phale
13-07-10, 06:29 AM
Chưa có trong một tác phẩm văn chương nào của Việt Nam mà âm nhạc được nhắc đến nhiều như trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Khi muốn mạn đàm về âm nhạc trong truyện Kiều, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi như sau:
Câu hỏi thứ nhứt: Thúy Kiều dùng cây đàn ǵ?
Những họa sĩ thiết kế trang b́a thường vẽ Thúy Kiều ôm cây đàn T́ bà. Riêng tôi, tôi đă trả lời câu hỏi này từ lâu, đă có in ra bằng Pháp ngữ và Việt ngữ những tiểu luận về cây đàn ấy và đă khẳng định rằng Thúy Kiều không đàn cây T́ bà như phần đông các họa sĩ đă vẽ. Cây đàn trong tay Thuư Kiều vừa có thùng đàn tṛn như mặt trăng: “Trên hiên treo sẵn cầm trăng”; Cây đàn ấy lại có bốn dây “Bốn dây to nhỏ nên vần cung thương”. Cây đàn đó phải là một loại với Hồ cầm “Nghề riêng ăn đứt, Hồ cầm một chương”. Sau khi xem trong sách Thích danh và Tự điển Từ Nguyên - Từ Hải th́ chỉ có ba cây đàn thuộc về T́ Bà loại: tứ huyền T́ bà, ngũ huyền T́ bà và Nguyễn T́ bà. Ba cây đàn ấy đều có thể được gọi là Hồ cấm. Nhưng hai cây đầu th́ thùng đàn h́nh bầu dục chỉ có cây Nguyễn T́ bà tên thật là Nguyễn cầm do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra. Đàn có thùng h́nh tṛn như mặt trăng, có bốn dây, cần dài hơn Nguyệt cầm của Trung Quốc, hiện đă thất truyền tại Trung Quốc, chỉ c̣n h́nh vẽ của Nguyễn cầm trong động Đôn Hoàng và một cây đàn nguyên bản trong Bảo tàng viện Shosoin tại Nara, Nhựt Bổn. Chúng ta cũng không thể nói đó là cây đàn nguyệt v́ chữ Hán gọi là “Yue Qin” tức Nguyệt cầm th́ thùng đàn tṛn mà cần đàn rất ngắn thường ở trong tay người bán hàng rong chứ người quí tộc không sử dụng Yue Qin. Tiếng Việt đàn Nguyệt cầm ngày nay gọi là đàn Nguyệt dưới thời cụ Nguyễn Du không được gọi là Nguyệt cầm mà mang tên đàn Song Vận. Điều này phỏng theo tư liệu đă in trong quyển “Đại Thanh hội điển sự lệ”, sử gia Trung Quốc có chép lại tên các cây đàn của dàn nhạc An Nam quốc nhạc, là một trong chín dàn nhạc của nước ngoài có mặt tại triều nhà Thanh tức là một thời đại với Nguyễn Du.
Vậy cây đàn Thúy Kiều sử dụng phải là Nguyễn cầm. Cụ Nguyễn Du có lẽ thích cây đàn Nguyễn cầm nên để nó trong tay Thuư Kiều và cả một người danh cầm khác ở làng Long Thành trong bài viết bằng chữ Hán có mấy câu:
“ Long Thành cầm giả ca ....
Độc thiện Nguyễn cầm ...”
Có nghĩa là một người ca nhi biết đờn Cầm ở làng Long Thành, chuyên đời rất hay cây Nguyễn cầm.
Câu hỏi thứ hai: Trong cả truyện, Kiều đă đàn bao nhiêu lần, đàn cho ai nghe và trong dịp nào?
Kể cả những lần Nguyễn Du chỉ nói phớt qua th́ Thuư Kiều đàn tất cả tám lần.
+ Lần thứ nhứt, Kiều đàn cho Kim Trọng nghe khi gặp gỡ lần đầu. Kim Trọng tự tay lấy cây đàn “Cầm trăng”, dâng đàn lên ngang mày và yêu cầu Thúy Kiều đàn cho ḿnh nghe v́ đă biết tiếng Thúy Kiều là một danh cầm. Lần này, tác giả đă dùng tới hai mươi tám câu thơ (từ câu 463 đến câu 490).
Rằng nghe nỗi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Thưa rằng: “Tiện kỹ sá chi
Đă ḷng dạy đến, dạy th́ phải vâng”
Hiên say treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đă tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: “Nghề mọn riêng tay
Làm chi cho bận ḷng nầy lắm thân!”
So lần dây Vũ dây Văn
Bốn dây to nhỏ theo vần Cung, Thương.
Khúc đau Hán Sở chiến trường
Nghe ra, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc dâu Tư Mă Phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng !
Kê Khang, nầy khúc Quảng lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.
Quá quan, nầy khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiêng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi ṿ chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: “Hay th́ thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
+ Lần thứ nh́, khi Mă Giám Sinh đến làm trung gian lấy ba trăm lạng bạc mà chuộc tội cho Vương Ông, đă gạt Thúy Kiều bắt nàng phải đàn cho ḿnh nghe và gầy cuộc trăng hoa (câu 640: “Ép câu cầm nguyệt thử bài quạt thơ”)
+ Lần thứ ba, Kiều bị bắt buộc phải đàn khi tiếp khách trong lầu xanh (câu 1246: “Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”).
+ Lần thứ tư, sau khi gặp Thúc Sinh trong lầu xanh, một hôm Kiều có đàn cho Thúc Sinh nghe (câu 1298: “Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”).
+ Lần thứ năm, khi Hoạn Thơ biết chồng ḿnh là Thúc Sinh đă dan díu với một khách làng chơi là Thúy Kiều th́ t́m cách bắt nàng về nhà hành hạ như một hoa nô. Khi biết Thúy Kiều có tiếng đàn hay, một hôm, Hoạn Thơ bảo Thúy Kiều đàn cho ḿnh nghe (câu 1777 đến 1780).
Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót dễ say ḷng người.
Sau khi nghe Thúy Kiều “lên dây nắn phím” th́ Hoạn Thơ cũng có chút thương tài mà đối đăi bớt phần nghiêm khắc.
+ Lần thứ sáu, khi Thúc Sinh về nhà, Hoạn Thơ chẳng những bắt Thúy Kiều dâng rượu để “làm cho nh́n chẳng được nhau”, lại c̣n bắt nàng đàn cho Thúc sinh nghe (câu 1850 đến 1862).
“...Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”
Nàng đà tán hón tê mê
Vâng lời ra trước b́nh the vặn đàn;
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát ḷng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Giọt châu lả chả khôn cầm
Cúi đậu chàng những gạt thầm giọt Tương
Tiểu thư lại thét lấy nàng
“ Cuộc vui gây khúc đoạn trường ấy chi?
Sao chẳng biết ư tứ ǵ?
Cho chàng buồn bă tội th́ tại ngươi”
+ Lần thứ bảy, khi Hồ Tôn Hiến gạt Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, phục binh bất ngờ xuất hiện. Từ Hải mặc dầu vơ dơng nhưng “mănh hổ nan địch quần hồ” nên đă bị tử trận và chết đứng. Sau khi đó, Hồ Tôn Hiến đă bắt Thúy Kiều dâng rượu và ép nàng phải đàn cho ḿnh nghe (câu 2567 đến 2578).
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hó nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán ngh́n sầu lắm thay!”
Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc nầy
Phổ vào đàn ấy những ngày c̣n thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây”
+ Lần thứ tám, đàn cho Kim Trọng nghe lúc tái ngộ, đoàn viên (từ câu 3197 đến 3206).
Phím đàn d́u dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ắm dương hoà
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân t́nh
Ấy hồn Thục đế hay ḿnh Đỗ Quyên
Trong sau châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng năo nùng xôn xao.
Khi xem qua tám lần ấy, chúng ta thấy rằng Thúy Kiều chưa lần nào tự nguyện mà đàn. Đối với Từ Hải, người đă giúp cho Kiều báo ân, báo oán, nàng chưa một lần nào đàn cho chàng nghe. Lần quan trọng nhứt là lần đầu khi Kiều đàn cho Kim Trọng theo lời yêu cầu của chàng, tác giả tả rành mạch tiếng đàn và kể tên cả những bản đă đàn.
Câu hỏi thứ ba: Thúy Kiều đă đàn những bản ǵ?
Bản đàn được nhắc đầu tiên mang tên “Bạc mệnh” (câu 34: “Một thiên bạc mệnh lại càng năo nhân”). Thúy Kiều đă soạn bài đó nhưng khi đàn lần đầu cho Kim Trọng nghe lại không dùng bài đó mà chỉ đàn khi bắt buộc phải đàn cho Hồ Tôn Hiến (câu 2575 đến 2578).
Lúc gặp Kim Trọng lần đầu, bản đàn của Thúy Kiều biểu diễn được Nguyễn Du mô tả bằng câu thơ: “Khúc đâu Hán Sở chiến trường” nhưng ngang qua đó, chúng ta có thể đoán được tên những bản đàn T́ bà Trung Quốc được nổi tiếng đến bây giờ mà Thuư Kiều đă đàn.
Sách Sử kư có ghi lại rằng dưới đời Tần, Lưu Bang và Hạng Vơ cùng nhau đánh vua Tần. Khi thắng trận, Hạng Vơ tự xưng ḿnh là Tây Sở Bá vương c̣n Lưu Bang trở thành Hán vương. Hai nước Hán và Sở đều muốn mở rộng bờ cơi nên có sự giao tranh. Trong một trận lớn Sở Bá vương bị vây trong thành Cát Hạ th́ lúc đó muốn thoát khỏi ṿng vây phải cởi giáp nặng nề để phi ngựa ra khỏi chiến trường. Trong những bài bản cổ điển cho đàn T́ Bà có hai loại:
+ Văn khúc gồm những bài tả cảnh, tả t́nh nét nhạc êm dịu, tiết tấu ḥa hoăn như loại bài “Dương xuân bạch tuyết”, tả cảnh mùa xuân ấm áp khi tuyết vừa tan; hay bài “Xuân giang hoa nguyệt dạ” tả cảnh một đêm trăng đi thuyền trên sông, trên trăng dưới nước dọc hai bên bờ có hoa nở đầy cành.
+ Vũ khúc gồm những bài tả lại không khí, khung cảnh của chiến trường như bản “Bá vương xả giáp” tả lúc vua nước Sở cởi giáp để thoát nạn phá được ṿng vây đầy gian lao khổ cực v́ đi đến cửa nào cũng bị đoàn Hán quân mai phục trong bản “Thập diện mai phục” vượt ra khỏi chiến trường đến sông Ô th́ đâm ḿnh để tự tử.
Do đó mà chúng ta có thể nghĩ rằng bản nhạc Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe có lẽ thuộc về loại vũ khúc đó. Đặc biệt nhứt trong bài “Thập diện mai phục” từ chương ba đến sau có nhiều đoạn ngón tay giữa của bàn tay trái phải chen vào các dây làm cho tiếng đàn khảy không phát ra các âm có độ cao nhứt định mà nghe như tiếng gươm giáo chạm vào nhau. Nguyễn Du chẳng có câu: “Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau”. V́ vậy bản đàn Thúy Kiều đàn chỉ có thể là “Thập diện mai phục”.
Câu hỏi thứ nhứt: Thúy Kiều dùng cây đàn ǵ?
Những họa sĩ thiết kế trang b́a thường vẽ Thúy Kiều ôm cây đàn T́ bà. Riêng tôi, tôi đă trả lời câu hỏi này từ lâu, đă có in ra bằng Pháp ngữ và Việt ngữ những tiểu luận về cây đàn ấy và đă khẳng định rằng Thúy Kiều không đàn cây T́ bà như phần đông các họa sĩ đă vẽ. Cây đàn trong tay Thuư Kiều vừa có thùng đàn tṛn như mặt trăng: “Trên hiên treo sẵn cầm trăng”; Cây đàn ấy lại có bốn dây “Bốn dây to nhỏ nên vần cung thương”. Cây đàn đó phải là một loại với Hồ cầm “Nghề riêng ăn đứt, Hồ cầm một chương”. Sau khi xem trong sách Thích danh và Tự điển Từ Nguyên - Từ Hải th́ chỉ có ba cây đàn thuộc về T́ Bà loại: tứ huyền T́ bà, ngũ huyền T́ bà và Nguyễn T́ bà. Ba cây đàn ấy đều có thể được gọi là Hồ cấm. Nhưng hai cây đầu th́ thùng đàn h́nh bầu dục chỉ có cây Nguyễn T́ bà tên thật là Nguyễn cầm do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra. Đàn có thùng h́nh tṛn như mặt trăng, có bốn dây, cần dài hơn Nguyệt cầm của Trung Quốc, hiện đă thất truyền tại Trung Quốc, chỉ c̣n h́nh vẽ của Nguyễn cầm trong động Đôn Hoàng và một cây đàn nguyên bản trong Bảo tàng viện Shosoin tại Nara, Nhựt Bổn. Chúng ta cũng không thể nói đó là cây đàn nguyệt v́ chữ Hán gọi là “Yue Qin” tức Nguyệt cầm th́ thùng đàn tṛn mà cần đàn rất ngắn thường ở trong tay người bán hàng rong chứ người quí tộc không sử dụng Yue Qin. Tiếng Việt đàn Nguyệt cầm ngày nay gọi là đàn Nguyệt dưới thời cụ Nguyễn Du không được gọi là Nguyệt cầm mà mang tên đàn Song Vận. Điều này phỏng theo tư liệu đă in trong quyển “Đại Thanh hội điển sự lệ”, sử gia Trung Quốc có chép lại tên các cây đàn của dàn nhạc An Nam quốc nhạc, là một trong chín dàn nhạc của nước ngoài có mặt tại triều nhà Thanh tức là một thời đại với Nguyễn Du.
Vậy cây đàn Thúy Kiều sử dụng phải là Nguyễn cầm. Cụ Nguyễn Du có lẽ thích cây đàn Nguyễn cầm nên để nó trong tay Thuư Kiều và cả một người danh cầm khác ở làng Long Thành trong bài viết bằng chữ Hán có mấy câu:
“ Long Thành cầm giả ca ....
Độc thiện Nguyễn cầm ...”
Có nghĩa là một người ca nhi biết đờn Cầm ở làng Long Thành, chuyên đời rất hay cây Nguyễn cầm.
Câu hỏi thứ hai: Trong cả truyện, Kiều đă đàn bao nhiêu lần, đàn cho ai nghe và trong dịp nào?
Kể cả những lần Nguyễn Du chỉ nói phớt qua th́ Thuư Kiều đàn tất cả tám lần.
+ Lần thứ nhứt, Kiều đàn cho Kim Trọng nghe khi gặp gỡ lần đầu. Kim Trọng tự tay lấy cây đàn “Cầm trăng”, dâng đàn lên ngang mày và yêu cầu Thúy Kiều đàn cho ḿnh nghe v́ đă biết tiếng Thúy Kiều là một danh cầm. Lần này, tác giả đă dùng tới hai mươi tám câu thơ (từ câu 463 đến câu 490).
Rằng nghe nỗi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Thưa rằng: “Tiện kỹ sá chi
Đă ḷng dạy đến, dạy th́ phải vâng”
Hiên say treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đă tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: “Nghề mọn riêng tay
Làm chi cho bận ḷng nầy lắm thân!”
So lần dây Vũ dây Văn
Bốn dây to nhỏ theo vần Cung, Thương.
Khúc đau Hán Sở chiến trường
Nghe ra, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc dâu Tư Mă Phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng !
Kê Khang, nầy khúc Quảng lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.
Quá quan, nầy khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiêng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi ṿ chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: “Hay th́ thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
+ Lần thứ nh́, khi Mă Giám Sinh đến làm trung gian lấy ba trăm lạng bạc mà chuộc tội cho Vương Ông, đă gạt Thúy Kiều bắt nàng phải đàn cho ḿnh nghe và gầy cuộc trăng hoa (câu 640: “Ép câu cầm nguyệt thử bài quạt thơ”)
+ Lần thứ ba, Kiều bị bắt buộc phải đàn khi tiếp khách trong lầu xanh (câu 1246: “Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”).
+ Lần thứ tư, sau khi gặp Thúc Sinh trong lầu xanh, một hôm Kiều có đàn cho Thúc Sinh nghe (câu 1298: “Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”).
+ Lần thứ năm, khi Hoạn Thơ biết chồng ḿnh là Thúc Sinh đă dan díu với một khách làng chơi là Thúy Kiều th́ t́m cách bắt nàng về nhà hành hạ như một hoa nô. Khi biết Thúy Kiều có tiếng đàn hay, một hôm, Hoạn Thơ bảo Thúy Kiều đàn cho ḿnh nghe (câu 1777 đến 1780).
Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót dễ say ḷng người.
Sau khi nghe Thúy Kiều “lên dây nắn phím” th́ Hoạn Thơ cũng có chút thương tài mà đối đăi bớt phần nghiêm khắc.
+ Lần thứ sáu, khi Thúc Sinh về nhà, Hoạn Thơ chẳng những bắt Thúy Kiều dâng rượu để “làm cho nh́n chẳng được nhau”, lại c̣n bắt nàng đàn cho Thúc sinh nghe (câu 1850 đến 1862).
“...Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”
Nàng đà tán hón tê mê
Vâng lời ra trước b́nh the vặn đàn;
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát ḷng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Giọt châu lả chả khôn cầm
Cúi đậu chàng những gạt thầm giọt Tương
Tiểu thư lại thét lấy nàng
“ Cuộc vui gây khúc đoạn trường ấy chi?
Sao chẳng biết ư tứ ǵ?
Cho chàng buồn bă tội th́ tại ngươi”
+ Lần thứ bảy, khi Hồ Tôn Hiến gạt Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, phục binh bất ngờ xuất hiện. Từ Hải mặc dầu vơ dơng nhưng “mănh hổ nan địch quần hồ” nên đă bị tử trận và chết đứng. Sau khi đó, Hồ Tôn Hiến đă bắt Thúy Kiều dâng rượu và ép nàng phải đàn cho ḿnh nghe (câu 2567 đến 2578).
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hó nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán ngh́n sầu lắm thay!”
Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc nầy
Phổ vào đàn ấy những ngày c̣n thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây”
+ Lần thứ tám, đàn cho Kim Trọng nghe lúc tái ngộ, đoàn viên (từ câu 3197 đến 3206).
Phím đàn d́u dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ắm dương hoà
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân t́nh
Ấy hồn Thục đế hay ḿnh Đỗ Quyên
Trong sau châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng năo nùng xôn xao.
Khi xem qua tám lần ấy, chúng ta thấy rằng Thúy Kiều chưa lần nào tự nguyện mà đàn. Đối với Từ Hải, người đă giúp cho Kiều báo ân, báo oán, nàng chưa một lần nào đàn cho chàng nghe. Lần quan trọng nhứt là lần đầu khi Kiều đàn cho Kim Trọng theo lời yêu cầu của chàng, tác giả tả rành mạch tiếng đàn và kể tên cả những bản đă đàn.
Câu hỏi thứ ba: Thúy Kiều đă đàn những bản ǵ?
Bản đàn được nhắc đầu tiên mang tên “Bạc mệnh” (câu 34: “Một thiên bạc mệnh lại càng năo nhân”). Thúy Kiều đă soạn bài đó nhưng khi đàn lần đầu cho Kim Trọng nghe lại không dùng bài đó mà chỉ đàn khi bắt buộc phải đàn cho Hồ Tôn Hiến (câu 2575 đến 2578).
Lúc gặp Kim Trọng lần đầu, bản đàn của Thúy Kiều biểu diễn được Nguyễn Du mô tả bằng câu thơ: “Khúc đâu Hán Sở chiến trường” nhưng ngang qua đó, chúng ta có thể đoán được tên những bản đàn T́ bà Trung Quốc được nổi tiếng đến bây giờ mà Thuư Kiều đă đàn.
Sách Sử kư có ghi lại rằng dưới đời Tần, Lưu Bang và Hạng Vơ cùng nhau đánh vua Tần. Khi thắng trận, Hạng Vơ tự xưng ḿnh là Tây Sở Bá vương c̣n Lưu Bang trở thành Hán vương. Hai nước Hán và Sở đều muốn mở rộng bờ cơi nên có sự giao tranh. Trong một trận lớn Sở Bá vương bị vây trong thành Cát Hạ th́ lúc đó muốn thoát khỏi ṿng vây phải cởi giáp nặng nề để phi ngựa ra khỏi chiến trường. Trong những bài bản cổ điển cho đàn T́ Bà có hai loại:
+ Văn khúc gồm những bài tả cảnh, tả t́nh nét nhạc êm dịu, tiết tấu ḥa hoăn như loại bài “Dương xuân bạch tuyết”, tả cảnh mùa xuân ấm áp khi tuyết vừa tan; hay bài “Xuân giang hoa nguyệt dạ” tả cảnh một đêm trăng đi thuyền trên sông, trên trăng dưới nước dọc hai bên bờ có hoa nở đầy cành.
+ Vũ khúc gồm những bài tả lại không khí, khung cảnh của chiến trường như bản “Bá vương xả giáp” tả lúc vua nước Sở cởi giáp để thoát nạn phá được ṿng vây đầy gian lao khổ cực v́ đi đến cửa nào cũng bị đoàn Hán quân mai phục trong bản “Thập diện mai phục” vượt ra khỏi chiến trường đến sông Ô th́ đâm ḿnh để tự tử.
Do đó mà chúng ta có thể nghĩ rằng bản nhạc Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe có lẽ thuộc về loại vũ khúc đó. Đặc biệt nhứt trong bài “Thập diện mai phục” từ chương ba đến sau có nhiều đoạn ngón tay giữa của bàn tay trái phải chen vào các dây làm cho tiếng đàn khảy không phát ra các âm có độ cao nhứt định mà nghe như tiếng gươm giáo chạm vào nhau. Nguyễn Du chẳng có câu: “Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau”. V́ vậy bản đàn Thúy Kiều đàn chỉ có thể là “Thập diện mai phục”.