Hansy
17-12-11, 02:00 PM
THUẬN NGHỊCH ĐỘC:
Đôi điều cần lưu ý
khi Sáng tác
PIERRE BÙI
(Có tham khảo THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG, Chương 5 -“Thể Loại và Kết Cấu”, Nguyễn thị Bích Hải, NXB Thuận Hóa, Huề -1995)
Như các bạn yêu thơ Đường đều đã biết, một bài Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú không chỉ đơn giản là thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải thỏa mãn 6 qui luật chặt chẽ: 1-Niêm, 2-Luật, 3-Vận, 4-Đối, 5-Tiết Tấu, và 6-Bố Cục. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ chỉ lập lại 4 yếu tố đầu: NIÊM, LUẬT, VẬN và ĐỐI.
1) Trước hết, NIÊM là gì? Ấy là các chữ thứ Hai (hay thứ Nhì) của các cặp câu 1-8,2-3, 4-5, và 6-7 phải cùng thanh (Bằng hoặc Trắc)
2) Thứ đến, LUẬT là gì? Ấy là luật điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một dòng thơ sao cho Bằng/Trắc hài hòa, nghĩa là bảo đảm được sự cân bằng của “đòn cân thanh điệu”, gồm các chữ thứ Hai, Tư, và Sáu trong câu, bởi thế mà có yêu cầu “Nhị Tứ Lục Phân Minh”: Chữ thứ Tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ, cũng là tâm đối xứng của“đòn cân thanh điệu”, và luật thơ Đường đòi hỏi chữ thứ Tư ấy phải khác thanh với hai chữ thứ Hai và thứ Sáu, tức là: nếu chữ thứ Tư là thanh Bằng, thì chữ thứ Hai và thứSáu phải là Trắc, và ngược lại, nếu chữ thứ Tư thanh Trắc thì chữ thứ Hai và thứ Sáuphải là Bằng. Ngoài ra còn luật “Nhất Tam Ngũ Bất Luận”, là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ; tuy vậy, riêng chữ thứ Năm, do yêu cầu hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (Bằng/Trắc) với chữ thứ Bảy, mà chữ thứ Bảy thì thanh luôn cố định, nênthanh của chữ thứ Năm cũng mặc nhiên cố định theo.
3) Còn thế nào là VẬN? Một bài bát cú có năm vần, là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ Bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (ThơĐường thường gieo vần Bằng; còn vần Trắc ít khi dùng, bị coi như không chính qui, và chủ yếu trong thơ Cổ Phong.)
4) Và thế nào là ĐỐI? Các cặp câu Thực (3-4) và Luận (5-6) phải đối xứng nhau về 3 yếu tố: Thứ nhất - đối THANH (Bằng/Trắc); thứ nhì - đối TỰ LOẠI (Danh từ phải đối vớiDanh từ, Động từ với Động từ, Tính từ với Tính từ, Trạng từ với Trạng từ…, chứ không được đối lệch), và thứ ba - đối NGHĨA.
Mô hình của một bài thơ Đường thất ngôn bát cú xét về thanh (Bằng/Trắc) như sau:
Mô hình 1: Bằng khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Bằng):
B B T T T B B
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
Mô hình 2: Trắc khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Trắc)
T T B B T T B
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
(Trong 2 mô hình, có sự lập lại về thanh điệu: Các câu 1-4-8 giống nhau; 2-6 giống nhau;3-7 giống nhau.)
Dưới đây chúng tôi mạn phép góp ý về các trường hợp chưa chỉnh luật (thơ Đường), xét chủ yếu theo 2 yếu tố LUẬT và ĐỐI (và ngẫu nhiên cũng là 2 tiêu chí mà một số tác giả thường thiếu lưu ý), trong các bài Thất Ngôn Bát Cú Thuận Nghịch Độc mà thoduongdatviet.com đã giới thiệu . (Nguồn tham khảo: Thơ Đường Đất Việt):
Những trường hợp chưa chỉnh về LUẬT
(Bằng/Trắc):
Phần lớn là do các chữ thứNhất và thứ Ba trong các câu đọc xuôi (thuận độc) được gieo cùng thanh Bằng hoặcTrắc, do vậy khi đọc ngược (nghịch độc) sẽ tương ứng trở thành các chữ thứ Bảy và thứNăm cùng thanh, tức là không chỉnh luật, thí dụ trong các bài sau:
TÌNH XUÂN
(Thuận nghịch Độc)
Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời
Đón Tết hương xuân tỏa núi đồi
“Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy
“Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi
Thanh thiên mây phủ không mờ biển
Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời
Xanh biếc tháng ngày, xuân luyến ái
Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời.
Ngọc Ân Nhi Huyền
Câu 1: Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành
Câu 3: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy è câu 6: Nhảy múa tình monghoài “Điểu Oanh”
Câu 4: “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi è câu 5: Bơi xa ý nhớ nỗi “NgưLý”
Câu 5: Thanh thiên mây phủ không mờ biển è câu 4: Biển mờ không phủmây thiên thanh
TIẾNG CUỐC VÀO HÈ
(Thuận nghịch độc)
Vang xa nghe cuốc gọi vào hè
Nhạc tấu ngâm sầu rộn tiếng ve
Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy
Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe
Chan chan nắng đổ tầm cây dựa
Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che
Mang nặng duyên thơ tình luyến ái
Nàng hoa Phượng vỹ rực màu khoe.
Phạm Nhì
Câu 1: Vang xa nghe cuốc gọi vào hè khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Hè vào gọi cuốcnghe xa vang
Câu 3: Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy è câu 6: Thấy chẳng sao ai chờbến sang
Câu 4: Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe è câu 5: Nghe nào hỡi bạn gọiđò đến
Câu 6: Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che è câu 3: Che bóng đỡ nghiênggió dịu dịu
Câu 7: Mang nặng duyên thơ tình luyến ái è câu 2: Ái luyến tình thơ duyênnặng mang
PHƯỢNG THẮM
(Thuận nghịch vận)
Em nhớ còn anh đâu dễ quên
Vấn vương Phượng thắm đỏ hoa nền
Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ
Gợi ý trao vần bạn nhớ tên.
Êm ã thuyền mơ tình bến dưới
Lững lờ trăng mộng nghĩa đò trên
Đêm nằm nỗi nhớ thương xa cách
Thềm trước thấp cao bước xuống lên
Phạm Nhì
Câu 1: Em nhớ còn anh đâu dễ quên è câu 8: Quên dễ đâu anh còn nhớ em
Câu 5: Êm ã thuyền mơ tình bến dưới è câu 4: Dưới bến thuyền mơ tình ảêm
NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG
(Thuận nghịch độc)
Thu tàn nay đã bước sang đông
Gió lạnh vườn không đứng ngó mông
Du khách thăm về ai ngóng đợi
Vãng lai viếng đến bạn chờ trông
Dù cho cách trở hay ngăn suối
Nếu phải vì nhau cùng lội sông
Ru nhẹ sáo diều tiếng vẫy gọi
Vu vi lòng chạnh nỗi sang đông.
Phạm Nhì
Câu 5: Du khách thăm về ai ngóng đợi è câu 4: Đợi ngóng ai về thăm kháchdu
Câu 6: Vãng lai viếng đến bạn chờ trông è câu 3: Trông chờ bạn đến viếng laivãng
KHỔ TẬN CAM LAI
( Thuận nghịch độc )
Qua thời ta khổ tận ngày xưa
Dãi nắng dầm sương giọt mắt mưa
Da bủng beo lưng cơm lửng lửng
Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ
Xa anh trận chiến từng đêm mộng
Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa
Ba nổi bảy chìm đời tưởng ế
Tha hồ quý bạn đến người đưa.
Phan Thị Thanh Minh
Câu 1: Qua thời ta khổ tận ngày xưa è câu 8: Xưa ngày tận khổ ta thời qua
Câu 3: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng è câu 6: Lửng lửng cơm lưng beo bủngda
(Lưu ý: Với các chữ thứ Năm và thứ Bảy gieo cùng thanh Bằng hoặc Trắc, bài thơ sẽ trở thành Thơ Mới hay Thơ Hiện Đại bảy chữ, chứ không còn là Thơ Đường Luật.)
Những trường hợp chưa chỉnh về ĐỐI
(trong các cặp Thực và Luận)
ngoại trừ bài NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG ở các câu Luận (5-6):Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhaucùng lội sông: cặp chữ “hay”/ “cùng” đều thanh Bằng - là ĐỐI THANH không chỉnh, còn lại, chủ yếu chỉ liên quan đến ĐỐI TỰ LOẠI và ĐỐI NGHĨA. Các thí dụ tiêu biểu có thể thấy ở các bài sau:
ĐỢI NGƯỜI GIỮA CẢNH CHIỀU THU
(thủ vỹ ngâm - thuận nghịch độc)
Thuận:
Thu chiều bóng nhẹ thoảng mây Hồng
Lại đến tìm nhau đợi cuối sông
Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng
Đón thầm mơ hát khúc hoang đồng
Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ
Muộn rũ lòng buồn mộng trước đông
U vọng gió xa trời khói lạnh
Thu chiều cảnh biệt vấn lời không.
Ngược:
Không lời vấn biệt cảnh chiều thu
Lạnh khói trời xa gió vọng u
Đông trước mộng buồn lòng rũ muộn
Hạ xưa tình nhớ lệ vi vu
Đồng hoang khúc hát mơ thầm đến
Giọng khẽ thơ hò tiếng chậm ru
Sông cuối đợi nhau tìm đến lại
Hồng mây thoảng nhẹ bóng chiều thu .
Nguyễn Chí Hiệp
Câu 3-4: Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng / Đónthầm mơ hát khúc hoang đồng và câu 5-6: Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ / Muộn rũ lòng buồn mộng trước Đông: Dù thuận độc hay nghịch độc, các cặp chữ “ru chậm”/ “đón thầm”, “vu vi”/ ”muộn rũ” không đối nghĩa; “tiếng”/ “mơ”, “khẽ”/ “hoang” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.
XA TÌNH GIỮA ĐÊM
(tứ thủ - thuận nghịch độc)
1.
Canh điểm tiếng buồn phút ngẩn ngơ
Hỡi người xin lại nối tình thơ
Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ
Thán oán tâm hoài xót ước mơ
Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt
Bướm hoa trông mãi gói sầu tơ
Quanh vòng gió tối trời mây nhẹ
Hanh vắng lối xưa dõi bước khờ
2.
Khờ bước dõi xưa lối vắng hanh
Nhẹ mây trời tối gió vòng quanh
Tơ sầu gói mãi trông hoa bướm
Nguyệt nhớ ai cùng thức họa tranh
Mơ ước xót hoài tâm oán thán
Nợ duyên thương ứa lệ dâng tràn
Thơ tình nối lại xin người hỡi
Ngơ ngẩn phút buồn tiếng điểm canh
3.
Ngơ mắt đọng buồn phút mãn canh
Úa rơi thu khuyết bóng trăng tàn
Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt
Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh
Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi
Mộng cuồng hồn vọng bước tìm quanh
Vơ chân gót lạc đời xa lối
Mờ trắng cảnh sương lạnh gió tràn
4.
Tràn gió lạnh sương cảnh trắng mờ
Lối xa đời lạc gót chân vơ
Quanh tìm bước vọng hồn cuồng mộng
Mãi vọng duyên chờ giấc cuộn tơ
Nhanh đến lệ sầu môi đắng giọng
Biệt ly đêm tiễn khúc hoài thơ
Tàn trăng bóng khuyết thu rơi úa
Canh mãn phút buồn đọng mắt ngơ.
Nguyễn Chí Hiệp
Bài 1, câu 3-4: Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ / Thán oán tâm hoài xót ước mơ và câu 5-6: Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt / Bướm hoa trông mãigói sầu tơ: Các cặp chữ “tràn dâng”/ “thán oán”, “cùng ai”/ ”mãi gói” không đối cả tự loạilẫn nghĩa.Bài 2, câu 3-4: Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt / Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh và câu 5-6: Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi / Mộng cuồng hồn vọng bước tìmquanh: Các cặp chữ “thơ hoài”/ “giọng đắng”, “khúc tiễn”/ ”môi sầu”, “đêm”/ ”lệ”, “ly biệt”/ ”đến nhanh”, “duyên”/ ”bước”, “mãi”/ ”quanh” không đối nghĩa.
SẦU GỬI MÙA ĐÔNG
(tứ thủ - thuận nghịch độc)
1.
Ương sầu giọt nhớ rũ loan phòng
Tiễn vội mùa thu tiếc cảnh không
Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng
Giấc cô đêm mộng oán thầm mong
Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng
Bệnh đắm hồn xa khó mở lòng
Thương xót nỗi xưa lời mãi gọi
Vương sầu giọt nhớ gửi sang đông
2.
Đông sang gửi nhớ giọt sầu vương
Gọi mãi lời xưa nỗi xót thương
Lòng khó xa hồn đắm bệnh
Bóng sâu vừa úa lệ hoài hương
Mong thầm oán mộng đêm cô giấc
Vọng đớn đau tình cõi lạnh sương
Không cảnh ẩn thu mùa vội tiễn
Phòng loan rũ nhớ giọt sầu ương
3.
Đông về cảnh tuyết trắng mờ vương
Góp lại đêm tình mộng rũ thương
Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc
Biển xa chiều nhớ vọng quê hương
Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ
Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương
Không bóng lạc say đời khách lữ
Phòng khuya gửi mộng giấc thầm ương
4.
Ương thầm giấc mộng gửi khuya phòng
Lữ khách đời say lạc bóng không
Sương vấy tóc ai hồn mãi đợi
Lệ đầy tâm nguyện phút chờ mong
Hương quê vọng nhớ chiều xa biển
Nhạc khúc giăng sầu tiếng ẩn lòng
thương rũ bến tình đêm lại góp
Vương mờ trắng tuyết cảnh về đông
Đông Hòa NCH - Nguyễn Chi Hiệp TP HCM
Bài 1, câu 3-4: Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng / Giấc cô đêm mộng oán thầm mong và câu 5-6: Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng / Bệnh đắm hồn xakhó mở lòng: Các cặp chữ “cõi tình”/ “đêm mộng”, “đau đớn vọng”/ ”oán thầm mong”, “hương”/ ”bệnh”,”hoài”/ ”đắm”, “vừa”/ ”khó”,”sâu bóng”/ ”mở lòng” không đối hoặc tự loạihoặc nghĩa. Bài 2, câu 3-4: Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc / Biển xa chiều nhớ vọngquê hương và câu 5-6: Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ / Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương: Các cặp chữ “tiếng”/ “chiều”, “khúc nhạc”/ ”quê hương”, “chờ”/ ”mãi”, “phút”/ ”hồn”, “nguyện”/ ”ai” không đối hoặc tự loại hoặc nghĩa hoặc cả tự loại lẫn nghĩa.
TÌNH XUÂN
Câu 3-4: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy / “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơivà câu 5-6: Thanh thiên mây phủ không mờ biển / Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời: Các cặp chữ “hoài”/ “nỗi”, “múa”/ ”xa” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
MẾN CẢNH YÊU NGƯỜI
Thuận nghịch độc
Em về nhớ cảnh mến yêu người
Rực đỏ hoa rừng lộc thắm tươi
Thèm khát nỗi ai lòng ấm lạnh
Nhớ mong niềm khách dạ đầy vơi
Rèm buông cửa vắng nhà im lặng
Bến rộn sông đưa sóng chuyển dời
Êm dịu thắm đời cho ước nguyện
Em về nhớ cảnh mến yêu người .
Trần Ngọc Quang
Câu 5-6: Rèm buông cửa vắng nhà im lặng / Bến rộn sông đưasóng chuyển dời: Các cặp chữ “buông”/ “rộn”, “vắng”/ ”đưa” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.
TIẾNG CUỐC VÀO HÈ
Câu 5-6: Chan chan nắng đổ tầm cây dựa / Dịu dịu gió nghiêngđỡ bóng che: Cặp chữ “tầm”/ “đỡ” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
PHƯỢNG THẮM
Câu 3-4: Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ / Gợi ý trao vần bạn nhớ tên: Các cặp chữ “thêm”/ “gợi”, “thuận nghịch”/ “trao vần” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
CẢNH THU
(Thuận nghịch độc)
Thu sang gió thổi lá vàng bay
Nắng ít mưa nhiều tiết đổi thay
U ám mây giăng mờ sớm tối
Mịt mù khói núi kín đêm ngày
Ru lòng lữ khách ai nào biết
Xót dạ trông đò bạn có hay
Du ngoạn xuống sông thuyền ngại sóng
Phu tiều vọng núi đứng khoanh tay.
Phạm Nhì
Câu 3-4: U ám mây giăng mờ sớm tối / Mịt mù khói núi kín đêm ngày và câu 5-6: Ru lòng lữ khách ai nào biết / Xót dạ trông đò bạn có hay: Các cặp chữ “giăng”/ “núi”, “lữ khách”/ “trông đò” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG
Câu 3-4: Du khách thăm về ai ngóng đợi / Vãng lai viếng đến bạn chờ trông và câu 5-6: Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhau cùng lội sông: Các cặp chữ “du khách”/ “vãng lai”, “cách trở”/ “vì nhau” không đối cả tự loại lẫnnghĩa, đặc biệt cặp “hay”/ “cùng” hoàn toàn không đối cả thanh, lẫn tự loại, lẫn nghĩa.
KHỔ TẬN CAM LAI
Câu 3-4: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng / Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ và câu 5-6: Xa anh trận chiến từng đêm mộng / Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa: Các cặp chữ “da”/ “dạ”, “bủng beo”/ “sầu bi”, “kiếp”/ “cơm”, “trận chiến”/ “thi đàn”, “đêm mộng”/ “buổi ưa” không đối nghĩa, và các cặp “lưng”/ “sống”, “anh”/ “chốn” không đối cảtự loại lẫn nghĩa.
Ngoài ra, ở đây còn một yếu tố khác chúng ta rất nên lưu ý: Các bài thơ tương tự như trên đều được làm với mục đích Thuận Nghịch Độc (nghĩa là để có thể đọc ngược); bởi vậy, ngoài việc đáp ứng toàn bộ 6 đòi hỏi cơ bản của thơ Đường - Niêm,Luật, Vận, Đối, Tiết Tấu, và Bố Cục - như đã đề cập ở trên, người viết còn cần lưu ý, bằng không, sẽ làm nảy sinh những kết hợp từ (tiếng Việt) mà khi đọc ngược sẽ trở nênvô nghĩa hoặc khiên cưỡng, thiếu thuyết phục, làm giảm giá trị của bài thơ.
Những thí dụ dưới đây có thể là tiêu biểu:
TÌNH XUÂN với câu 1 (cũng là câu 8): Cành mai dâng sắc nghĩa trao đời khi đọc ngược thành Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành, hay KHỔ TẬN CAM LAI với câu 6: Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa khi đọc ngược thành Ưa buổi lắm đàn thi chốn nhớ, và câu 8: Tha hồ quý bạn đến người đưa - thành Đưa người đến bạn quý hồ tha, phải chăng nghe rất chông chênh về ngữ nghĩa?
Người ta có thể cho là nên châm chước, chứ không nên quá đòi hỏi, đối với loại thơThuận Nghịch Độc này? Tuy nhiên, bản chất thơ Đường Luật nói chung ngay từ đầu đã là “đòi hỏi”, “khắt khe”, và “tinh tế”; cũng chính vì vậy nó thách đố người viết, và cũng chính vì “thách đố” như vậy mà người viết mới có thể “khoan khoái” khi hoàn thành một tác phẩm, còn người đọc cũng có thể “thích thú” khi thưởng thức nó. (Hơn thế nữa, nói đến những “cầm”, “kỳ”, “thi”, “họa”, “trà”, “tửu”,… của người xưa, có ngón nào là “dễ tính”?) Riêng đối với tác giả các câu thơ đã dẫn, họ cho thấy lòng yêu thích không chỉ dành choThơ Đường, mà còn đặc biệt cho Thơ Đường Thuận Nghịch Độc, đến độ đã bỏ không ít thời gian cùng công sức thực hiện nó, phải chăng chúng ta nên hết lòng tán thưởng, cũng như có quyền kỳ vọng ở họ thêm một chút ít nỗ lực nữa, để hoàn thiện những đứa con tinh thần đáng quý của mình?
PIERRE BÙI
(Th.S. TESOL, Equest Academy, 116 Cống Quỳnh, Q.1, tpHCM)
Email: buihoangvi@gmail.com)
(Nguồn: thoduongdatviet.com)
Đôi điều cần lưu ý
khi Sáng tác
PIERRE BÙI
(Có tham khảo THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG, Chương 5 -“Thể Loại và Kết Cấu”, Nguyễn thị Bích Hải, NXB Thuận Hóa, Huề -1995)
Như các bạn yêu thơ Đường đều đã biết, một bài Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú không chỉ đơn giản là thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải thỏa mãn 6 qui luật chặt chẽ: 1-Niêm, 2-Luật, 3-Vận, 4-Đối, 5-Tiết Tấu, và 6-Bố Cục. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ chỉ lập lại 4 yếu tố đầu: NIÊM, LUẬT, VẬN và ĐỐI.
1) Trước hết, NIÊM là gì? Ấy là các chữ thứ Hai (hay thứ Nhì) của các cặp câu 1-8,2-3, 4-5, và 6-7 phải cùng thanh (Bằng hoặc Trắc)
2) Thứ đến, LUẬT là gì? Ấy là luật điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một dòng thơ sao cho Bằng/Trắc hài hòa, nghĩa là bảo đảm được sự cân bằng của “đòn cân thanh điệu”, gồm các chữ thứ Hai, Tư, và Sáu trong câu, bởi thế mà có yêu cầu “Nhị Tứ Lục Phân Minh”: Chữ thứ Tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ, cũng là tâm đối xứng của“đòn cân thanh điệu”, và luật thơ Đường đòi hỏi chữ thứ Tư ấy phải khác thanh với hai chữ thứ Hai và thứ Sáu, tức là: nếu chữ thứ Tư là thanh Bằng, thì chữ thứ Hai và thứSáu phải là Trắc, và ngược lại, nếu chữ thứ Tư thanh Trắc thì chữ thứ Hai và thứ Sáuphải là Bằng. Ngoài ra còn luật “Nhất Tam Ngũ Bất Luận”, là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ; tuy vậy, riêng chữ thứ Năm, do yêu cầu hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (Bằng/Trắc) với chữ thứ Bảy, mà chữ thứ Bảy thì thanh luôn cố định, nênthanh của chữ thứ Năm cũng mặc nhiên cố định theo.
3) Còn thế nào là VẬN? Một bài bát cú có năm vần, là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ Bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (ThơĐường thường gieo vần Bằng; còn vần Trắc ít khi dùng, bị coi như không chính qui, và chủ yếu trong thơ Cổ Phong.)
4) Và thế nào là ĐỐI? Các cặp câu Thực (3-4) và Luận (5-6) phải đối xứng nhau về 3 yếu tố: Thứ nhất - đối THANH (Bằng/Trắc); thứ nhì - đối TỰ LOẠI (Danh từ phải đối vớiDanh từ, Động từ với Động từ, Tính từ với Tính từ, Trạng từ với Trạng từ…, chứ không được đối lệch), và thứ ba - đối NGHĨA.
Mô hình của một bài thơ Đường thất ngôn bát cú xét về thanh (Bằng/Trắc) như sau:
Mô hình 1: Bằng khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Bằng):
B B T T T B B
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
Mô hình 2: Trắc khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Trắc)
T T B B T T B
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
(Trong 2 mô hình, có sự lập lại về thanh điệu: Các câu 1-4-8 giống nhau; 2-6 giống nhau;3-7 giống nhau.)
Dưới đây chúng tôi mạn phép góp ý về các trường hợp chưa chỉnh luật (thơ Đường), xét chủ yếu theo 2 yếu tố LUẬT và ĐỐI (và ngẫu nhiên cũng là 2 tiêu chí mà một số tác giả thường thiếu lưu ý), trong các bài Thất Ngôn Bát Cú Thuận Nghịch Độc mà thoduongdatviet.com đã giới thiệu . (Nguồn tham khảo: Thơ Đường Đất Việt):
Những trường hợp chưa chỉnh về LUẬT
(Bằng/Trắc):
Phần lớn là do các chữ thứNhất và thứ Ba trong các câu đọc xuôi (thuận độc) được gieo cùng thanh Bằng hoặcTrắc, do vậy khi đọc ngược (nghịch độc) sẽ tương ứng trở thành các chữ thứ Bảy và thứNăm cùng thanh, tức là không chỉnh luật, thí dụ trong các bài sau:
TÌNH XUÂN
(Thuận nghịch Độc)
Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời
Đón Tết hương xuân tỏa núi đồi
“Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy
“Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi
Thanh thiên mây phủ không mờ biển
Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời
Xanh biếc tháng ngày, xuân luyến ái
Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời.
Ngọc Ân Nhi Huyền
Câu 1: Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành
Câu 3: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy è câu 6: Nhảy múa tình monghoài “Điểu Oanh”
Câu 4: “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi è câu 5: Bơi xa ý nhớ nỗi “NgưLý”
Câu 5: Thanh thiên mây phủ không mờ biển è câu 4: Biển mờ không phủmây thiên thanh
TIẾNG CUỐC VÀO HÈ
(Thuận nghịch độc)
Vang xa nghe cuốc gọi vào hè
Nhạc tấu ngâm sầu rộn tiếng ve
Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy
Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe
Chan chan nắng đổ tầm cây dựa
Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che
Mang nặng duyên thơ tình luyến ái
Nàng hoa Phượng vỹ rực màu khoe.
Phạm Nhì
Câu 1: Vang xa nghe cuốc gọi vào hè khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Hè vào gọi cuốcnghe xa vang
Câu 3: Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy è câu 6: Thấy chẳng sao ai chờbến sang
Câu 4: Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe è câu 5: Nghe nào hỡi bạn gọiđò đến
Câu 6: Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che è câu 3: Che bóng đỡ nghiênggió dịu dịu
Câu 7: Mang nặng duyên thơ tình luyến ái è câu 2: Ái luyến tình thơ duyênnặng mang
PHƯỢNG THẮM
(Thuận nghịch vận)
Em nhớ còn anh đâu dễ quên
Vấn vương Phượng thắm đỏ hoa nền
Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ
Gợi ý trao vần bạn nhớ tên.
Êm ã thuyền mơ tình bến dưới
Lững lờ trăng mộng nghĩa đò trên
Đêm nằm nỗi nhớ thương xa cách
Thềm trước thấp cao bước xuống lên
Phạm Nhì
Câu 1: Em nhớ còn anh đâu dễ quên è câu 8: Quên dễ đâu anh còn nhớ em
Câu 5: Êm ã thuyền mơ tình bến dưới è câu 4: Dưới bến thuyền mơ tình ảêm
NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG
(Thuận nghịch độc)
Thu tàn nay đã bước sang đông
Gió lạnh vườn không đứng ngó mông
Du khách thăm về ai ngóng đợi
Vãng lai viếng đến bạn chờ trông
Dù cho cách trở hay ngăn suối
Nếu phải vì nhau cùng lội sông
Ru nhẹ sáo diều tiếng vẫy gọi
Vu vi lòng chạnh nỗi sang đông.
Phạm Nhì
Câu 5: Du khách thăm về ai ngóng đợi è câu 4: Đợi ngóng ai về thăm kháchdu
Câu 6: Vãng lai viếng đến bạn chờ trông è câu 3: Trông chờ bạn đến viếng laivãng
KHỔ TẬN CAM LAI
( Thuận nghịch độc )
Qua thời ta khổ tận ngày xưa
Dãi nắng dầm sương giọt mắt mưa
Da bủng beo lưng cơm lửng lửng
Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ
Xa anh trận chiến từng đêm mộng
Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa
Ba nổi bảy chìm đời tưởng ế
Tha hồ quý bạn đến người đưa.
Phan Thị Thanh Minh
Câu 1: Qua thời ta khổ tận ngày xưa è câu 8: Xưa ngày tận khổ ta thời qua
Câu 3: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng è câu 6: Lửng lửng cơm lưng beo bủngda
(Lưu ý: Với các chữ thứ Năm và thứ Bảy gieo cùng thanh Bằng hoặc Trắc, bài thơ sẽ trở thành Thơ Mới hay Thơ Hiện Đại bảy chữ, chứ không còn là Thơ Đường Luật.)
Những trường hợp chưa chỉnh về ĐỐI
(trong các cặp Thực và Luận)
ngoại trừ bài NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG ở các câu Luận (5-6):Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhaucùng lội sông: cặp chữ “hay”/ “cùng” đều thanh Bằng - là ĐỐI THANH không chỉnh, còn lại, chủ yếu chỉ liên quan đến ĐỐI TỰ LOẠI và ĐỐI NGHĨA. Các thí dụ tiêu biểu có thể thấy ở các bài sau:
ĐỢI NGƯỜI GIỮA CẢNH CHIỀU THU
(thủ vỹ ngâm - thuận nghịch độc)
Thuận:
Thu chiều bóng nhẹ thoảng mây Hồng
Lại đến tìm nhau đợi cuối sông
Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng
Đón thầm mơ hát khúc hoang đồng
Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ
Muộn rũ lòng buồn mộng trước đông
U vọng gió xa trời khói lạnh
Thu chiều cảnh biệt vấn lời không.
Ngược:
Không lời vấn biệt cảnh chiều thu
Lạnh khói trời xa gió vọng u
Đông trước mộng buồn lòng rũ muộn
Hạ xưa tình nhớ lệ vi vu
Đồng hoang khúc hát mơ thầm đến
Giọng khẽ thơ hò tiếng chậm ru
Sông cuối đợi nhau tìm đến lại
Hồng mây thoảng nhẹ bóng chiều thu .
Nguyễn Chí Hiệp
Câu 3-4: Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng / Đónthầm mơ hát khúc hoang đồng và câu 5-6: Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ / Muộn rũ lòng buồn mộng trước Đông: Dù thuận độc hay nghịch độc, các cặp chữ “ru chậm”/ “đón thầm”, “vu vi”/ ”muộn rũ” không đối nghĩa; “tiếng”/ “mơ”, “khẽ”/ “hoang” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.
XA TÌNH GIỮA ĐÊM
(tứ thủ - thuận nghịch độc)
1.
Canh điểm tiếng buồn phút ngẩn ngơ
Hỡi người xin lại nối tình thơ
Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ
Thán oán tâm hoài xót ước mơ
Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt
Bướm hoa trông mãi gói sầu tơ
Quanh vòng gió tối trời mây nhẹ
Hanh vắng lối xưa dõi bước khờ
2.
Khờ bước dõi xưa lối vắng hanh
Nhẹ mây trời tối gió vòng quanh
Tơ sầu gói mãi trông hoa bướm
Nguyệt nhớ ai cùng thức họa tranh
Mơ ước xót hoài tâm oán thán
Nợ duyên thương ứa lệ dâng tràn
Thơ tình nối lại xin người hỡi
Ngơ ngẩn phút buồn tiếng điểm canh
3.
Ngơ mắt đọng buồn phút mãn canh
Úa rơi thu khuyết bóng trăng tàn
Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt
Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh
Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi
Mộng cuồng hồn vọng bước tìm quanh
Vơ chân gót lạc đời xa lối
Mờ trắng cảnh sương lạnh gió tràn
4.
Tràn gió lạnh sương cảnh trắng mờ
Lối xa đời lạc gót chân vơ
Quanh tìm bước vọng hồn cuồng mộng
Mãi vọng duyên chờ giấc cuộn tơ
Nhanh đến lệ sầu môi đắng giọng
Biệt ly đêm tiễn khúc hoài thơ
Tàn trăng bóng khuyết thu rơi úa
Canh mãn phút buồn đọng mắt ngơ.
Nguyễn Chí Hiệp
Bài 1, câu 3-4: Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ / Thán oán tâm hoài xót ước mơ và câu 5-6: Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt / Bướm hoa trông mãigói sầu tơ: Các cặp chữ “tràn dâng”/ “thán oán”, “cùng ai”/ ”mãi gói” không đối cả tự loạilẫn nghĩa.Bài 2, câu 3-4: Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt / Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh và câu 5-6: Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi / Mộng cuồng hồn vọng bước tìmquanh: Các cặp chữ “thơ hoài”/ “giọng đắng”, “khúc tiễn”/ ”môi sầu”, “đêm”/ ”lệ”, “ly biệt”/ ”đến nhanh”, “duyên”/ ”bước”, “mãi”/ ”quanh” không đối nghĩa.
SẦU GỬI MÙA ĐÔNG
(tứ thủ - thuận nghịch độc)
1.
Ương sầu giọt nhớ rũ loan phòng
Tiễn vội mùa thu tiếc cảnh không
Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng
Giấc cô đêm mộng oán thầm mong
Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng
Bệnh đắm hồn xa khó mở lòng
Thương xót nỗi xưa lời mãi gọi
Vương sầu giọt nhớ gửi sang đông
2.
Đông sang gửi nhớ giọt sầu vương
Gọi mãi lời xưa nỗi xót thương
Lòng khó xa hồn đắm bệnh
Bóng sâu vừa úa lệ hoài hương
Mong thầm oán mộng đêm cô giấc
Vọng đớn đau tình cõi lạnh sương
Không cảnh ẩn thu mùa vội tiễn
Phòng loan rũ nhớ giọt sầu ương
3.
Đông về cảnh tuyết trắng mờ vương
Góp lại đêm tình mộng rũ thương
Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc
Biển xa chiều nhớ vọng quê hương
Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ
Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương
Không bóng lạc say đời khách lữ
Phòng khuya gửi mộng giấc thầm ương
4.
Ương thầm giấc mộng gửi khuya phòng
Lữ khách đời say lạc bóng không
Sương vấy tóc ai hồn mãi đợi
Lệ đầy tâm nguyện phút chờ mong
Hương quê vọng nhớ chiều xa biển
Nhạc khúc giăng sầu tiếng ẩn lòng
thương rũ bến tình đêm lại góp
Vương mờ trắng tuyết cảnh về đông
Đông Hòa NCH - Nguyễn Chi Hiệp TP HCM
Bài 1, câu 3-4: Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng / Giấc cô đêm mộng oán thầm mong và câu 5-6: Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng / Bệnh đắm hồn xakhó mở lòng: Các cặp chữ “cõi tình”/ “đêm mộng”, “đau đớn vọng”/ ”oán thầm mong”, “hương”/ ”bệnh”,”hoài”/ ”đắm”, “vừa”/ ”khó”,”sâu bóng”/ ”mở lòng” không đối hoặc tự loạihoặc nghĩa. Bài 2, câu 3-4: Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc / Biển xa chiều nhớ vọngquê hương và câu 5-6: Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ / Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương: Các cặp chữ “tiếng”/ “chiều”, “khúc nhạc”/ ”quê hương”, “chờ”/ ”mãi”, “phút”/ ”hồn”, “nguyện”/ ”ai” không đối hoặc tự loại hoặc nghĩa hoặc cả tự loại lẫn nghĩa.
TÌNH XUÂN
Câu 3-4: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy / “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơivà câu 5-6: Thanh thiên mây phủ không mờ biển / Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời: Các cặp chữ “hoài”/ “nỗi”, “múa”/ ”xa” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
MẾN CẢNH YÊU NGƯỜI
Thuận nghịch độc
Em về nhớ cảnh mến yêu người
Rực đỏ hoa rừng lộc thắm tươi
Thèm khát nỗi ai lòng ấm lạnh
Nhớ mong niềm khách dạ đầy vơi
Rèm buông cửa vắng nhà im lặng
Bến rộn sông đưa sóng chuyển dời
Êm dịu thắm đời cho ước nguyện
Em về nhớ cảnh mến yêu người .
Trần Ngọc Quang
Câu 5-6: Rèm buông cửa vắng nhà im lặng / Bến rộn sông đưasóng chuyển dời: Các cặp chữ “buông”/ “rộn”, “vắng”/ ”đưa” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.
TIẾNG CUỐC VÀO HÈ
Câu 5-6: Chan chan nắng đổ tầm cây dựa / Dịu dịu gió nghiêngđỡ bóng che: Cặp chữ “tầm”/ “đỡ” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
PHƯỢNG THẮM
Câu 3-4: Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ / Gợi ý trao vần bạn nhớ tên: Các cặp chữ “thêm”/ “gợi”, “thuận nghịch”/ “trao vần” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
CẢNH THU
(Thuận nghịch độc)
Thu sang gió thổi lá vàng bay
Nắng ít mưa nhiều tiết đổi thay
U ám mây giăng mờ sớm tối
Mịt mù khói núi kín đêm ngày
Ru lòng lữ khách ai nào biết
Xót dạ trông đò bạn có hay
Du ngoạn xuống sông thuyền ngại sóng
Phu tiều vọng núi đứng khoanh tay.
Phạm Nhì
Câu 3-4: U ám mây giăng mờ sớm tối / Mịt mù khói núi kín đêm ngày và câu 5-6: Ru lòng lữ khách ai nào biết / Xót dạ trông đò bạn có hay: Các cặp chữ “giăng”/ “núi”, “lữ khách”/ “trông đò” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG
Câu 3-4: Du khách thăm về ai ngóng đợi / Vãng lai viếng đến bạn chờ trông và câu 5-6: Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhau cùng lội sông: Các cặp chữ “du khách”/ “vãng lai”, “cách trở”/ “vì nhau” không đối cả tự loại lẫnnghĩa, đặc biệt cặp “hay”/ “cùng” hoàn toàn không đối cả thanh, lẫn tự loại, lẫn nghĩa.
KHỔ TẬN CAM LAI
Câu 3-4: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng / Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ và câu 5-6: Xa anh trận chiến từng đêm mộng / Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa: Các cặp chữ “da”/ “dạ”, “bủng beo”/ “sầu bi”, “kiếp”/ “cơm”, “trận chiến”/ “thi đàn”, “đêm mộng”/ “buổi ưa” không đối nghĩa, và các cặp “lưng”/ “sống”, “anh”/ “chốn” không đối cảtự loại lẫn nghĩa.
Ngoài ra, ở đây còn một yếu tố khác chúng ta rất nên lưu ý: Các bài thơ tương tự như trên đều được làm với mục đích Thuận Nghịch Độc (nghĩa là để có thể đọc ngược); bởi vậy, ngoài việc đáp ứng toàn bộ 6 đòi hỏi cơ bản của thơ Đường - Niêm,Luật, Vận, Đối, Tiết Tấu, và Bố Cục - như đã đề cập ở trên, người viết còn cần lưu ý, bằng không, sẽ làm nảy sinh những kết hợp từ (tiếng Việt) mà khi đọc ngược sẽ trở nênvô nghĩa hoặc khiên cưỡng, thiếu thuyết phục, làm giảm giá trị của bài thơ.
Những thí dụ dưới đây có thể là tiêu biểu:
TÌNH XUÂN với câu 1 (cũng là câu 8): Cành mai dâng sắc nghĩa trao đời khi đọc ngược thành Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành, hay KHỔ TẬN CAM LAI với câu 6: Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa khi đọc ngược thành Ưa buổi lắm đàn thi chốn nhớ, và câu 8: Tha hồ quý bạn đến người đưa - thành Đưa người đến bạn quý hồ tha, phải chăng nghe rất chông chênh về ngữ nghĩa?
Người ta có thể cho là nên châm chước, chứ không nên quá đòi hỏi, đối với loại thơThuận Nghịch Độc này? Tuy nhiên, bản chất thơ Đường Luật nói chung ngay từ đầu đã là “đòi hỏi”, “khắt khe”, và “tinh tế”; cũng chính vì vậy nó thách đố người viết, và cũng chính vì “thách đố” như vậy mà người viết mới có thể “khoan khoái” khi hoàn thành một tác phẩm, còn người đọc cũng có thể “thích thú” khi thưởng thức nó. (Hơn thế nữa, nói đến những “cầm”, “kỳ”, “thi”, “họa”, “trà”, “tửu”,… của người xưa, có ngón nào là “dễ tính”?) Riêng đối với tác giả các câu thơ đã dẫn, họ cho thấy lòng yêu thích không chỉ dành choThơ Đường, mà còn đặc biệt cho Thơ Đường Thuận Nghịch Độc, đến độ đã bỏ không ít thời gian cùng công sức thực hiện nó, phải chăng chúng ta nên hết lòng tán thưởng, cũng như có quyền kỳ vọng ở họ thêm một chút ít nỗ lực nữa, để hoàn thiện những đứa con tinh thần đáng quý của mình?
PIERRE BÙI
(Th.S. TESOL, Equest Academy, 116 Cống Quỳnh, Q.1, tpHCM)
Email: buihoangvi@gmail.com)
(Nguồn: thoduongdatviet.com)