PDA

View Full Version : THUẬN NGHỊCH ĐỘC: Đôi điều cần lưu ý khi SÁNG TÁC


Hansy
17-12-11, 02:00 PM
THUẬN NGHỊCH ĐỘC:

Đôi điều cần lưu ý
khi Sáng tác

PIERRE BÙI



(Có tham khảo THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG, Chương 5 -“Thể Loại và Kết Cấu”, Nguyễn thị Bích Hải, NXB Thuận Hóa, Huề -1995)



Như các bạn yêu thơ Đường đều đã biết, một bài Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú không chỉ đơn giản là thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải thỏa mãn 6 qui luật chặt chẽ: 1-Niêm, 2-Luật, 3-Vận, 4-Đối, 5-Tiết Tấu, và 6-Bố Cục. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ chỉ lập lại 4 yếu tố đầu: NIÊM, LUẬT, VẬN và ĐỐI.

1) Trước hết, NIÊM là gì? Ấy là các chữ thứ Hai (hay thứ Nhì) của các cặp câu 1-8,2-3, 4-5, và 6-7 phải cùng thanh (Bằng hoặc Trắc)

2) Thứ đến, LUẬT là gì? Ấy là luật điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một dòng thơ sao cho Bằng/Trắc hài hòa, nghĩa là bảo đảm được sự cân bằng của “đòn cân thanh điệu”, gồm các chữ thứ Hai, Tư, và Sáu trong câu, bởi thế mà có yêu cầu “Nhị Tứ Lục Phân Minh”: Chữ thứ Tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ, cũng là tâm đối xứng của“đòn cân thanh điệu”, và luật thơ Đường đòi hỏi chữ thứ Tư ấy phải khác thanh với hai chữ thứ Hai và thứ Sáu, tức là: nếu chữ thứ Tư là thanh Bằng, thì chữ thứ Hai và thứSáu phải là Trắc, và ngược lại, nếu chữ thứ Tư thanh Trắc thì chữ thứ Hai và thứ Sáuphải là Bằng. Ngoài ra còn luật “Nhất Tam Ngũ Bất Luận”, là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ; tuy vậy, riêng chữ thứ Năm, do yêu cầu hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (Bằng/Trắc) với chữ thứ Bảy, mà chữ thứ Bảy thì thanh luôn cố định, nênthanh của chữ thứ Năm cũng mặc nhiên cố định theo.

3) Còn thế nào là VẬN? Một bài bát cú có năm vần, là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ Bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (ThơĐường thường gieo vần Bằng; còn vần Trắc ít khi dùng, bị coi như không chính qui, và chủ yếu trong thơ Cổ Phong.)

4) Và thế nào là ĐỐI? Các cặp câu Thực (3-4) và Luận (5-6) phải đối xứng nhau về 3 yếu tố: Thứ nhất - đối THANH (Bằng/Trắc); thứ nhì - đối TỰ LOẠI (Danh từ phải đối vớiDanh từ, Động từ với Động từ, Tính từ với Tính từ, Trạng từ với Trạng từ…, chứ không được đối lệch), và thứ ba - đối NGHĨA.

Mô hình của một bài thơ Đường thất ngôn bát cú xét về thanh (Bằng/Trắc) như sau:

Mô hình 1: Bằng khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Bằng):

B B T T T B B

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

Mô hình 2: Trắc khởi cách (Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Trắc)

T T B B T T B

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

(Trong 2 mô hình, có sự lập lại về thanh điệu: Các câu 1-4-8 giống nhau; 2-6 giống nhau;3-7 giống nhau.)

Dưới đây chúng tôi mạn phép góp ý về các trường hợp chưa chỉnh luật (thơ Đường), xét chủ yếu theo 2 yếu tố LUẬT và ĐỐI (và ngẫu nhiên cũng là 2 tiêu chí mà một số tác giả thường thiếu lưu ý), trong các bài Thất Ngôn Bát Cú Thuận Nghịch Độc mà thoduongdatviet.com đã giới thiệu . (Nguồn tham khảo: Thơ Đường Đất Việt):


Những trường hợp chưa chỉnh về LUẬT
(Bằng/Trắc):
Phần lớn là do các chữ thứNhất và thứ Ba trong các câu đọc xuôi (thuận độc) được gieo cùng thanh Bằng hoặcTrắc, do vậy khi đọc ngược (nghịch độc) sẽ tương ứng trở thành các chữ thứ Bảy và thứNăm cùng thanh, tức là không chỉnh luật, thí dụ trong các bài sau:

TÌNH XUÂN
(Thuận nghịch Độc)

Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời
Đón Tết hương xuân tỏa núi đồi
“Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy
“Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi
Thanh thiên mây phủ không mờ biển
Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời
Xanh biếc tháng ngày, xuân luyến ái
Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời.

Ngọc Ân Nhi Huyền

Câu 1: Cành Mai dâng sắc nghĩa trao đời khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành
Câu 3: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy è câu 6: Nhảy múa tình monghoài “Điểu Oanh”
Câu 4: “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơi è câu 5: Bơi xa ý nhớ nỗi “NgưLý”
Câu 5: Thanh thiên mây phủ không mờ biển è câu 4: Biển mờ không phủmây thiên thanh


TIẾNG CUỐC VÀO HÈ

(Thuận nghịch độc)

Vang xa nghe cuốc gọi vào hè
Nhạc tấu ngâm sầu rộn tiếng ve
Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy
Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe
Chan chan nắng đổ tầm cây dựa
Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che
Mang nặng duyên thơ tình luyến ái
Nàng hoa Phượng vỹ rực màu khoe.

Phạm Nhì

Câu 1: Vang xa nghe cuốc gọi vào hè khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Hè vào gọi cuốcnghe xa vang
Câu 3: Sang bến chờ ai ! sao chẳng thấy è câu 6: Thấy chẳng sao ai chờbến sang
Câu 4: Đến đò gọi bạn hỡi ! nào nghe è câu 5: Nghe nào hỡi bạn gọiđò đến
Câu 6: Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che è câu 3: Che bóng đỡ nghiênggió dịu dịu
Câu 7: Mang nặng duyên thơ tình luyến ái è câu 2: Ái luyến tình thơ duyênnặng mang


PHƯỢNG THẮM

(Thuận nghịch vận)

Em nhớ còn anh đâu dễ quên
Vấn vương Phượng thắm đỏ hoa nền
Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ
Gợi ý trao vần bạn nhớ tên.
Êm ã thuyền mơ tình bến dưới
Lững lờ trăng mộng nghĩa đò trên
Đêm nằm nỗi nhớ thương xa cách
Thềm trước thấp cao bước xuống lên

Phạm Nhì

Câu 1: Em nhớ còn anh đâu dễ quên è câu 8: Quên dễ đâu anh còn nhớ em
Câu 5: Êm ã thuyền mơ tình bến dưới è câu 4: Dưới bến thuyền mơ tình ảêm

NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG

(Thuận nghịch độc)

Thu tàn nay đã bước sang đông
Gió lạnh vườn không đứng ngó mông
Du khách thăm về ai ngóng đợi
Vãng lai viếng đến bạn chờ trông
Dù cho cách trở hay ngăn suối
Nếu phải vì nhau cùng lội sông
Ru nhẹ sáo diều tiếng vẫy gọi
Vu vi lòng chạnh nỗi sang đông.

Phạm Nhì

Câu 5: Du khách thăm về ai ngóng đợi è câu 4: Đợi ngóng ai về thăm kháchdu
Câu 6: Vãng lai viếng đến bạn chờ trông è câu 3: Trông chờ bạn đến viếng laivãng

KHỔ TẬN CAM LAI

( Thuận nghịch độc )

Qua thời ta khổ tận ngày xưa
Dãi nắng dầm sương giọt mắt mưa
Da bủng beo lưng cơm lửng lửng
Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ
Xa anh trận chiến từng đêm mộng
Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa
Ba nổi bảy chìm đời tưởng ế
Tha hồ quý bạn đến người đưa.

Phan Thị Thanh Minh

Câu 1: Qua thời ta khổ tận ngày xưa è câu 8: Xưa ngày tận khổ ta thời qua
Câu 3: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng è câu 6: Lửng lửng cơm lưng beo bủngda

(Lưu ý: Với các chữ thứ Năm và thứ Bảy gieo cùng thanh Bằng hoặc Trắc, bài thơ sẽ trở thành Thơ Mới hay Thơ Hiện Đại bảy chữ, chứ không còn là Thơ Đường Luật.)


Những trường hợp chưa chỉnh về ĐỐI
(trong các cặp Thực và Luận)
ngoại trừ bài NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG ở các câu Luận (5-6):Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhaucùng lội sông: cặp chữ “hay”/ “cùng” đều thanh Bằng - là ĐỐI THANH không chỉnh, còn lại, chủ yếu chỉ liên quan đến ĐỐI TỰ LOẠI và ĐỐI NGHĨA. Các thí dụ tiêu biểu có thể thấy ở các bài sau:

ĐỢI NGƯỜI GIỮA CẢNH CHIỀU THU

(thủ vỹ ngâm - thuận nghịch độc)

Thuận:

Thu chiều bóng nhẹ thoảng mây Hồng
Lại đến tìm nhau đợi cuối sông
Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng
Đón thầm mơ hát khúc hoang đồng
Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ
Muộn rũ lòng buồn mộng trước đông
U vọng gió xa trời khói lạnh
Thu chiều cảnh biệt vấn lời không.

Ngược:

Không lời vấn biệt cảnh chiều thu
Lạnh khói trời xa gió vọng u
Đông trước mộng buồn lòng rũ muộn
Hạ xưa tình nhớ lệ vi vu
Đồng hoang khúc hát mơ thầm đến
Giọng khẽ thơ hò tiếng chậm ru
Sông cuối đợi nhau tìm đến lại
Hồng mây thoảng nhẹ bóng chiều thu .

Nguyễn Chí Hiệp

Câu 3-4: Ru chậm tiếng hò thơ khẽ giọng / Đónthầm mơ hát khúc hoang đồng và câu 5-6: Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ / Muộn rũ lòng buồn mộng trước Đông: Dù thuận độc hay nghịch độc, các cặp chữ “ru chậm”/ “đón thầm”, “vu vi”/ ”muộn rũ” không đối nghĩa; “tiếng”/ “mơ”, “khẽ”/ “hoang” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.

XA TÌNH GIỮA ĐÊM

(tứ thủ - thuận nghịch độc)

1.
Canh điểm tiếng buồn phút ngẩn ngơ
Hỡi người xin lại nối tình thơ
Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ
Thán oán tâm hoài xót ước mơ
Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt
Bướm hoa trông mãi gói sầu tơ
Quanh vòng gió tối trời mây nhẹ
Hanh vắng lối xưa dõi bước khờ

2.
Khờ bước dõi xưa lối vắng hanh
Nhẹ mây trời tối gió vòng quanh
Tơ sầu gói mãi trông hoa bướm
Nguyệt nhớ ai cùng thức họa tranh
Mơ ước xót hoài tâm oán thán
Nợ duyên thương ứa lệ dâng tràn
Thơ tình nối lại xin người hỡi
Ngơ ngẩn phút buồn tiếng điểm canh

3.
Ngơ mắt đọng buồn phút mãn canh
Úa rơi thu khuyết bóng trăng tàn
Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt
Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh
Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi
Mộng cuồng hồn vọng bước tìm quanh
Vơ chân gót lạc đời xa lối
Mờ trắng cảnh sương lạnh gió tràn

4.
Tràn gió lạnh sương cảnh trắng mờ
Lối xa đời lạc gót chân vơ
Quanh tìm bước vọng hồn cuồng mộng
Mãi vọng duyên chờ giấc cuộn tơ
Nhanh đến lệ sầu môi đắng giọng
Biệt ly đêm tiễn khúc hoài thơ
Tàn trăng bóng khuyết thu rơi úa
Canh mãn phút buồn đọng mắt ngơ.

Nguyễn Chí Hiệp

Bài 1, câu 3-4: Tràn dâng lệ ứa thương duyên nợ / Thán oán tâm hoài xót ước mơ và câu 5-6: Tranh họa thức cùng ai nhớ nguyệt / Bướm hoa trông mãigói sầu tơ: Các cặp chữ “tràn dâng”/ “thán oán”, “cùng ai”/ ”mãi gói” không đối cả tự loạilẫn nghĩa.Bài 2, câu 3-4: Thơ hoài khúc tiễn đêm ly biệt / Giọng đắng môi sầu lệ đến nhanh và câu 5-6: Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi / Mộng cuồng hồn vọng bước tìmquanh: Các cặp chữ “thơ hoài”/ “giọng đắng”, “khúc tiễn”/ ”môi sầu”, “đêm”/ ”lệ”, “ly biệt”/ ”đến nhanh”, “duyên”/ ”bước”, “mãi”/ ”quanh” không đối nghĩa.

SẦU GỬI MÙA ĐÔNG

(tứ thủ - thuận nghịch độc)

1.
Ương sầu giọt nhớ rũ loan phòng
Tiễn vội mùa thu tiếc cảnh không
Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng
Giấc cô đêm mộng oán thầm mong
Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng
Bệnh đắm hồn xa khó mở lòng
Thương xót nỗi xưa lời mãi gọi
Vương sầu giọt nhớ gửi sang đông

2.
Đông sang gửi nhớ giọt sầu vương
Gọi mãi lời xưa nỗi xót thương
Lòng khó xa hồn đắm bệnh
Bóng sâu vừa úa lệ hoài hương
Mong thầm oán mộng đêm cô giấc
Vọng đớn đau tình cõi lạnh sương
Không cảnh ẩn thu mùa vội tiễn
Phòng loan rũ nhớ giọt sầu ương

3.
Đông về cảnh tuyết trắng mờ vương
Góp lại đêm tình mộng rũ thương
Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc
Biển xa chiều nhớ vọng quê hương
Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ
Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương
Không bóng lạc say đời khách lữ
Phòng khuya gửi mộng giấc thầm ương

4.
Ương thầm giấc mộng gửi khuya phòng
Lữ khách đời say lạc bóng không
Sương vấy tóc ai hồn mãi đợi
Lệ đầy tâm nguyện phút chờ mong
Hương quê vọng nhớ chiều xa biển
Nhạc khúc giăng sầu tiếng ẩn lòng
thương rũ bến tình đêm lại góp
Vương mờ trắng tuyết cảnh về đông

Đông Hòa NCH - Nguyễn Chi Hiệp TP HCM

Bài 1, câu 3-4: Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng / Giấc cô đêm mộng oán thầm mong và câu 5-6: Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng / Bệnh đắm hồn xakhó mở lòng: Các cặp chữ “cõi tình”/ “đêm mộng”, “đau đớn vọng”/ ”oán thầm mong”, “hương”/ ”bệnh”,”hoài”/ ”đắm”, “vừa”/ ”khó”,”sâu bóng”/ ”mở lòng” không đối hoặc tự loạihoặc nghĩa. Bài 2, câu 3-4: Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc nhạc / Biển xa chiều nhớ vọngquê hương và câu 5-6: Mong chờ phút nguyện tâm đầy lệ / Đợi mãi hồn ai tóc vấy sương: Các cặp chữ “tiếng”/ “chiều”, “khúc nhạc”/ ”quê hương”, “chờ”/ ”mãi”, “phút”/ ”hồn”, “nguyện”/ ”ai” không đối hoặc tự loại hoặc nghĩa hoặc cả tự loại lẫn nghĩa.

TÌNH XUÂN

Câu 3-4: “Oanh Điểu” hoài mong tình múa nhảy / “Lý Ngư” nỗi nhớ ý xa bơivà câu 5-6: Thanh thiên mây phủ không mờ biển / Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời: Các cặp chữ “hoài”/ “nỗi”, “múa”/ ”xa” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.

MẾN CẢNH YÊU NGƯỜI

Thuận nghịch độc

Em về nhớ cảnh mến yêu người
Rực đỏ hoa rừng lộc thắm tươi
Thèm khát nỗi ai lòng ấm lạnh
Nhớ mong niềm khách dạ đầy vơi
Rèm buông cửa vắng nhà im lặng
Bến rộn sông đưa sóng chuyển dời
Êm dịu thắm đời cho ước nguyện
Em về nhớ cảnh mến yêu người .

Trần Ngọc Quang

Câu 5-6: Rèm buông cửa vắng nhà im lặng / Bến rộn sông đưasóng chuyển dời: Các cặp chữ “buông”/ “rộn”, “vắng”/ ”đưa” không đối cả tự loại lẫnnghĩa.

TIẾNG CUỐC VÀO HÈ

Câu 5-6: Chan chan nắng đổ tầm cây dựa / Dịu dịu gió nghiêngđỡ bóng che: Cặp chữ “tầm”/ “đỡ” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.

PHƯỢNG THẮM

Câu 3-4: Thêm màu thuận nghịch ta gìn chữ / Gợi ý trao vần bạn nhớ tên: Các cặp chữ “thêm”/ “gợi”, “thuận nghịch”/ “trao vần” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.

CẢNH THU

(Thuận nghịch độc)

Thu sang gió thổi lá vàng bay
Nắng ít mưa nhiều tiết đổi thay
U ám mây giăng mờ sớm tối
Mịt mù khói núi kín đêm ngày
Ru lòng lữ khách ai nào biết
Xót dạ trông đò bạn có hay
Du ngoạn xuống sông thuyền ngại sóng
Phu tiều vọng núi đứng khoanh tay.

Phạm Nhì

Câu 3-4: U ám mây giăng mờ sớm tối / Mịt mù khói núi kín đêm ngày và câu 5-6: Ru lòng lữ khách ai nào biết / Xót dạ trông đò bạn có hay: Các cặp chữ “giăng”/ “núi”, “lữ khách”/ “trông đò” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.

NỖI BƯỚC SANG ĐÔNG

Câu 3-4: Du khách thăm về ai ngóng đợi / Vãng lai viếng đến bạn chờ trông và câu 5-6: Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhau cùng lội sông: Các cặp chữ “du khách”/ “vãng lai”, “cách trở”/ “vì nhau” không đối cả tự loại lẫnnghĩa, đặc biệt cặp “hay”/ “cùng” hoàn toàn không đối cả thanh, lẫn tự loại, lẫn nghĩa.

KHỔ TẬN CAM LAI

Câu 3-4: Da bủng beo lưng cơm lửng lửng / Dạ sầu bi sống kiếp lơ lơ và câu 5-6: Xa anh trận chiến từng đêm mộng / Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa: Các cặp chữ “da”/ “dạ”, “bủng beo”/ “sầu bi”, “kiếp”/ “cơm”, “trận chiến”/ “thi đàn”, “đêm mộng”/ “buổi ưa” không đối nghĩa, và các cặp “lưng”/ “sống”, “anh”/ “chốn” không đối cảtự loại lẫn nghĩa.



Ngoài ra, ở đây còn một yếu tố khác chúng ta rất nên lưu ý: Các bài thơ tương tự như trên đều được làm với mục đích Thuận Nghịch Độc (nghĩa là để có thể đọc ngược); bởi vậy, ngoài việc đáp ứng toàn bộ 6 đòi hỏi cơ bản của thơ Đường - Niêm,Luật, Vận, Đối, Tiết Tấu, và Bố Cục - như đã đề cập ở trên, người viết còn cần lưu ý, bằng không, sẽ làm nảy sinh những kết hợp từ (tiếng Việt) mà khi đọc ngược sẽ trở nênvô nghĩa hoặc khiên cưỡng, thiếu thuyết phục, làm giảm giá trị của bài thơ.

Những thí dụ dưới đây có thể là tiêu biểu:

TÌNH XUÂN với câu 1 (cũng là câu 8): Cành mai dâng sắc nghĩa trao đời khi đọc ngược thành Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành, hay KHỔ TẬN CAM LAI với câu 6: Nhớ chốn thi đàn lắm buổi ưa khi đọc ngược thành Ưa buổi lắm đàn thi chốn nhớ, và câu 8: Tha hồ quý bạn đến người đưa - thành Đưa người đến bạn quý hồ tha, phải chăng nghe rất chông chênh về ngữ nghĩa?



Người ta có thể cho là nên châm chước, chứ không nên quá đòi hỏi, đối với loại thơThuận Nghịch Độc này? Tuy nhiên, bản chất thơ Đường Luật nói chung ngay từ đầu đã là “đòi hỏi”, “khắt khe”, và “tinh tế”; cũng chính vì vậy nó thách đố người viết, và cũng chính vì “thách đố” như vậy mà người viết mới có thể “khoan khoái” khi hoàn thành một tác phẩm, còn người đọc cũng có thể “thích thú” khi thưởng thức nó. (Hơn thế nữa, nói đến những “cầm”, “kỳ”, “thi”, “họa”, “trà”, “tửu”,… của người xưa, có ngón nào là “dễ tính”?) Riêng đối với tác giả các câu thơ đã dẫn, họ cho thấy lòng yêu thích không chỉ dành choThơ Đường, mà còn đặc biệt cho Thơ Đường Thuận Nghịch Độc, đến độ đã bỏ không ít thời gian cùng công sức thực hiện nó, phải chăng chúng ta nên hết lòng tán thưởng, cũng như có quyền kỳ vọng ở họ thêm một chút ít nỗ lực nữa, để hoàn thiện những đứa con tinh thần đáng quý của mình?


PIERRE BÙI

(Th.S. TESOL, Equest Academy, 116 Cống Quỳnh, Q.1, tpHCM)
Email: buihoangvi@gmail.com)



(Nguồn: thoduongdatviet.com)

luuvinhhiep
17-12-11, 10:25 PM
Mấy người này vốn thơ đường được bao nhiêu mà vấn thị vậy ???

rõ chán

VỀ MIỀN TRUNG
17-12-11, 10:40 PM
Thấy tựa đề "Đôi điều cần lưu ý...", VMT tui cũng dành chút thời gian ngẫm xem.
Bài viết chỉ tựu trung điểm ra những câu chưa hay hoặc không vừa ý người viết. Số bài trích dẫn nhìn qua thì nhiều nhưng cũng chỉ mấy người.

Quyển Thi pháp Thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải cũng chỉ là một cuốn giáo trình cho sinh viên khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Huế, sau này thay tên đổi họ cho sang. Bản thân tác giả viết chưa nổi mươi bài đường luật.

pumanew
17-12-11, 11:41 PM
:lacha::lacha::lacha::cuoi::cuoi::cuoi:

PIERRE BÙI - TP Hồ Chí Minh lại có chùm thơ 6 trong 1 xin được giới thiệu
LẶNG VẮNG
(đọc xuôi)
.
Đêm về ngả bóng đợi kia rồi
Mặc những đời rong ruổi nổi trôi
Nằm lại nữa tàn sương phách ấy
Dậy chưa thôi lạnh khói hồn ai
Âm vang nhã nhạc hoài bừng vỡ
Ngắt lặng trầm hương mãi thoảng rơi
Tìm đến đã vàng trăng khuất nẻo
Hiên ngoài trở giấc gọi lòng nguôi .



VẮNG LẶNG
(đọc ngược)
.
Nguôi lòng gọi giấc trở ngoài hiên
Nẻo khuất trăng vàng đã đến tìm
Rơi thoảng mãi hương trầm lặng ngắt
Vỡ bừng hoài nhạc nhã vang âm
Ai hồn khói lạnh thôi chưa dậy
Ấy phách sương tàn nữa lại nằm
Trôi nổi ruổi rong đời những mặc
Rồi kia đợi bóng ngả về đêm .


X HUẾ

Điên chừ ngả ngốn quậy mi coi
Mót quá tau mò tới đặng chơi
Lỳn vọc có mô răng hở chúa
Kặk mơn khôông phải vậy a trời
Rêm mou rứa cạ hoài eng khoái
Quíu đýt ri đeo mãi ả đòi
Ghiền nữa nớ làm ni róng riết
Thèm ai ngọ với ngoạy chau ơi


MÙA SAY (1981)

Qua ngày gió mãi gọi hồn ơi
Biết có ai tìm lại hỏi ai
Loe nắng ngõ hồng phơi lá rụng
Bạt mưa thềm trắng giãi sương trôi
Xa trời đỏ héo chờ năm tháng
Vắng cảnh vàng phai đợi phút giây
Thơ thẩn ngó hoài ta cửa trước
Mùa sang tỏa lạnh khói non ngoài



Tưởng........!

Phù Thủy Jin To
27-08-14, 07:12 PM
Thật ra thì đưa ra góp ý để hoàn thiện chất thơ cũng tốt,Jin to đứng trên phương diện trung gian,trung lập :)
Đúng là nhiều bài còn gượng,cách vận ý gieo từ còn ngang,chưa đc tự nhiên nhuần nhuyễn.
Jin To là kẻ hậu sinh,tuy không nghien cứu nhiều về thơ nhưng cũng hiểu đc chút ít.
Còn chủ topic,cũng hơi vấn thị,nói thì hay,nhưng tôi có đọc qua mấy bài của anh/chị,thì nói thật,thơ không giàu thanh điệu,hình ảnh ít,mà còn gượng hơn các bài đã nêu trên.
Nếu muốn đối thơ,tham khảo thơ,tôi sẵn sàng chia sẻ 100 bài thơ thuận nghịch độc tôi sáng tác trong 2 tháng vừa qua.Có thể đối thơ với chủ topic đc.
Thân chào!
Sr vì topic cũ mà bới lên!:tuc:

Phù Thủy Jin To
27-08-14, 07:23 PM
Mấy người này vốn thơ đường được bao nhiêu mà vấn thị vậy ???

rõ chán

Còn anh Lưu vĩnh Hiệp,e có đọc thơ Đông Hòa Nguyễn Chí Hiệp qua rồi :)
Có thể nhận xét như sau:
Cảm xúc dạt dào,đôi khi em vẫn cảm giác trong thơ anh có một chút vè nghịch đối bị vụn vặt và ý thơ chưa thật sự được anh phát huy hết.
Có điểm em không thích ở thơ anh lắm,đó là anh dùng liên hoàn tnđ,nhưng lại dùng liên vận,đôi khi còn cưỡng vận.
Thơ anh viết tương đối nhiều,em cũng đã tham khảo một số bài của anh và cảm nhận.
Người viết được nhiều như anh ,thường 100 bài hiện nay theo kiến thức nông cạn của em được biết,chưa quá 5 người ,dù có hơn chỉ là gượng ép và chưa đạt ý chuẩn.
Còn về em,em không đứng trên vai người khác và nói mình cao hơn họ.Em cũng không miệt thị ai cả,vì thơ chính là tiếng lòng,là tâm hồn người nghệ sĩ,thi nhân...
E cũng thiên về dạng bán cổ phong hơn,là vì nó viết nhanh .Nhưng thơ em luôn chú trọng sự mượt mà,dù là thuận hay ngược,có đôi khi em hay dùng đối chéo câu,bất đối chi đối,tá tự đối,trung đối....Có một số ít dùng đối chiếu chữ..
Nếu có dịp,em cũng mong được giao lưu với anh.
Trong thơ đường luật cũng rất hay mắc phải lỗi ,phong yêu ,hạc tất...nhưng là lỗi nhỏ.
Thơ đường luật tnđ lại càng dễ mắc phải hơn,tuy kg là lỗi lớn,nhưng nếu khắc phục đc,nó sẽ hoàn hảo hơn nhiều.
E, cũng gửi tạm 1 bài thơ để anh em mình giao lưu,chỉ là giao lưu và tạm gác về luật,niêm,hay chỉnh đối anh nhé.
Thơ em đa phần toàn dạng kiểu này.Mong anh thông cảm và hưởng ứng.

THU ĐỢI
<Lỡ Thu>
<thuận nghịch độc>
1.Hoa gầy nở muộn cúc sầu thương
2.Tiếc nuối vàng Thu trải ngập đường
3.Tha thiết gọi người tìm khuất nẻo
4.Ngẩn ngơ nhìn khói rũ canh trường
5.Xa tình cảnh vọng hiên tràn gió
6.Rụng lá thềm chờ Nguyệt phủ sương
7.Qua lại bước dần thưa ngõ vắng
8.Nhòa mi lệ khẽ rớt môi hường
<nghịch độc>
8.Hường môi rớt khẽ lệ mi nhòa
7.Vắng ngõ thưa dần bước lại qua
6.Sương phủ Nguyệt chờ thềm lá rụng
5Gió tràn hiên vọng cảnh tình xa
4.Trường canh rũ khói nhìn ngơ ngẩn
3.Nẻo khuất tìm người gọi thiết tha
2.Đường ngập trải Thu vàng nuối tiếc
1.Thương sầu Cúc muộn nở gầy hoa

Trong bài này cũng có lỗi!

Lan Hương
28-08-14, 05:04 PM
THU ĐỢI
Tha thiết gọi người tìm giữa nẻo
Ngẩn ngơ trông khói rũ canh trường


giữa nẻo và canh trường hình như chưa đối lắm
Nếu là mình sẽ dùng nẻo khuất hay nẻo vắng

Phù Thủy Jin To
28-08-14, 05:38 PM
giữa nẻo và canh trường hình như chưa đối lắm
Nếu là mình sẽ dùng nẻo khuất hay nẻo vắng

Hì,em tks chị ,chị nói rất phải :)
Em có nói bài này vẫn còn lỗi mà,em biết là dùng nẻo khuất,hay nẻo vắng thì nó sẽ đối với canh trường.
Nhưng em viết chéo đi,vì tránh và hạn chế lỗi phong yêu trong bài chị ạ.
Nếu để nguyên bài xuôi có 1 lỗi phong yêu,ngược cũng có 1 lỗi phong yêu,chữ thứ 2 trùng thanh chữ thứ 7.
Còn Dùng Nẻo Khuất,Nẻo vắng thì đối quá rồi,chỉ tiếc em dùng 2 từ này ở dưới mất rồi :P
Xem ra bài này,cái chỗ chị nêu ra mới là điều đáng nói và bình luận :)
Em tks chị,chúc chị ngày mới vui vẻ ,mạnh khỏe.

Phù Thủy Jin To
28-08-14, 05:55 PM
giữa nẻo và canh trường hình như chưa đối lắm
Nếu là mình sẽ dùng nẻo khuất hay nẻo vắng

Em rất cảm ơn chị,nhờ nhận xét của chị mà em có được cảm hứng mới trong phép đối này.
Em cũng không dám giấu ,bài thơ này ,em dùng rất nhiều sự đối lập,kể cả từ láy,từ ghép đều đẳng lập,tạo sự độc lập với nhau.Và từ đây có sự hoán vị đột phá.
Có thể nói bài thơ này ,chỉ cần một chút nữa thôi,khi nó hoàn hảo,trọn vẹn,có thể hoán vị tối đa cách đọc tách ,kể cả bẻ đôi thành 2 bài tứ tuyệt.
Đa phần tách ra thành dạng cổ phong và em ước lượng số lượng bài tách không dưới 1 vạn bài .
Trong bài này,do kiến thức của em còn khuyết,nên mới chọn và post lên đây mong các anh chị góp ý và kiểm tra giùm.
:infatuated:

Lan Hương
28-08-14, 06:07 PM
Vậy thì dùng nẻo cũ, nẻo lạ hay lối cũ, lối nhỏ, lối hẹp, lối rộng... kiểu thơ này dùng từ gì cũng có nghĩa được