có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật nầy dường như luôn luôn thay đổi nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Thay v́ xây cất nhà cửa bằng chất liệu vật chất như gạch đá th́ họ lại tạo ra những thứ nầy bằng tư tưởng. Điều nầy có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cơi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc ḿnh, nhưngn ở cơi trần, sức mạnh tư tưởng nầy rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc rồi thôi. Ở bên nầy v́ có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những h́nh ảnh nầy có thể được thự hiện một cách rơ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên nầy suốt ngày rong chơi, tạo ra các h́nh ảnh theo ư muốn của họ, mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh, v́ mọi tư tưởng bên nầy đều tạo ra các h́nh ảnh nên đây là môi trướng rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ư thức rơ rệt hơn về tư tưởng của ḿnh. V́ đời sống bên nầy không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời gian theo đuổi những công hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, kẻ theo đuổi các ngành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương, thơ phú.v.v.. Tóm lại, đây là môi trường để học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một pḥng th́ nghiệm khoa học để sau nầy có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có ǵ đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy ǵ làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng ǵ thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" th́ đời sau lại bị coi là "cổ hủ lỗi thời" và như cha đă biết th́ những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đ ào thải. Tuy nhiên cái t́nh thương, cái ư tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật th́ bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những ǵ có thể tổn tại được với thời gian mà không thay đổi th́ mới đáng gọi là chân lư. Cha mong các con hăy suy gẫm về vấn đề nầy, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay v́ theo đuổi những giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ư nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta nhu một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cơi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ư thức ǵ đến nó nên nó khép kín lại, nhưng khi bước qua cơi bên nầy th́ nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bầy rơ rệt trước mắt. Nhờ thế mà cha biết rơ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong ḿnh. Cuốn sổ lưu trữ nầy là bằng chứng cụ thể của những đời sống đă qua và chíng nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với nhựng cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cơi giới bên nầy. Do đó, muốn được thoải mái ở cơi bên nầy, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hăy bắt tay vào việc nầy ngay. Các con hăy ráng làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc ǵ, các con hăy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hăy tập quên ḿnh. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi c̣n sống, đă có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng ḿnh đă lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có t́nh thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo ḿnh qua cơi giới bên nầy một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. T́nh thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mănh lựv bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ ḷng thương nầy mà người ta có thể t́m gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đă trở nên mềm yếu chăng? Nầy các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên nầy, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của ḿnh, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thang cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lư trật tự và điều ḥa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của ḿnh mà ra cả và chính ḿnh phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của ḿnh hay lựa chọn những nơi mà ḿnh sẽ đến.

Khi c̣n sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết ḿnh đă lầm. Cha không phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ c̣n tiếp tục măi măi. Hiển nhiên cá nhân của cha không phải là cái thể xác đă bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động nầy, dó đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đă hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một gịng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi nầy qua nơi khác, từ h́nh thức nầy qua h́nh thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau, và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ư thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp th́ đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nh́n lại toàn vẹn tiến tŕnh của sự sống th́ kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhân thức về bản chất thật sự của ḿnh vốn là nước chứ không phải là sóng th́ các con sẽ ư thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có quan niệm rơ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái ǵ ghê gớm như người ta thường sợ hăi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung v́ nếu khi c̣n sống các con đă đem hết khả năng và phương tiện của ḿnh để giúp đời, để yêu thương mọi loài th́ lúc lâm chung, các con chẳng có ǵ phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, ba muốn nói thêm rằng hiện nay ba đang sống một cách thoải mái, vui vẻ va an lạc chứ không hề khổ sở.

phale
28-10-11, 09:25 AM
Chương 5

Tử Thư Tây Tạng

Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên bác Bardo Thodol Chenmo là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử.

Ngay từ khi được giáo sư W. Y. Evens Wentz Phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924, nó đă gây ra nhiều cuộc bàn căi sôi nổi. Danh từ "Tử Thư" (Book of the Dead) thực ra dịch không được đúng v́ giáo sư Evans Wentz Đă căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead). Danh từ "Tử Thư" khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng như người chết.

Người Ai Cập chủ trương sống và chết là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi. Tử Thư Ai Cập, nguyên tác Her Em Hru có thể dịch sát nghĩa là "Nghệ thuật bước vào một đời sống mới kể từ lúc nầy", trong đó các danh sư Ai Cập đă giải thích những quy tắc để người sống cho ra sống và chết cgo ra chết, với đúng ư nghĩa của nó. Người Ai Cập tin rằng vũ trụ có nhiều cơi giới mà cơi trần chỉ là một mà thôi. Nếu biết nghệ thuật sống và chết, người ta có thể di chuyển luân hồi từ cơi nầy qua cơi khác như người đi du lịch. Có lẽ đó là lư do mà nhiều nhà nghiên cứu đă coi Tử Thử Ai Cập như tấm bản đồ chỉ dẫn về các cơi giới bên kia cửa tử. Tuy nhiên các danh sư Ai Cập không hề quan tâm đến việc giải thoát ra khỏi ṿng luân hồi nầy. Trong khi đó, người Tây Tạng ngoài việc nghiên cứu các cơi giới, lại đặc biệt chú trọng đến việc giải thoát ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi nữa. Đó là căn bản khác biệt rơ rệt nhất giữa hai cuốn sách nói trên và đống thời cũng làm nổi bật nét độc đáo của cuốn Tử Thư Tây Tạng.

Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách nầy, chúng ta hăy t́m hiểu danh sưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là "Sự giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo". Nhiều người đă dịch danh từ Bardo là cơi chết, cơi Trung giới, hay cảnh giới của Thân Trung Ấm, nhưng thật ra nó c̣n có một ư nghĩa rộng hơn là "sự chuyển tiếp" (transition). Danh từ "chuyển tiếp" hàm ư một giai đoạn ở giữa sự di chuyển từ giai đoạn nầy qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái nầy qua một trạng thái khác. Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lư mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đă gây nhiều cuộc bàn căi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng chuyên tham cứu về pháp môn nầy. Trong loạt bài khảo luận ngắn nầy, người viết không có ư mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn tŕnh bày một vài khía cạnh đặc biệt của cuốn sách dưới cái nh́n của của khoa học và Phật học.

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng dẫn người ta sắp ĺa đời hoặc người đă chết v́ nội dung cuốn sách đề cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay v́ Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: "Đạo Phật là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết". Ngài đă giảng: "Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ư chính như sau: Người nào biết sống một cách tỉnh thức th́ sẽ chết tỉnh thức, và một khi đă tỉnh thức th́ họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người v́ bị vô minh che phủ nên không biết cách sống cho đúng với ư nghĩa của sự sống, thường thường nếu không hoài niệm về quá khứ th́ họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn luôn lo lắng để sống chứ không hề ư thức rơ rệt sự sống. V́ sống một cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết th́ họ cũng không thể làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi". Lời giải thích nầy là một ch́a khóa quan trọng đă rọi một tia sáng cho những người muốn t́m hiểu cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách t́m đến những cơi giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh.

Theo cuốn Tử Thư, ṿng luân hồi có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị th́ đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cơi sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba là lúc sống trong Cơi sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh ra.

Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào ṿng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. V́ một biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm ǵ. Ngay trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác nầy chỉ tồn tại rất ngắn v́ hiển nhiên bộ óc lư luận của anh sẽ làm việc ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay tuyệt vọng. Chính v́ thói quen lư luận nầy mà anh bị lôi kéo vào một mê hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không c̣n tự chủ được nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu, trước khi lư trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động nầy. Cũng giống như giây phút "hốt nhiên chứng ngộ" của các vị thiên sư, đó là một khoảng trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lư luận lôi kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra. Giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử, thoát ṿng kiềm tỏa của nghiệp lực.

Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và ư. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đă tạo biết bao nhiêu nghiệp lành cũng như dữ, dưới h́nh thức của chủng tử nầy sẽ phát động. Nghiệp có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu, tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả nầy phát động ngay (Cận tử nghiệp) nên thay v́ được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. V́ không ai biết nghiệp quả nào sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đă ghi rơ: "Tâm trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến", do đó cuốn sách nầy đă dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới bên kia.

Sogyan Rinpoche, một danh sư Tây Tạng chuyên nghiên cứu về các cảnh giới bên kia cửa tử đă viết: "Không ǵ làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ của người Âu Mỹ đối với sự chết. H́nh như người ta coi đó là một sự kiện bất b́nh thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy h́nh như đa số mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, rất íy ai được chết yên ổn tại nhà. Đă thế họ qua đời không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối về chứng ung thư. Cả gia đ́nh tề tựu an ủi và khuyên bà ta hăy cố gắng chống trả căn bệnh ngặt nghèo đó. Người chồng nói: Đừng tuyệt vọng. Đừng buôn xuôi tay. Hăy tiếp tục phấn đấu . Các con bà cũng khuyên: Hăy vui vẻ, lạc quan . Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đ àn bà đă mệt lắm rồi, mạch bà đập yếu ớt. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong ṿng vài giờ nữa thôi. Cả gia đ́nh bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hăi lúc lâm chung đó là một ḿnh, không ai giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một ḿnh. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế, làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cơi giới bên kia được? Tại sao một quốc gia đă phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những ṿng hoa khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng h́nh như không ai có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người đến chia buồn nên đă quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm xuống chứ đâu phải là những người c̣n sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ v́ việc không chấp nhận sự chết, sợ hăi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đă hành động như vậy chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến b́nh thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới bên kia cửa tử th́ có thể họ đă hành động khác".

Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đă viết: "Một bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: Ngày đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một ḿnh với nỗi lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như không muốn rời: Nầy bác sĩ, liệu Thượng Đế có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đă làm nhiều điều tội lỗi, liệu tôi có xuống địa ngục không? Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lăo ra nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lăo ra. Chúng tôi quyết định đưa ông lăo vào một căn pḥng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh. Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến. Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng lúc đó có quá nhiều người chết, vị nầy bận rộn không thể đến được. Ông lăo nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ tuổi đặt câu hỏi: Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm ǵ đây?" Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: "Điều đáng nói là đa số chúng ta, những người chuyên môn trong lănh vực y khoa, không hề có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đă trở nên mất nhạy cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đă chứng kiến quá nhiều cảnh tượng nầy nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải chăng sau khi đă làm tṛn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh nhân nhưng biết không thể làm ǵ hơn, chúng ta đă bó tay, mặc cho số mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?"

Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư Tây Tạng, điều quư báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần là làm sao để họ không sợ hăi (vô uư thí). Trước khi có thể giúp cho người khác không sợ hăi th́ chính người cho phải b́nh tỉnh, thoải mái và không sợ hăi đă. Điều nầy không đ̣i hỏi người cho phải làm những điều ǵ khác thường nhưng ít ra người đó phải có một ḷng yêu thươnng chân thành và sự hiểu biết sáng suốt. V́ người sắp chết thường lo lắng, hốt hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can. Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần b́nh tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, ḷng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Đây là lúc các chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ c̣n bùng lên một lúc trước khi tắt ngún..." Các danh sư Tây Tạng khuyên: "Hăy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hăy mở rộng tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng v́ không ǵ tai hại hơn sự phán đoán trong lúc nầy. Hăy đem hết t́nh thương truyền trao cho họ, khuyến khích họ giăi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói đó. Đôi khi v́ những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hăy tự chủ và biết rằng một người đang mất b́nh tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả bất ngờ, không ư thức rơ rệt v́ về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng trách. Nhiều người v́ quá thương xót đă lên tiếng khuyên giải nhưng sự kiện nầy có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng, chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quư giá nhất, v́ hơn bao giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ rằng ḿnh có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều ǵ tốt hơn mà hăy giữ yên lặng v́ chúng ta không biết rơ được tâm thức của người sắp chết khi đó ra sao". Để giữ b́nh tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây Tạng đă chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: "Hăy giữ vững hơi thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một người đang cần giúp đỡ mà hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. V́ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống thương yêu nơi ḿnh, b́nh tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một cách hữu hiệu hơn".

Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp qua đời, nhưng nếu đă thành công trên phương diện nầy, người ta có thể đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác, xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa". Khi người sắp chết thố lộ tâm sự, đừng chú ư tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đă làm mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hănh diện, thích thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hăi, lo sợ, hối hận hay tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô t́nh đề cập đến một điều ǵ tốt đẹp mà họ đă làm. Hăy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài nầy để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hăi, để họ thấy rằng cuộc đời của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng. Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ư hơn điều bất như ư th́ các chủng tử xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử thiện và điều nầy có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ.

Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă dạy: "Thật không có ǵ tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu hỏi: Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không? th́ các bạn phải biết trả lời: Thượng Đế chính là t́nh thương. Trong t́nh thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của ngài th́ lẽ nào ngài lại có thể không tha thứ cho con của ngài được? Hiển nhiên không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu đem đức tin đến cho người sắp chết th́ họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ Rubler Ross khuyên: "Chúng ta cần thận trọng trong việc nầy. Nếu người đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, c̣n nếu không, đừng nên quan trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đă có ác cảm với một tôn giáo nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều nầy có thể mang lại những hậu quả tai hại bất ngờ".

Phần lớn mọi người đều sợ chết v́ không ai biết chết sẽ đưa họ đến đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con, thân quyến, và ngay cả chính ḿnh nữa là một điều hết sức ghê gớm không mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hăi về một nơi gọi là "địa ngục" nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp nhận nó dễ dàng.

phale
28-10-11, 09:26 AM
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă phân tích tâm trạng con người khi phải giáp mặt với sự kiện nầy qua năm trạng thái tâm lư như sau: Phủ nhận, giận dữ, lư luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết ḿnh bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lư tự nhiên của con người là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đă từ chối không chịu uống thuốc hay chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa ḿnh rằng họ không làm sao hết, họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi t́m một bác sĩ nào đó có thể nói khác hơn. Giai đoạn nầy thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc chữa trị. Nhiều người đă không vượt qua được trạng thái nầy và đến khi chết vẫn tin rằng ḿnh không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ nhận nầy th́ đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, t́m cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn c̣n chỉ trích, trách móc người khác. Vượt được giai đoạn nầy, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái tâm lư phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một "phép lạ" xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hăo huyền nầy. Đây là lúc các bệnh nhân đi t́m những phương pháp chữa bệnh khác với lối chữa trị thông thường, đi t́m an ủi qua những điều huyền hoặc hay có những lập luận rất lạ lùng về t́nh trạng của họ. Nếu qua được giai đoạn nầy, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn chán, không biết làm ǵ nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ư là động ḷng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rơ người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lư nào, người ta có thể giải thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận sự chết một cách dễ dàng hơn.

Bác sĩ Ross kết luận: "Người sắp chết không ao ước ǵ hơn là sự cảm thông và ḷng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hăy tự nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là đủ".

Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và ngược lại, bất cứ một biến cố ǵ xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động, phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn th́ hậu quả thật không biết đâu mà lường.

Cuốn Tử Thư ghi rơ: "Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến". Đó là một lư do người Tây Tạng chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, v́ thiếu hiểu biết, đă hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối cùng để kéo dài thêm sự sống thay v́ chấp nhận rằng đă đến lúc phải để người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận: "Người ta đă lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ư thức, dường như việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y sĩ quan niệm rằng c̣n nước c̣n tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho tâm lư người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ khắp ḿnh, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay b́nh tĩnh mà ra đi cho được". Linh mục Thomas Merton cũng cảnh cáo: "Phần lớc các quốc gia tân tiến đă bỏ nhiều tiền bạc và công sức để t́m các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ, vài ngày nhưng không hề chú ư đến việc giáo dục con người về ư nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết, điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?" Sự tiến bộ của khoa học đă tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc nầy ra để cho người chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn căi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn, chúng ta hăy theo dơi diễn tiến của sự chết.

Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đă trả xong, các nhân duyên đă hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và tâm, hay làm các điều ác th́ có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạnh tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật th́ đời sống ḿnh bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác th́ đời sống có thể tăng thêm.

Hiển nhiên đă sinh ra th́ ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh ra hay lúc chết đi phản ảnh rơ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đă viết: "Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh th́ phong tục Tây Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu kư, giống cha hay giống mẹ và ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ tiên của ḿnh đă chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể v́ giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị dặn ḍ con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi sự ham muốn nầy đă tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạc ma nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được giờ chết. Ông công bố tin nầy cho học tṛ và chuẩn bị một cái chết rất thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn ḍ và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị nầy ngồi bằng nhập thiền, học tṛ quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông nầy bèn gọi học tṛ mang cơm ra cho thầy ăn. Học tṛ thất vọng rủ nhau bỏ đi hết v́ nghĩ rằng vị thầy thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đă biến thành một vở bi hài kịch".

Đối với các vị công phu tu hành th́ thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez Đă viết về cái chết của một Ḥa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa kỳ vào năm 1891 như sau: "Ḥa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng ngài khó qua khỏi đêm đó th́ ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc ngài ra đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đă đến lúc ngặt nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Ḥa thượng vẫn lạc quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng ngài luôn luôn có lư. Cứ thế từ ngày nầy qua ngày nọ, mặc dù bệnh t́nh không thuyên giảm nhưng Ḥa thượng cho biết chưa đến lúc ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh nầy gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng ngài nhất định không chịu. Một hôm ngài cho biết đă đến lúc ra đi và yêu cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để ngài cám ơn họ. Nh́n ngài vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút sau ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi ngài qua đời, ngực ngài vẫn ấm và thân thể của ngài không có một dấu vết hư hoại ǵ. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích".

Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất và giai đoạn tan ră của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa. Khi các yếu tố nầy tan ră th́ con người không thể sống được. Nhờ biết quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng không c̣n hiểu được ư nghĩa câu nói đó v́ thính giác đă ngưng hoạt động. Họ không thể nh́n rơ các h́nh ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt không c̣n rơ rệt v́ thị giác đă bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế, các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan ra, các bắp thịt trở nên ră rời, không thể chống đỡ được toàn thân, người hấp hối có cảm tưởng như ḿnh đang bị một ngọn núi đ è nặng lên toàn thân. Khi yếu tố Đất tan ră xong th́ yếu tố nước khởi sự tan ra, các chất lỏng trong cơ thể không c̣n vận hành b́nh thường được nữa, nước mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan ră, người chết tự nhiên thấy khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không c̣n tỉnh táo nữa. Khi yếu tố lữa tan ră hết th́ yếu tố Gió bắt đầu tan ră, hơi thở người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, không c̣n biết ǵ nữa. Đối với y khoa Tây phương th́ tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đă chết, nhưng theo cuốn Tử Thư th́ giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất nầy mới chỉ là bắt đầu v́ giai đoạn thứ hai, sự tan ră của các yếu tố tinh thần có hoàn tất th́ người đó mới có thể coi là thực sự đă chết.

V́ yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân nên khi yếu tố nầy tan ră, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức bên trong và sự tan ră của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đă chết, thân thể đă lạnh nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn c̣n hơi nóng. Các yếu tố thuộc về lư trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố thuộc về t́nh cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi hai yếu tố nầy gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngă bắt đầu tan ră, khởi đầu bằng sự tan ră của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và khi ba yếu tố nầy ngưng hoạt động th́ thần thức của con người trở nên minh mẫn hơn, họ sẽ ư thức mọi sự một cách rơ rệt v́ nói theo cuốn Tử Thư "khi các yếu tố thuộc về bản ngă tan ră, khi không c̣n bị mây mù của vô minh chi phối nữa th́ chân tâm bắt đầu hiển hiện". Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng v́ ư thức được chân tâm hay Phật tánh chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người không tập luyện, không ư thức th́ giai đoạn nầy chỉ là một tia chớp lóe sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa th́ đây là cơ hội quư báu nhất v́ họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng thái nầy để giải thoát. Đó cũng là lư do đa số các danh sư Tây Tạng đều nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rơ diễn tiến của sự chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đă có sẵn một tấm bản đồ trong tay, họ biết cách tập trung ư chí vào các câu thần chú, các biểu tượng Mandala, các h́nh ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan ră, họ chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một h́nh ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ư thức được từng giây, từng phút của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngă tan hết, chân tâm tỏ rạng th́ họ có thể tập trung mọi năng lực để ḥa nhập vào cái trạng thái uyên nguyên bất động nầy.

Điều nầy thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà v́ một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn th́ họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ.

Cuốn Tử Thư đă nói rất rơ về giai đoạn nầy như sau: "Chân như bản thể của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm bắt đầu sáng tỏ". Danh từ "Sáng tỏ" (The dawn of luminosity) đă bị nhiều người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa th́ khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rơ ràng, không c̣n một chút tăm tối nào. Danh từ "Sáng tỏ" ở đây chỉ có ư nghĩa trừu tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam Trungpa không đồng ư v́ giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà c̣n phải ḥa nhập và sống trọn vẹn trong đó nữa. Ông viết: "Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đă chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đă thấy được chân tâm bao nhiêu lần, nhưng đă mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát nầy? Giáo pháp của đức Thế Tôn đă được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đă mấy người biết áp dụng nó để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng v́ không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm ǵ hơn là tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi".

Dù có ư thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh nghiệm được trạng thái nầy trong ṿng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú măi măi th́ họ hoàn toàn giải thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quư báu, sau đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người b́nh thường, khi yếu tố tinh thần tan ră hết th́ họ sẽ tiếp đi trong một thời gian dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong Cơi sáng (the luminous Bardo of Dharmata).

phale
28-10-11, 09:27 AM
Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cơi sáng (Dharmata) là lúc tâm thức con người biến hiện rất tế nhị v́ các yếu tố vật chất tan ră hết và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: "Khi vật chất tan ră th́ nó chuyển qua h́nh thức nắng lượng v́ vật chất chính là các năng lượng đă đông đặc lại". Khi vật chất khởi sự tan ră, thần thức dường như bị tê liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối, không ư thức được điều ǵ nhưng khi bước sang giai đoạn Cơi sáng th́ họ thấy ḿnh lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là "lúc đêm chuyển qua ngày" hoăc "khi mặt trời chiếu sáng th́ bóng tối tan dần và sự thật phô bày rơ rệt". Mặt dù cuốn sách nầy hẳn một phần quan trọng để nói về Cơi sáng (the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính v́ thế, phần nầy đă tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn t́m hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân tích một cách khoa học. Đa số những người nầy v́ thiếu kinh nghiệm tâm linh nên đă giải thích cơi nầy một cách sai lạc như một "kinh nghiệm về ảo giác" và có nhiều ngộ nhận đáng tiếc.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: "Chân lư có thể được diễn tả một cách tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có tŕnh độ hiểu biết thâm sâu th́ họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng v́ số người nầy rất ít, do đó các danh sư đă phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu tượng bóng bẩy, các h́nh ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả nhưng cũng v́ thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những ǵ tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối".

Có nhiều người cho rằng đời sống ở cơi nầy rất thoải mái, sung sướng với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cơi trần như người khác lại cho rằng khi bản ngă đă tan hết th́ không c̣n chủ thể hay đối tượng nữa, tất cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đă vô phân biệt th́ đâu c̣n có ḿnh, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: "Đây không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, v́ cảm nhận hay kinh nghiệm c̣n có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà danh từ Phật giáo gọi là Tâm vô phân biệt hay Bất nhị".

Khi bước qua Cơi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đă xảy ra trong kiếp sống vừa qua một cách trung thực. V́ bản ngă đă tiêu tan hết, không c̣n thành kiến hay tham sân si, nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối v́ theo các danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả, chuẩn bị các "nhân" cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự sắp xếp nầy đă được người Tây Tạng sử dụng các h́nh ảnh, biểu tượng để diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái "Vô phân biệt" đến trạng thái "Phân biệt" hay từ "Bất nhị" chuyển qua "Nhị nguyên". Theo cuốn Tử Thư giai đoạn nầy kéo dài khoảng bảy ngày như sau:

Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các h́nh ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của sân hận vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên người ta thường không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ư hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư thiên. Sân hận được giải thích như một h́nh thức tự vệ của bản ngă, nó không dám để cho "ḿnh" tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà quay đầu t́m qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngă và cũng là động lực để ṿng luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới của chư thiên.

Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới A Tu La.

Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra c̣n có các vị kim cương hổ pháp và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia. Tuy nhiên các động năng của bản ngă cũng đồng thời trỗi dậy. Ḷng sân hận, kêu căn, nghi kỵ, ngă mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hăi không dám bước vào những cảnh giới ấy mà t́m cách tránh né và bỏ qua cơ hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác.

Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đă gần như hoàn tất vào cái thế giới "Bất nhị" của tâm vô phân biệt đă chuyển thành những cặp nhị nguyên, đối đăi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt. Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người, A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người ta bước vào giai đoạn thứ tư của ṿng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để tái sinh.

Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các h́nh ảnh nói trên không phải ở bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và phức tạp. Những năng lương nầy vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn v́ bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, v́ bị các động lực của bản ngă như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngă mạn, nghi kỵ che lấp nên người ta không thể ư thức được chúng. Chính v́ không ư thức được chúng nên người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong ṿng sinh tử luân hồi, nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngă, loâi bỏ các thoái quen của Thân, Khẩu, Ư chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát nầy. Một số học giả người Âu đă đặt câu hỏi: "Nếu người Tây Tạng nh́n thấy một vị Phật th́ một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy ǵ?" Sogyam Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă trả lời: "Đây không phải là một kinh nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các h́nh ảnh khác nhau. Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nh́n thấy Thương Đế, Đức Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự nh́n thấy ǵ ở chỗ ư thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo".

Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người b́nh thường, sự chết có thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đă được giải thích rất rơ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh thức để theo dơi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy ḿnh mê man trắng trong suốt và từ phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên măn, xuất hiện. Toàn thân ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các h́nh ảnh lạ lùng, tương trưng cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí suy luận của bản ngă bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật bằng bản ngă hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà t́m cách ẩn ḿnh dưới lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục.

Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang nghiêm không ǵ sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của kiêu căng, hănh diện, nghi kỵ vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi kia. Cái ḷng hănh diện của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn nh́n vào sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của loài người.

Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên ṭa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng nầy chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản vẫn c̣n phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng chói lọi kia. Ḷng tham lam của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ.

Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu, tay cầm một cái chày kim cương h́nh chữ thập xuất hiện. Chung quanh có một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các động lực của ḷng hănh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngă sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái ǵ tốt đẹp hơn, vinh quang hơn, đẹp đẽ hơn nó thay v́ ḥa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không Thành Tựu, nó lại t́m ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy ḿnh có thể chứng kiến tất cả mọi sự đă xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). V́ khi đó bản ngă đă tan ră nên họ có thể chứng kiến rơ ràng mọi sự xảy ra đúng với sự thật chứ không c̣n bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan sát các diễn tiến nầy, họ sẽ ư thức được luật nhân quả đă hành động như thế nào, v́ lư do ǵ mà sự kiện đă diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để chuẩn bị cho sự tái sinh sau nầy. Sự thu xếp nầy hết sức phức tạp v́ c̣n tùy theo những duyên nghiệp đă gây ra từ những kiếp trước. Chính những động năng nầy đă quyết định sự thành lập một bản ngă cho kiếp sống trong tương lai.

Tóm lại, chết không phải là hết v́ nó là điều kiện tất yếu của một kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp nầy đă hội đủ, kiếp sống phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đă tạo, làm nhân cho kiếp sống về sau. Đời sống kiếp trước tạo nhân cho đời sống ở kiếp sau, và kiếp sau là quả của kiếp trước, liên miên bất tận không chấm dứt, đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau khổ v́ đă nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt lấy những ảo giác của vô minh, monh kéo dài đời sống để thỏa măn dục vọng, tạo măi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi sinh tử.

Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh viễn chia ĺa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống cho rằng họ không thể làm ǵ hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng tiếc v́ thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng, việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư.

Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cơi âm tương tự với bảy ngày ở cơi trần hay bảy ngày ở cơi âm tương ứng với bốn mươi chín ngày ở cơi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức người chết c̣n đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến c̣n nặng nên thần thức người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ư thức được ḷng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có người lại cho rằng cơi bên nầy có tất cả bảy tiến tŕnh khác nhau, mỗi tiến tŕnh dải bảy ngày, và tiếp theo tiến tŕnh đầu như vừa diễn tả ở trên c̣n có những tiến tŕnh khác. Thay v́ gặp năm vị Phật th́ người chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể, năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào, thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong ṿng bốn mươi chín ngày thôi mà c̣n phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa. Ḥa thượng Dudjom đă viết: "Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ư nghĩa tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cơi bên nầy một thời gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên cơi nầy cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu thai".

Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn người chết là vô lư v́ người đă chết đâu để nghe được nữa. Ḥa thượng Chogyam Trungpa đă giải thích: "Hiển nhiên người quá cố không thể nghe bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ư thức được bằng thần thức (consciousness). V́ đây là sự theo dơi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ ǵ, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng nầy đ̣i hỏi sự chân thành. Có thành thật th́ người khác mới cảm nhận được, và có cảm th́ mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần tŕnh diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ư nghĩa tốt đẹp ǵ hết". Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngă đă tan ra hết th́ đâu c̣n ǵ để nghe nữa. Ḥa thượng Trungpa giải thích: "Không ai biết được người chết đang ở trong t́nh trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm th́ có thể họ không ư thức được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái nầy chỉ xảy ra trong một chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngă tan ră lại được sắp xếp theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cơi Sáng và chuyển thần thức để đầu thai), do đó họ vẫn có thể ư thức rơ rệt những sự kiện xảy ra chung quanh được". Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho người chết c̣n có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, th́ chắc chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn.

Một trong những vấn đề được bàn căi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật nầy đă gây ra một t́nh trạng nan giải trên phương diện pháp luật, luân lư, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác nầy quả thật vô cùng đáng sợ. Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời sống khi rút những máy móc nầy ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ t́m cái chết được không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không c̣n một hy vọng ǵ có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được nữa, lại là một vấn đề khác.

Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng, việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người chết. Dù cho người đó ở trong một t́nh trạng hôn mê (coma) nhưng thần thức của họ vẫn ư thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố gắng kéo dài đời sống nầy có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu, oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác sĩ Kubler Ross đă viết: "Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở cuối cùng c̣n hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các phương tiện nhân tạo". Linh mục Thomas Merton cũng đă viết: "Sự sống không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được v́ các máy móc nhân tạo nầy chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác". Nhưng làm sao được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều được giải bảo rằng "Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá", do đó mới có thảm trạng mà bác sĩ Melvin Morse đă diễn tả: "Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu, sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập th́ người ta sử dụng điện để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi th́ người ta sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi, khi óc ngưng hoạt động th́ người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay th́ các tṛ nầy mới chấm dứt".

Để t́nh trạng nầy xảy ra, ngày nay một số người đă phải làm di chúc rằng nếu không c̣n hy vọng ǵ cứu sống nữa th́ để cho họ ra đi một cách an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc nầy khá thịnh hành tại các quốc gia Tây phương và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc nầy khi họ phải vào bệnh viện.

V́ chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă khuyên: "Khi tim ngưng đập th́ người đó chưa hẳn đă chết, chỉ có phần vật chất đă ngưng hoạt động hay bắt đầu tan ră mà thôi. V́ phần tâm linh cần phải mất thêm một thời gian nữa mới tan ră (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị quyến luyến hay đau khổ thêm. Hăy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng v́ phần tinh thần c̣n đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được những sự ồn ào, náo nhiệt nầy mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận. Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng v́ thế mà bám vào các thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp nầy. Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người chết được văng sinh về cơi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo, điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rơ tư tưởng người sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu nguyện rất có ích v́ nó có thể giúp người quá cố b́nh tỉnh lại và cùng cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an lạc th́ chắc chắn th́ họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay rượu v́ những thứ nầy thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những loài ma quỷ đói khát t́m đến. Khi thần thức người chết c̣n đang dao động, chưa b́nh tĩnh th́ sự tiếp xúc nầy không có ích lợi ǵ cả. Nên tránh các h́nh thức ma chay to lớn, linh đ́nh hay các thủ tục phiền phức v́ các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp cho người chết được bao nhiêu. Hăy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất, hăy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu v́ đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự sắp xếp nhân quả chưa ngă ngũ rơ rệt, khi người chết c̣n có thể tỉnh thức để ḥa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát.

Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không c̣n quyến luyến thân xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa các năng lực c̣n sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực nầy vào những việc bất hảo. Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực nầy để lưu giữ âm binh, ḥng duy tŕ ảnh hưởng của tà môn.