PDA

View Full Version : Những dạng thơ Đường Luật đặc biệt


phale
10-04-21, 02:55 PM
1. HOẠ VẬN:
Một người làm một bài xướng lên,một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại (phản đề), ví dụ:

HỎI Ả BÁN CHIẾU
Xướng:
Ả ở đâu nay bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con
(Nguyễn Trãi)
Họa:
Tôi ở Tây hồ bán chiế u gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ
Chồng còn chưa có, có chi con
(Nguyễn Thị Lộ)

2. THỦ NHẤT THANH (nhất đồng):
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau, ví dụ:

TÁM MỪNG
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi thọ tăng tăng mãi
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa
(Lạc Nam)

3. SONG ĐIỆP:
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ, ví dụ:

CHUYỆN ĐỜI
Vất vất vơ vơ cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không,l o hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi
(Nguyễn Thượng Hiền)

4. SONG ĐIỆP ĐỘC VẬN:
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần, ví dụ:

XUÂN VÀ THƠ
Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Ðẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ
Xuân vắng, oanh hờn, dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ
(Lạc Nam)

5. DĨ ĐỀ VI THỦ:
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ, ví dụ:

GỬI BẠN
Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi
Ðịnh đoạt hơn thua phó mặc trời
Chúng mải công danh, ky cóp chạy
Ta nhìn mây nước nhẹ nhàng trôi
Theo quan, ngán bấy câu chè lá
Về xã, buồn thay cảnh thịt xôi
Lê gậy theo trăng vào quán trọ
Ninh trà,nạp thuốc, chuốc nhau chơi

6. DĨ ĐỀ VI VẬN:
Lấy đầu đề làm vần, ví dụ: Không - Chồng - Trông - Bông - Lông, ví dụ:
Xướng:

Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông
Mua vui lắm lúc cười cười gượng
Giả dại nhiều khi nói nói bông
Mới biết có chồng như có cánh
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông
(Nguyễn Khuyến)

Họa:

Phật rằng sắc sắc không không
Sắc sắc không không khó chất chồng
Ân oán, nhiều người còn có ngóng
Trải oan, lắm kẻ vẫn chờ trông
Thế gian, nhân quả nhanh như bóng
Cõi Phật, nhân duyên nhẹ tựa bông
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi
Luân hồi ra khỏi, hết bông lông
(Cổ Lai Hy)

7. TOÁN THI:
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số, ví dụ:

BÓI SỐ
Ruột rối bòng bong, một lá thuyền
Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên
Người đi nghìn dặm còn thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có kêu thời cũng hão
Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền
Vạn người, ai kẻ chung tâm sự
Hãy triệu giùm tôi chú đỗ quyên
(Bùi Tiến)

8. LIÊN HOÀN:
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới, ví dụ:

THI LẤY ĐƯỢC
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Nam nhi chi chí, há lo gì
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi
Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi
Trượt thi, thi trượt,vẫn gan lì
(Tú Mỡ)

9. LIÊN HOÀN THUẬN NGHỊCH VẬN:
Thể thơ như trên, nhưng bài thứ 2 sắp xếp ngược vần lại với bài thứ nhất, ví dụ:

XEM NÚI NON BỘ
Non nhân,nước trí, điểu muông hiền
Núi giả mà in dáng tự nhiên
Một vũng xinh xinh ,vươn một ngọn
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên
Ðối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền

Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền
Bàn đá say cờ đôi lão tiên
Lã vọng buông câu vờn sóng nước
Phật đài mở lối lượn ven triền
Sơn thanh thủy tú, hồn u nhã
Sắc lộng hương lừng khí hạo nhiên
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền
(Lạc Nam)

10. Ô THƯỚC KIỀU:
Thể thơ liên hoàn như trên,nhưng lấy 2 từ cuối,hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới, ví dụ:

CHỐNG TÔN THỌ TƯỜNG
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mang lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn in tay thợ
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ

Tai ngơ sao đặng lúc tan tành
Luống biết trách người, chẳng trách mình
Ðến thế còn khoe đàng đạo nghĩa
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành
Thân có,ắt danh tua phải có
Khuyên người ái trọng cái thân danh

Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang
Ðốt sáp nên tro lụy chẳng màng
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa
Một nhà danh giá xóa tan hoang
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc
Người khó xăng xăng mới gặp vàng
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang
(Phan Văn Trị)

11. TẬP DANH
a. Mỗi câu có danh từ gắn với đề tài, ví dụ:

MỪNG ÔNG LÃO HÀNG THỊT THƯỢNG THỌ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy (1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Ðầu bạc nhưng mà chửa tắc tai
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
chữ đức giả xương máu để đời
(Nguyễn Khuyến)

Chú thích
(1) Do câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy"
(2) Rót rượu mời người khác uống
(3) Chén rượu của Lý Bạch, nhà thơ uống rượu nổi tiếng
(4) Lão Lai,người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài 70 còn cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui

b. Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người, ví dụ:

HỌC THÒ
Dài lưng tốn vải lại ăn no
Nghĩ ngán cho thân phận học trò
Thù nước,thù vua, ngay mặt chịu
Công sưu, công ích, cắm đầu lo
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng
Còn ngậm lông mèo (1) chả sợ ho
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc
Rung đùi, chỉ nghĩ "tám đùi" (2) to
(Nhì Mỹ)

Chú thích
(1) Ngậm lông mèo: ngậm bút chữ nho
(2) Tám đùi: văn xưa gọi là "bát cổ" dịch là tám vế, vế đồng nghĩa với đùi.

12. TÍNH DANH:
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh Giống như Ðiển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu. Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì như thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến thức, ví dụ:

LỖI THỀ
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Ðường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành (2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương (4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
(Toại Khang)

Chú thích
(1) Kiều trầm mình ở sông Tiền Ðường
(2 Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
(3) Ðường Minh Hoàng - Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành"
(4) Bạch Cư Dị, văn hào đời Ðường, đêm đậu thuyền ở sông Tầm làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát
(5) Chung Tử Kỳ - Bá Nha là 2 bạn tri âm.Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì.Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa.
(6) Trương Quân Thụy-Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên
(7) Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ
(8) Ngưu Lang - Chức nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng 7 Âm lịch

13. SẮC THÁI:
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc, ví dụ:

CHIỀU NỔI MÀU THU
Trời thu bóng ác rực mầu vang
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía
Vườn vắng còn đây nở đóa vàng
Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím
Thì đâu được ngắm nguyệt da cam
(Toại Khang)

14. THỦ VĨ NGÂM:
Câu đầu và câu cuối giống nhau, ví dụ:

KHOE LƯỜI
Anh em chớ bảo ta lười
Làm việc cho hay phải thức thời
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh
Ðông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu
Anh em chớ bảo ta lười
(Tú Mỡ)

15. TRIỆT HẠ
Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa,khiến người đọc phải nghĩ ra, ví dụ:

GÁI HỒNG NHAN
Thấy gái hồng nha bỗng chốc mà . . .
Hõi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
Hình dung yểu điệu in như thể . . .
Diện mạo phương phi ngó tưởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng người ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ước gì ta được mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .
(Nguyễn Quý Tân)

16. YẾT HẬU
Các câu trên đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ, ví dụ:

CHA CON ĐÁNH CỜ
Ánh nắng vừa nghiêng ngọn trúc già
Cha con vui vẻ bày cờ ra
Đồng xanh gió mát trà thơm ngát
Ha!
Không - Một! Xưa nay ai chả lầm
Ván này...Thôi! Hết! Chốt xuyên tâm
Lâng lâng quý tử ngâm thơ luật
R...ầ...m!

Trước ngõ chỏng chơ tướng sĩ bồ
Ngoài sân cao thủ khóc nhi nhô
- Nín ngay! sắp lại cho tao gỡ!
- Dzô!
Nắng đã khuất dần phía núi xa
Cơm canh lên khói đợi trong nhà
Dưới thềm xe ngựa còn rầm rộ
- Chà!
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

17. ÁP CÚ
Từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau, ví dụ:
CHỪA RƯỢU
Những lúc say sưa, cũng muốn chừa
Muốn chừa, nhưng tỉnh lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa
(Nguyễn Khuyến)

18. VĨ TAM THANH
Là thể thơ trong đó ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm, ví dụ:

NGẪU HỨNG
Ta nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Cây một chồi cao von vót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bè lứa kia kìa kỉa
Ong nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe
(Vô Danh)

19. LƯỠNG ĐẦU XÀ NGHỊCH
Là thể thơ trong đó hai chữ cuối câu là cách nói lái của hai chữ đầu câu hay ngược lại, ví dụ:

CAI MÔ CÔ MAI
Cai mô chả thấy hỡ cô Mai
Hồi bút hôm qua, nay hút bồi
Niếu đổ tường che vang nổ điếu
Thôi liên, cù cứa, hẹn Thiên Lôi
Vái sơ ông Địa cho vơ sái
Ngồi ráp bàn tiên lại ngáp rồi
Tánh thích đi tìm bao tích thánh
Đồi thanh, cảnh phật cũng đành thôi
(Chu Hà)

20. THUẬN NGHỊCH ĐỘC
Là thể thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược đều có ý nghĩa và hợp vận, ví dụ:

Đọc xuôi:
Xa cách quê làng lại ghé thăm
Xác xơ vàng úa cỏ nghiêng nằm
Nhà hiên mái dột Bìm giăng kín
Ngỏ trước thềm loang Dậu phủ dăm
Tha thướt bóng Dừa hàng nối thẳng
Ngã nghiêng cành Trúc dãy liền tâm
Tà chiều quyện khói mờ thôn xóm
Xa vọng khoan hò ai hát ngâm …

Đọc ngược:
Ngâm hát ai hò khoan vọng xa
Xóm thôn mờ khói quyện chiều tà
Tâm liền dãy Trúc cành nghiêng ngã
Thẳng nối hàng Dừa bóng thươ’t tha
Dăm phủ Dậu loang thềm trước ngỏ
Ki’n giăng Bìm dột mái hiên nhà
Nằm nghiêng cỏ úa vàng xơ xác
Thăm ghé lại làng quê cách xa …
(Trường Tương Tư)

Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ ngôn bát cú . Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu hoặc cuối nữa, sẽ có những bài Tứ ngôn bát cú hoặc Tam ngôn bát cú... Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát cú. Đó là điểm độc đáo của dạng Thuận nghịch.

21. NGŨ ĐỘ THANH

Đường luật Ngũ độ thanh là một dạng thơ được kết hợp nhạc tính của thời kỳ Nhạc phủ (Nhạc phủ nguyên là tên gọi cơ quan âm nhạc do Hán Vũ Đế (ở ngôi: 141 tr. CN – 87) lập nên và phong cho Lý Diên Niên chức Hiệp luật đô úy, để làm nhiệm vụ thu thập ca dao và thơ để phổ nhạc. Bài nào được chọn thì gọi là "nhạc phủ khúc", hoặc "thơ nhạc phủ", sau gọi vắn tắt là "nhạc phủ") với thi luật thời Đường. Dạng thơ này là cách sắp xếp các thanh làm sao cho nó hài hòa và có âm bổng trầm khác nhau.
Khi làm thơ Ngũ độ thanh phải vận dụng từ ngữ để sắp xếp làm sao mỗi câu thất ngôn có đủ 5 thanh dấu. Mỗi câu thơ thất ngôn có 4 thanh Bằng, 3 thanh Trắc hoặc 4 thanh Trắc, 3 thanh Bằng, trong đó:
Câu thất ngôn có 4 thanh Bằng, 3 thanh Trắc thì:
+ 2 thanh Bằng có cùng dấu (thanh Không hoặc thanh Huyền) không được đứng liền kề nhau;
+ 3 thanh Trắc thì tùy nghi mà sắp xếp Sắc – Hỏi – Ngã – Nặng sao cho phù hợp với câu thơ.
Câu thất ngôn có 4 thanh Trắc, 3 thanh Bằng thì:
+ 4 thanh Trắc phải đầy đủ 4 thanh dấu Sắc – Hỏi – Ngã – Nặng;
+ 3 thanh Bằng thì 2 thanh có cùng dấu (thanh Không hoặc thanh Huyền) không được đứng liền kề nhau.

Theo những quy định trên có thể rút ra kết luận vể thơ Đường luật Ngũ độ thanh:
1. Chỉ dùng chính luật (chỉ theo lối phân minh, không theo lối bất luận);
2. Trong mỗi câu phải chứa ít nhất 5 dấu thanh;
3. Câu có 4 thanh Trắc phải dùng đủ các dấu thanh Sắc - Nặng - Hỏi - Ngã (không được lặp lại dấu);
4. Hai thanh Bằng cùng dấu (thanh Không và thanh Huyền) không được đứng liền kề nhau
Ngoài ra, một số tài liệu còn dẫn thêm ra quy định sau (chưa kiểm chứng):
1. Các thanh Bằng ở tiếng thứ 2 và 4 không cùng dấu (thanh Không hoặc thanh Huyền) với tiếng thú 7;
2. Các thanh Bằng ở tiếng thứ 2 và 4 không cùng vần với tiếng thú 7.
* Ưu điểm và hạn chế của Thơ Đường luật Ngũ độ thanh:
- Tránh được các lỗi bệnh. Tuy nhiên, chỉ tránh được một số lỗi bệnh như: phong yêu, hạc tất, tiểu vận, đại vận, điệp thanh..., những lỗi bệnh khác vẫn có thể mắc phải.
- Câu thơ có âm điệu du dương trầm bồng. Điều này còn tuỳ thuộc vào cách sắp xếp câu chữ, tuy trong câu có đủ 5 dấu thanh nhưng để cho được hay còn phụ thuộc vào trật tự sắp xếp, đặc biệt là cách sử dụng bộ vần.
- Nếu không khéo sử dụng, câu thơ sẽ bị tối nghĩa do phải dùng từ ngữ đúng thanh độ mà bỏ đi từ ngữ hay, lột tả chính xác nội dung cần thể hiện.

(St)