Xem bài viết riêng lẻ
  #5  
Cũ 30-03-11, 10:59 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.797
Thanks: 45.828
Thanked 83.810 Times in 21.712 Posts
Mặc định

Chương 5


Năm 1942, biên giới Nam Tư – Bungari được mở thông. Những người từ Petritrơ và từ xa hơn nữa cùng nhau tới gặp Vanga. Ai cũng muốn Vanga nói trước cho về số phận của ḿnh, của người thân và gia đ́nh. Những người bệnh đến đây hy vọng được bà chữa lành.

Một lần có một số người lính thuộc trung đoàn II, quân đội Bungari tới gặp bà. Trong số họ có anh lính Đimitơrơ Guserôp, 23 tuổi, người làng Krưngllise. Anh chỉ muốn gặp chính Vanga để hỏi về cái tương lai chẳng hứa hẹn điều ǵ sáng sủa của ḿnh. Người anh trai của anh là một nhà buôn vừa bị giết và cướp sách cả hàng hoá, để lại một mẹ già, một người vợ bị bệnh ho lao và ba đứa con thơ.

Đimitơrơ ngần ngừ ngoài sân chưa dám vào ngay. Bỗng Vanga từ trong nhà bước ra và gọi đúng tên anh, rồi nói: “Tôi biết v́ sao anh tới đấy. Anh muốn biết tên những kẻ đă giết anh trai của anh. Có thể tôi sẽ cho anh biết, nhưng anh phải hứa trước với tôi là anh sẽ không trả hận. Anh sẽ sống và trở thành người làm chứng tội ác của chúng tại mỗi phiên toà”.

Vanga không cho phép ai trả thù. Bà tin tưởng vững chắc rằng con người chỉ được hoặc hướng tới điều thiện, bởi điều ác, trong đó có cả sự trả thù sẽ bị trừng phạt, và sự trừng phạt đó nó thường rất nặng nề và nếu không rơi lên đầu người trả thù th́ cũng rơi lên đầu hậu thế của anh ta. Tôi thường hỏi bà tại sao lại có sự không công bằng như vậy, bà luôn trả lời: “Để cho đau hơn”. Tôi không thể hiểu ư nghĩa những lời nói này của bà.

Tôi c̣n nhớ một trường hợp như thế này. Mấy năm trước có một người nông dân tới gặp Vanga. Gia đ́nh ông sinh tất cả 13 đứa con, nhưng tất cả đều chết khi c̣n nhỏ, đứa thứ 13 chết khi vừa 12 tuổi. Bác sĩ giải thích: rằng chính nguyên nhân những cái chết đó v́ bà truyền vi trùng lao cho con ḿnh, nhưng Vanga giải thích khác. Bà nhắc lại cho vị khách chuyện ngày xưa ông ta đă quá thẹn thùng v́ bà mẹ ḿnh già c̣n có mang nên đă lăng mạ bà rất nặng. Ông ta hối không kịp nữa: cả mẹ và cả em ông ta đều chết. Điều đó xảy ra lâu lắm rồi, người kia đă quên, nhưng Vanga th́ không quên. Bà lập tức hiểu ngay tại sao thiên nhiên lại nặng tay đến như vậy đối với gia đ́nh ông ta.

Nhưng chúng ta hăy quay lại với người lính trẻ. Khi ấy ở Xtrumitse, việc Vanga gọi đúng tên và nói đúng mối bận tâm của Đimitơrơ làm anh khinh hoàng đến nỗi không nhớ ḿnh đă ra khỏi nhà Vanga như thế nào. Sau đó anh quay lại nhà Vanga nhiều lần nữa và lần nào họ cũng nói chuyện tay đôi với nhau rất lâu trong căn pḥng của Vanga.

Vào giữa tháng tư, Vanga nói với em gái là Đimitơrơ đă ngỏ lời cầu hôn với cô và sắp tới họ sẽ chuyển sang sống ở Pêtritrơ.

Thời gian này, mấy em trai của Vanga cũng không có nhà. Vaxin vào lính và đóng tại Đupnitse c̣n Tôm bị lùa sang Đức lao động khổ sai.

Sáng ngày 22 tháng 4, một chiếc xe ngựa dừng trước cửa nhà Vanga. Anh chành Đimitơrơ hồi hộp nhảy xuống. Tin mừng lan nhanh khắp hàng xóm và mọi người đến để chia tay với cô gái tiên tri. Nhiều người thậm chí trách Vanga là can tâm dời quê hương xứ sở. Vanga không để tâm những lời này v́ chuyến đi này chính là chia tay với cuộc sống đầy tủi cực của đời thiếu nữ. Tuy tương lai cũng rất mù mịt nhưng cô vẫn hy vọng là những ngày tương sáng đang ở phía trước.

Của hồi môn của cô dâu chỉ mang tính chất tượng trưng. Trên vai của Vanga vắt một chiếc khăn quàng lụa màu đỏ do cô tự may lấy và cô mang theo ḿnh một cái chảo và một cái bi đông bằng đồng để làm vật kỷ niệm về ngôi nhà của bố mẹ. Đó là toàn bộ đồ đạc của cô. Liupka ngồi cạnh chị và ngoái đầu như nh́n lại lần cuối cùng ngôi nhà nhỏ bé của họ.

Chiều ngày hôm đó, họ về tới Petritrơ. Họ đứng trước một ngôi nhà nát không thể gọi là nhà ở được nữa. Từ các khung cửa sổ nhàbên cạnh, những đôi mắt mở to ṭ ṃ nh́n họ. Một số người bước ra đường, một vài cô nào đó thể hiện sự ngạc nhiên của ḿnh thành lời: “Làm sao một người mù lại có thể làm bà chủ được, mắt mũi thế kia th́ c̣n làm với ăn ǵ được”. Nhưng Vanga không để tâm những lời nói như vậy.

Họ bước vào hành lang dài bẩn và tối, hai bên là hai căn pḥng nhỏ. Sau này một căn trở thành pḥng ngủ c̣n một căn th́ Vanga ngồi tiếp khách khứa.

Ở phía sau c̣n có một căn pḥng nữa, sau mới được dựng lên. Liupka nhớ lại, trong có một số tấm phản gỗ trên để một tấm nệm, gối là các túi vải trong nhồi bẹ ngô. Đó là giường ngủ của bà lăo Magdalena bảy mươi tuổi – mẹ của chàng rể với ba đứa cháu con của người anh trai bị giết và thêm hai đứa cháu con một người anh khác nữa. Lại thêm một người con dâu bị bệnh ho lao. Sự bần cùng thấy rơ khắp nơi.

Như vậy Vanga đă đổi được cuộc sống đói khổ lấy một cuộc sống khác cũng không kém đói khổ và khó khăn hơn.

Ngày 10 tháng 5 năm 1942, Vanga chính thức kết hôn cùng Đimitơrơ và bắt đầu chăm lo đến cuộc sống gia đ́nh. Người đàn bà trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Bà lăo Magdalena không hài ḷng với sự lựa chọn của con trai ḿnh và thậm chí c̣n nói: “Chẳng lẽ số phận mày nó lại như vậy”. Có lẽ bà hy vọng con trai sẽ t́m một cô vợ lực điền khoẻ mạnh để cứu cái gia đ́nh đông người toàn người già, người ốm và con nít này. Vanga im lặng nhẫn nhục chịu đựng và nhanh chóng chứng tỏ với những người c̣n hoài nghi những ǵ cô có thể làm được. Cùng với Liupka, Vanga thu dọn, lau chùi nhà cửa, sửa sang, quét lại vôi tường và chẳng bao lâu, ngôi nhà đă sáng sủa hẳn lên. Vanga không cho những người dân trong làng đến biến cái sân nhà ḿnh thàng cái chợ để mua bán nữa và sắp xếp nó lại. Thấy rơ là ngôi nhà có một bà chủ biết thu vén.

Gia đ́nh họ sống như những gia đ́nh khác thời chiến tranh. Nhưng điều đó tiếp diễn không được lâu. Tiếng đồn về tài tiên tri của Vanga nhanh chóng lan xa, ḍng người lại đổ về nhà Vanga. Đimitơrơ không hài ḷng về chuyện này. anh nghĩ là giờ đây Vanga phải từ bỏ việc tiên đoán để giành toàn bộ thời gian cho gia đ́nh. Do rất tôn trọng Vanga, anh cảm thấy rất khổ tâm khi ḿnh không có khả năng nuôi được gia đ́nh. Vanga cũng rất yêu chồng nhưnh cô cho rằng sứ mạng của ḿnh là phục vụ mọi người và cái sứ mạng đó c̣n lớn lao hơn những nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đ́nh, thậm chí cô c̣n thấy cuộc sống riêng của ḿnh cũng phải ǵnh cho người khác.

Ḍng người đổ đến nhà Vanga lo âu mệt mỏi những với những tia hy vọng trong ánh mắt.

Trong những năm tháng ấy, rất nhiều thanh niên Bungari chiến đấu chống lại bọn phát xít trong các dội du kích. Những người thân của họ thường t́m đến Vanga hy vọng nghe được những tin tức về họ. Bọn cảnh sát cũng biết được điều đó. Hai viên cảnh sát Xugurôps và Ladadốp hầu như ngày nào cũng đến nhà Vanga, tung ra những lời đe doạ, bắt Vanga phải khai ra những ǵ đă nói với thân nhân của những “kẻ thù của chính quyền”. Nhưng Vanga đă im lặng. Chúng trả thù bằng cách bắt Vanga đi lao động bắt buộc mà trước đó một người mù như cô vẫn được miễn.

Rồi lệnh động viên quân dự bị được ban bố. Đimitơrơ bị động viên vào bộ phân quân đội đóng ở Hy Lạp. Từ giă Vanga anh hứa là nếu sống sót trở về, anh sẽ xây cho cô một ngôi nhà mới. Đimitơrơ rất khéo tay và rất giỏi nghề mộc mặc dù chẳng học ở đâu cả. Nhưng lời hứa của anh chỉ thực hiện xong vào năm 1947.

Tiễn chồng Vanga chỉ nói: “Coi chừng nước”.

Quả thật, những ai sống sót từ Hy Lạp trở về phần nhiều đều bị ngă nước và các bệnh gan khác do uống thứ nước độc trong các đầm lầy Hy Lạp.

Năm 1942, Maria Gaigurôva, một bà giáo thành phố Xandaxiki thường đến thăm Vanga. Vanga và Liupka rất mến bà. Bà có bốn cô con gái và hai con trai. Vanga thường đùa: “Cô Maria ạ! Cháu gả con Liupka nhà cháu cho một trong hai cậu bên nhà đấy”. Chuyện xảy ra đúng như vậy. Liupka đă gặp gỡ với Xtôian, người con trai lớn của bà Maria. Họ yêu nhau và chẳng bao lâu đă làm lễ cưới. Đó chính là cha và mẹ tôi.

Cả bà ngoại Maria và ông nội Bôrít của chúng tôi đều là những người học rộng thời ấy. Ông tôi chơi được đàn vĩ cầm, biết vẽ và đọc các pho kinh điển bằng tiếng Pháp.

Là một người được giáo dục trong tinh thần của chủ nghĩa duy vật, ông tôi không tin lắm vào những lời tiên đoán của Vanga và thậm chí có một lần khi Vanga đến thăm nhà, ông đă thử tài của cô. Ông hỏi: “Cô có biết điều ǵ xảy ra với hài cốt của cha tôi, người đă bị bọn Thổ giết chết năm 1912 ở Mennic không? Cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa t́m thấy hài cốt của ông ấy”. Vanga khuyên ông nên đến Mennic t́m một người có tên là Petrơ, người đă chứng kiến sự việc trên và có thể kể lại tỉ mỉ những ǵ đă xảy ra trên thực tế. Ông Bôrit ngạc nhiên nhưng quyết định tiếp tục cuộc thử nghiệm. Ông đến Mennic và quả thật đă t́m được gia đ́nh ông Petrơ. Ông này đă chết, nhưng người con trai của ông ta đă kể cho ông tôi những chuyện mà ông ta đă kể lại nhiều lần. Té ra, cụ ngoại tôi là một linh mục và đồng thời là một người tích cực đấu tranh v́ sự trong sáng của tiếng Bungari, trường học Bungari, nhà thờ Bungari, đă bị quân Thổ bắt và giết hại một cách dă man. Bọn Thổ căm thù ông đến nỗi tiếp tục hành hạ hài cốt của ông. Chúng ném xương vung văi dưới một gốc cây, c̣n trong ḥm của ông th́ chúng bỏ xương của một con ngựa vào.

Sau chuyện này, ông ngoại tôi bắt đầu tin vào tài tiên tri của Vanga và quyết định hỏi cô về số phận của hai người anh trai của ông đă rời khỏi đất nước vào năm 1912. Vanga trả lời: Sêrô nằm trong mộ, Nicôla c̣n sống. Tôi trông thấy ông ấy cách đây không lâu, ông ấy c̣n ở tại một thành phố lớn của nước Nga. Ông ấy học ở đấy và trở thành một nhà khoa học. Nhưng giờ đây ông ấy đang là tù binh trong một trại. Chú đừng sợ, ông ấy sẽ trở về vào mùa xuân này.

Khi chú trông thấy một người mặc bộ đồ xám, tay sách hai cái vali th́ đó chính là anh trai của chú đấy!

Câu chuyện thật khó tin, ông tôi không thể tin được là người anh trai bị mất tích của ḿnh trở thành một nhà khoa học Xô Viết, cũng không tin chuyện ông trở thành tù binh. Lần này th́ ông không tin ở Vanga nữa và không có hy vọng sẽ gặp lại anh trai.

Nhưng ngày tháng trôi đi và một hôm một người lữ hành mệt mỏi dừng lại trước ngôi nhà của ông tôi. Trên người ông ta mặc một bộ đồ xám và dưới đất đặt hai chiếc va ly. Không ai biết ông ta cả. Cả ông ngoại tôi cũng không thấy quen. Nhưng đó chính là anh trai Nicôla của ông. Người em trai út đă trở về quê hương sau 22 năm phiêu lăng. Sau đó ông đă xác nhận tất cả những ǵ Vanga nói là đúng.

Tham gia từ năm 1919 vào hoạt động của các tổ chức cộng sản, năm 1912 hai anh em Sêrô và Nicôla buộc phải chạy trốn sang Nga. Nicôla đến Ođetxa. Sau nhiều năm gian khổ, ông tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư điện. Ông đă tham gia xây dựng các nhà máy thuỷ điện ở tất cả các nước cộng hoà Xô viết. Khi quân Đức xâm lược Liên Xô, Nicôla bị bắt làm tù binh và bị đưa về Đức. Sau nhiều lần bị tra tấn dă man, ông trốn thoát được khỏi trại. Sau chiến tranh, ông quyết định trở về Bungari.

Mùa xuân năm 1944, vào mùa anh đào chín, chồng của Vanga từ Hy Lạp trở về. Ông chỉ c̣n lại một nửa. V́ uống phải nước đầm lầy độc, gan ông sưng to và ông thường phải chịu những cơn đau khủng khiếp. Ông yếu đến nỗi không cầm nổi chiếc ŕu trong tay nữa. Nhưng nhớ lời hứa với Vanga, ông bắt đầu dựng một ngôi nhà mới – 1945.

Càng ngày càng nhiều người đến mong ở sự giúp đỡ của Vanga. Bà dậy từ lúc trời c̣n sáng, nấu ăn cho những người thợ tới giúp Đimitơrơ dựng nhà, sau đó tiếp những người mong được gặp bà.

Một sĩ quan cùng vợ từ Xôphia đến gặp Vanga nhiều lần. Người ta đă quen mặt họ, thậm chí một số người c̣n ghen tị với vẻ hạnh phúc của họ nữa. Nhưng Vanga nói: Đừng vội ghen tị. Tương lai sẽ cho thấy có đáng ghen tị không. Sau này người ta điều tra rằng trong chiến tranh, viên sĩ quan là một tên đao phủ. Hắn đă bị kết án tử h́nh.

Nghe tin này, Vanga nói với những người khách của ḿnh “Đừng có ghen tị với bất cứ ai trước khi biết chung cuộc của cuộc đời anh ta”.

C̣n một trường hợp của những năm đó nữa. Một người đàn bà vùng Petritrơ để lạc mất đứa con gái ba tuổi của ḿnh ở chợ, t́m khắp nơi không thấy, người mẹ bất hạnh tới gặp Vanga. Vanga nói rằng con gái của bà bị những người Digan bắt trộm. Bây giờ t́m kiếm chỉ vô ích, mà nhiều năm sau hai mẹ con mới lại sẽ gặp được nhau.

Hai mươi năm sau, người đàn bà đó đến Blagoegrat và t́nh cờ nghe được câu chuyện câu chuyện của hai người đàn bà trên sân ga Krexana. Nhờ đó bà biết rằng ở một làng gần đó có mấy gia đ́nh Digan sống. Một cô gái Digan trẻ khác biệt hẳn với đồng bào của ḿnh v́ có mái tóc màu hạt dẻ sáng, đôi mắt xanh và những cử chỉ không giống dân Digan.

Một cái ǵ đó run rẩy trong tim người mẹ – đă bao năm bà chờ đợi lời tiên đoán của Vanga trở thành hiện thực. Bà t́m đến làng đó, dễ dàng t́m được nhà của cô Digan có mái tóc màu hạt dẻ. Tim bà như muốn vỡ ra v́ hồi hộp. Người đàn bà Digan trẻ không tin lời kể của bà ta và nói rằng từ bé đến lớn cô ta sống với những người Digan, c̣n chồng của cô ta th́ muốn tống cổ mụ già lếu láo. Nhưng “bà mẹ vợ” đă quát anh ta im mồm và kể rằng nhiều năm trước đây những người Digan khác đă trao cho bà ta cô bé bắt trộm được tại một hội chợ ở vùng Petritrơ.

Người đàn bà tội nghiệp bèn kể cho cô gái nghe về tuổi thơ và trong tâm trí của cô ta đă có điều ǵ đó mơ hồ như đang sống lại. Mắt cô mờ đi và cô nhớ lại được rằng hồi bé cô sống trong một ngôi nhà trong sân có một cái giếng sâu và gần đó có một tảng đá rất to. Hoàn toàn tin tưởng là ḿnh đă t́m được con gái, người đàn bà mời cô gái đi với ḿnh về làng. Đến đó, cô gái Digan nhớ lại được rằng ḿnh có một người anh trai nữa. Cô nhận ra ngôi nhà cũ và đi lại một cách tự tin. Người làng kéo đến. Cuộc gặp mặt diễn ra rất cảm động. Nhiều người không cầm nổi nước mắt.

Tháng 5 năm 1944, em trai út Tôme của Vanga cũng tới Đức trở về và dừng chân ở Xtrumitse. C̣n ngày 10 tháng 6, người em trai khác là Vaxin đột ngột xuất hiện ở Petritrơ để từ biệt mọi người: Anh muốn đến Xtrumitse gia nhập đội du kích.

Hồi ấy, vào thời gian cuối cuộc đại chiến, Lữ đoàn du kích Makeđôn thứ tư được thành lập ở Xtrumitse. Nhiều trai tráng ghi tên gia nhập đội quân du kích. Liupka cũng quyết định bí mật đi cùng với họ. Riêng với em trai, Vanga khóc khuyên anh đừng đi. Bà nhắc đi nhắc lại: Đừng đi, người ta sẽ giết em khi em mới 23 tuổi mất thôi. Người em trai không tin. Thế là hai anh em Liupka tới Xtrumitse gia nhập du kích.

Ngày 8 tháng 10 năm 1944, Vaxin, lúc đó đă trở thành chỉ huy một phân đội công binh nhận nhiệm vụ phá sập một chiếc cầu gỗ gần làng Turka. Các đơn vị Đức đang rút lui qua chiếc cầu này. Vaxin hoàn thành nhiệm vụ nhưng chẳng may chứng minh thư của anh lại rơi tại trận địa. Bọn Đức t́m thấy chiếc chứng minh thư ấy. Một người kiếm củi bị bắt đă khai rằng có nh́n thấy chàng trai này trong làng. Lập tức toàn bộ dân làng bị lùa vào ngôi nhà thờ. Cả Vaxim cũng bị lùa vào trong ấy. Để cứu mọi người, Vaxim đă bước ra và nói: Chính tao đă phá cầu. Vaxim đă chết hết sức đau đớn.

Vaxim chết vào ngày 8 tháng 10 đúng 23 tuổi tṛn!

Năm 1947, chồng Vanga xây dựng xong nhà và bị ốm nặng. Ông kiệt sức sau khi từ Hy Lạp trở về và ngôi nhà càng làm ông cạn kiệt. Ông thường thấy những cơn đau trong dạ dày, một người bạn mách ông làm dịu cơn đau bằng cách mỗi ngày uống một cốc rượu. Đimitơrơ làm theo và ông không kịp nhận thấy là ḿnh dần dần trở nên nghiện ngập. Ông thường đóng chặt cửa, uống một ḿnh. Có thể là trong ḷng ông có một tấn bi kịch nào đó nhưng ông không muốn chia sẻ với mọi người. Cả Vanga, cả bác sĩ đều khuyên Đimitơrơ phải thay đổi cách sống, nhưng ông không muốn nghe ai hết. Vanga đi lại trong nhà như một cái bóng dưới hai mi mắt quầng thâm. Đêm đêm bà khóc thầm. Bà biết rằng t́nh thế của chồng ḿnh đă vô vọng nhưng bà giấu kín điều đó trong ḷng và thầm mong rằng chúa Trời sẽ ban cho một phép lạ.

Đimitơrơ chữa bệnh bằng rượu trong ṿng 12 năm trời cho đến khi phải vào bệnh viện. Kết quả chẩn đoán: xơ gan, Vanga tuyệt vọng. Bà luôn luôn ở cạnh chồng. Khi bác sĩ kín đáo ngụ ư rằng mọi chuyện sắp kết thúc, Vanga nói: “Tôi biết. Cái chết đă đến gần lắm rồi”. Vào một trong những ngày cuối cùng, Đimitơrơ thấy nhẹ nhơm hơn và thiếp đi. Vanga cũng thiếp đi ngay trên sàn, dưới chân giường của ông. Liên tục sáu tháng trời Đimitơrơ nằm viện, bà tận tuỵ chăm sóc chồng.

Mẹ tôi kể lại những ngày đau buồn ấy:

- Khi Đimitơrơ hấp hối, Vanga quỳ gối trước giường của ông, nước mắt chảy ṛng ṛng từ đôi mắt mù của chị ấy. Chị ấy th́ thầm một cái ǵ đó. Hoặc là cầu xin chúa Trời xá tội, hoặc là từ biệt với chồng – tôi không biết rơ, Đimitơrơ mất ngày 1 tháng 4 năm 1962, thọ 42 tuổi. Khi Đimitơrơ tắt thở, Vanga thôi khóc và thiếp đi. Chúng tôi làm tất cả mọi việc cần thiết, mọi người kéo đến chia buồn nhưng Vanga vẫn ngủ. Chị ấy ngủ cho đến tận lúc làm lễ hoả thiêu. Sau đó bà nói: “Tôi tiễn anh ấy đến tận chỗ định trước cho anh ấy”.

Sáng sớm hôm sau, tôi ra nói với những người đến chờ gặp Vanga rằng chồng chị ấy mới chết, chị ấy không thể tiếp ai được cả. Nhưng Vanga lập tức phản đối: “Gọi mọi người lại đây. Tôi sẽ tiếp tất cả mọi người. Họ cần tôi”.

Từ ngày đó, chúng tôi, các cháu gái của Vanga – Kraximira Anna và Đimitơrơ và cả mẹ của chúng tôi là Liupka nữa trở thành những người chứng kiến cuộc sống goá bụa, cay đắng dài đằng đẵng của bà.

Tôi nhớ bác tôi vào những ngày đó: dưới tấm khăn len goá bụa là gương mặt tái nhợt bất động. Toàn bộ con người bà sống cuộc sống nội tâm tập trung một cách căng thẳng, tách rời hoàn toàn khỏi thế giới chung quanh. C̣n ḍng người th́ vội vàng cứ đến, cứ đến mỗi ngày một đông hơn từ khắp mọi nơi trên Trái đất. Họ, những con người khác nhau, từ thông thái cho đến mù chữ, những người tin và những người hoài nghi, những người khoẻ mạnh và những người đau ốm, họ bước qua cửa nhà Vanga với giễu cợt hoặc với nỗi sợ. Vanga không từ chối một ai hết.

Tôi c̣n nhớ một trường hợp xảy ra đă lâu. Một người phụ nữ trí thức trẻ đến với mẹ ở Xunđanxki nhờ mẹ dẫn đến gặp Vanga. Chỉ v́ ṭ ṃ thôi, lúc đó sân nhà Vanga đang có rất nhiều khách xếp hàng chờ đến lượt ḿnh. Vanga bỗng bước ra khỏi cửa và gọi đúng tên ông, thậm chí c̣n gọi đúnh tên thân mật chưa từng sử dụng ngoài khung cảnh gia đ́nh. Không tin ở tai ḿnh nữa, cha tôi đi theo Vanga vào nhà. Sau đó Vanga kể rất nhiều chuyện đúng về quá khứ của ông. Cha tôi lấy vợ hai lần, Vanga đă mô tả đúng đám cưới của ông, kể nhiều chi tiết tỉ mỉ đến nỗi có chi tiết mẹ tôi cũng không biết. Sau đó Vanga nói về tương lai. Bà nói rằng mười bốn năm nữa ông sẽ chết v́ bệnh ung thư. Bà nói cả về tôi và em trai tôi nữa. Bà nói rằng tôi có hạnh phúc nhưng chồng tôi sẽ chết sớm, tôi sẽ goá bụa với đứa con nhỏ trên tay. Sau đó tôi sẽ lấy chồng lần thứ hai và lần này tôi sẽ không hạnh phúc. Về em trai tôi th́ Vanga nói số phận của nó rất bi thảm: Nó sẽ chết trong một trường hợp không may khi vừa 20 tuổi.

Cha tôi rất kinh hoàng khi nghe Vanga phán như vậy. Ông định giữ kín bí mật này, nhưng không chịu đựng nổi nên đă tiết lộ với người vợ thứ hai của ḿnh do đó mà chúng tôi được biết. Thời gian trôi đi, cha tôi bắt đầu ốm. Thoạt đầu, ông nghĩ là ông bị loét dạ dày. Người ta mổ cho ông hai lần. Lần thứ hai chỉ mổ ra rồi đóng lại. Ông mất năm 1958 v́ bệnh ung thư, đúng vào ngày mà Vanga đoán trước.

Bản thân tôi lấy chồng và cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng chồng tôi đột ngột ốm và chết. Lần lấy chồng thứ hai tôi không gặp vận may và đành phải li dị. Trước đó không lâu em trai tôi ngă tàu điện chết. Nó mới hai mươi tuổi. Tất cả những ǵ Vanga tiên đoán đă lần lượt diễn ra chính xác đến kinh ngạc.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
CM4Q (31-03-11)