Nguyễn Công Trứ (1778–1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Tiểu sử
Nguyễn Công Trứ quê ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở c̣n hàn vi ông đă nuôi lư tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:
Đă mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh ǵ với núi sông.
Năm 1820 khi đă 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.
Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần v́ những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 c̣n bị cách tuột làm lính thú v.v.
Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doăn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - vơ song toàn đă đóng góp nhiều công lao cho đất nước.
Sự nghiệp
Quân sự
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đă xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1825 dẹp Khởi nghĩa Lê Văn Lương, 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nùng Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi Pháp tấn công Đà Nẵng, th́ ông đă 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
Kinh tế
Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh B́nh ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái B́nh ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xă thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay c̣n rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông.
Thơ ca
Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân t́nh thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.
Thế thái nhân t́nh gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy
Hay:
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan th́ cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:
Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đă sa xuống thấp lại lên cao.
Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái ǵ cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa t́nh. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng ḅ. Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:
Năm mươi năm trước, anh hai ba
Ngay lúc chua chát nh́n lại đời ḿnh, ông vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét th́ trèo với thông
Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính b́nh dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lư nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lơi.
( nguồn
http://thovietnam.avn.vn)