25. TÂM SỰ QUA NHỮNG CÂU CA DAO
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ thật lắm phen lên voi xuống chó, mà thật ra không phải ông là người có thực lỗi, chủ yếu là do ḷng ganh ghét và cái nh́n thiển cận của triều đ́nh và người đời, trước hết là của những ông vua đầy nghi kị, hẹp ḥi. Chẳng hạn, năm Minh Mệnh thứ 17, chỉ v́ việc một tên trọng tù vượt ngục, nhà vua hạ chiếu giáng ông bốn cấp, sau được phục ba cấp, rồi vài năm sau lại phải giáng xuống Binh bộ Hữu tham tri và đổi về Kinh. Một hôm ông vào trực trong thành Nội, vua trông thấy, hỏi:
- Khanh thường đi tuần hành các chốn dân gian, có nghe được việc ǵ hay không?
Nguyễn Công Trứ thuận miệng tâu:
- Tâu bệ hạ, thần chỉ nghe những câu da dao, dân ca thường hát ở chốn nhà quê là hay nhất, chẳng hạn như câu này:
Một ngọn đèn chong, hai ngọn đèn chong,
Quốc sĩ vô song là người Hàn Tín,
Anh chẳng thương em, anh đến chi đây,
Tứ bề rồng ấp lấy mây.
Câu ấy tuy ca dao thực, song khi thuật lại, Nguyễn cũng ngụ ư ḿnh là một kẻ có tài như Hàn Tín thuở xưa, và có ư trách nhà vua hay nghi ngờ, rày thăng mai giáng, mà h́nh như không biết như con rồng kia c̣n biết ấp yêu lấy mây.
Lại có chuyện kể rằng, sau một thời gian dài gian truân lặn lội dẹp loạn nơi biên ải, cụ Thượng Trứ lai kinh, nh́n thấy mấy viên quan “bảnh bao nhẵn nhụi” ngựa xe vơng lọng chơi rong trong triều, liền đặt ra mấy câu đồng dao dạy cho trẻ con hát khắp nơi:
Con mèo nằm bếp lo xo,
Ít ăn th́ lại ít lo ít làm.
Con ngựa đi bắc về nam,
Hay ăn th́ lại hay làm hay lo!
26. NGAY L̉NG Ở VỚI NƯỚC NHÀ
Khi cụ Trứ đă về hưu nhưng vẫn được nhân dân hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn nhớ ơn khẩn điền cho họ làng quê, việc làm nên lập sinh từ Cụ rồi rước Cụ từ quê Hà Tĩnh ra chơi. Có một viên Thị vệ thấy thế, bèn bịa đặt mật tâu về Kinh là cụ Trứ đang t́m cách thu phục nhân tâm, có ư mưu đồ làm phản. Nhà vua vội vàng cho triệu cụ vào Kinh để t́m cớ trừ “hậu hoạ”. Tuy nhiên, khi tỉnh táo lại suy xét, triều đ́nh cũng hiểu được rằng đó chỉ là những lời đồn xằng bậy,xấu xa. Tương truyền, lúc cụ đă vượt hàng ngàn dặm đường đất về Kinh, vua Tự Đức vời Cụ vào bệ kiến để Cụ giăi bày tâm sự cho rơ thực hư. Nhân nhà vua hỏi Cụ: “Ở hạt Tiền Hải và Kim Sơn dân t́nh làm ăn thế nào?”, Cụ mới tâu rằng:
- Thưa bệ hạ, dân hai huyện ấy làm ăn rất là vui vẻ, ngày th́ chăm lo cày cấy, tối về đập lúa ca hát, thật đúng là cảnh “Muôn dân trăm họ, thái b́nh âu ca”. Họ thường đặt ra những câu hát đố rất là thú vị để hát đối đáp với nhau.
Nhà vua hỏi:
- Như những câu ǵ, có thể đọc cho trẫm nghe được không?
- Tâu Bệ hạ, chẳng hạn như câu này:
Đem thân cho thế gian ngồi,
Rồi ra lại nói những lời bất trung.
Vua hỏi là cái ǵ, cụ Trứ đáp:
- Tâu Bệ hạ, họ bảo đấy là cái phản.
Tự Đức lại hỏi:
- C̣n câu ǵ hay nữa không?
- Tâu Bệ hạ: c̣n câu này cũng hay lắm:
Ngay ḷng ở với nước nhà,
Người dù không biết trời đà biết cho.
Vua hỏi: Là cái ǵ?
- Tâu Bệ hạ, họ giảng đấy là cái máng nước.
Tự Đức biết ư Cụ ám chỉ việc Cụ bị vu oan và trách triều đ́nh không biết xét việc minh bạch có trước có sau, nên t́m lời an ủi cụ rồi cho cụ trở về nguyên quán ở Hà Tĩnh.
27. TRÊN DƯỚI, TRONG NGOÀI, LỚN BÉ ĐỀU CHÓ CẢ!
Gàn ba chục năm tận tâm lăn lộn chốn quan trường, càng về già càng thấy nhiều, nghe nhiều, người mang chí nam nhi tang bồng năm nào đă mỏi mệt lắm rồi, mấy lần dâng sớ xin nghỉ hưu nhưng vua vẫn không cho. Rồi khi đă qua tuổi thất thập, Cụ lại lần nữa dâng sớ lên vua mới Tự Đức vừa lên ngôi, và lần này th́ được Ngài phê duyệt, được về với chức quan Phủ doăn Thừa Thiên. Ngày “nhận sổ hưu”, với 170 quan tiền được lĩnh, Nguyễn Công Trứ liền rầm rộ tổ chức một bữa tiệc chia tay bạn bè, đồng liêu trên dưới. Gia nhân tấp nập mượn nhà, mua sắm lễ vật, cơm rượu đề huề. Và thật nhiều chó, những 40 con chó đủ loại sắc thể! Các quan khách kéo đến rất đông (nghe nói nhà vua cũng vi hành đi bộ đến dự), ngửi mùi cầy do bàn tay những đầu bếp xứ Nghệ chế biến thơm lừng, chỗ này chỗ kia dậy tiếng trầm trồ to nhỏ: “Ôi, thịt chó, chó, nhiều quá!” Và h́nh như chỉ chợ có vậy, cụ Thượng hưu đứng dậy vuốt râu dơng dạc và khoan thai nói: “Dạ thưa, đúng như vậy đấy ạ, - Cụ đưa tay chỉ quanh khắp lượt, tiếp: đúng là trên dưới, trong ngoài, lớn bé, tất cả đều là chó hết cả ạ!”
28. CHE MIỆNG THẾ GIAN
Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giă kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe ḅ cái kéo, cổ ḅ lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giă những người quen.
Khi đến nhà Hà Tôn Quyền - vị đại thần trước kia đă từng dèm pha gây cho ông nhiều bước thăng trầm lận đận, Nguyễn Công Trứ lấy một cái mo cau, chép một bài thơ buộc vào phía sau đuôi ḅ, che... lại. Thiên hạ xúm lại xem, rúc rích cười khiến họ Hà thêm ṭ ṃ. Nguyễn Công Trứ gạt mọi người và úp sấp mo cau lại. Hà Tôn Quyền đ̣i coi cho ḱ được, sấn lại, lật ngửa tấm mo cau lên. Hoá ra trên mo cau có bài thơ:
Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe ḅ... cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Hà Tôn Quyền đỏ ngay mặt, hiểu ra là Nguyễn Công Trứ xỏ ḿnh, “miệng thế gian” hay dèm pha có khác chi miệng họ Hà.
Về hưu nhưng cụ Thượng Trứ không ở lại làng Uy Viễn, mà vào ở một cạnh ngôi chùa trên núi Cảm Sơn, thuộc xă Đại Nại gần tỉnh lị Hà Tĩnh bây giờ, và thường cưỡi ḅ vàng đạc ngựa đi chơi đây đó. Người đời truyền tụng, để diễu và răn dạy những kẻ hay đàm tiếu những chuyện thị phi ganh ghét, cụ viết thơ lên chiếc mo cau rồi buộc sau đít ḅ. Có người c̣n nhớ hai câu sau:
Miệng thế khó đem b*&#ưng nó lại.
Ḷng ḿnh chưa dễ bóc ai coi.
Thiên hạ thấy vậy lại đua nhau bàn tán, kẻ bảo Cụ chán đời, người bảo Cụ ngạo thế; Cụ chỉ ngất ngưởng cười, nghêu ngao thơ, bất tận chơi mà chẳng bận ḷng.*&#
29. GIỄU LỐI VĂN SÁO RỖNG
Một lần Cụ đang cưỡi ḅ rong ruổi chơi theo con đường thiên lí th́ gặp một toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của ḿnh. Cụ cưỡi ḅ đi cùng các thầy một quăng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:
- Lăo nghe các thầy từ năy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. T́nh cờ hôm nọ lăo có nghe lỏm đ*&#ược một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lăo với nhé.
Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:
- Được thôi, cụ cứ đọc đi, có ǵ chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.
Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng ḅ tủm mỉm c*&#ười rồi đọc một mạch:
"Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở x*&#a vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân. Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại ḅ vàng chi liếm lá!..."(28).
Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ư lạ; nhưng b́nh giải cho rơ ràng cụ thể th́ các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại cho ḅ ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quăng đường cứ bàn luận măi mà vẫn không ai hiểu nghĩa ư đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng được nghe tới…
30. PHONG LƯU ĐÁO LĂO THẾ GIAN VÔ
Nghỉ hưu rồi, về quê, Cụ Trứ nhờ nhân dân giúp đỡ, dựng một ngôi nhà lá rất nhỏ cạnh chùa Cảm Sơn dưới chân núi Đại Nài, cách lị sở tỉnh Hà Tĩnh chừng vài dặm. Thường cưỡi ḅ vàng đạc ngựa cùng cô vợ trẻ (hầu non) vừa mới cưới, cô này cũng là ca kĩ, đi ngao du và ca hát. Có lần ông gọi cả gánh ca trù đến hát ngay giữa sân chùa. Vị sư trụ tŕ tại đây sợ quá, bèn t́m đến nhờ quan Bố chính Hà Tĩnh lúc đó là Hoàng Nho Nhă can thiệp giúp. Hoàng bèn đích thân đến xem, từ xa nghe lời ca trong tiếng đàn réo rắt:
…Đạc ngựa ḅ vàng đeo ngất ngưởng,
Ḱa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi ǵ,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Quan Bố chánh cũng say sưa với thơ hay, đào đẹp, giọng ngọt, đàn êm, quay lại bảo với nhà sư trụ tŕ:
- Thôi đừng can thiệp vào thú vui của Cụ, mà có muốn ta cũng không can thiệp được đâu!
Nghe kể, cuối buổi, Hoàng Nho Nhă làm tặng cụ Trứ đôi câu đối rất hay:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu,
Phong lưu đáo lăo thế gian vô!
Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn c̣n, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) th́ thế gian không có!
|