Xem bài viết riêng lẻ
  #5  
Cũ 20-04-11, 03:26 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

34. BÀI HỌC CHO QUAN HUYỆN HÁCH DỊCH

Một viên quan trẻ tuổi và rất hách dịch được bổ về làm Tri huyện Nghi Xuân. Tuy cũng đă từng nghe tiếng Cụ Thượng Trứ nhưng chưa hề gặp và có lẽ cũng cao ngạo hay sơ suất ǵ đó mà anh ta không tới yết kiến Cụ như các quan khác thường làm. Vừa tới huyện lị được vài ba ngày, tân quan đă quyết định đi hành hạt, sức cho hàng huyện biết ngày giờ nào quan sẽ tới xă, thôn nào để biết mà nghinh tiếp rầm rộ.
Nghe dân t́nh bàn tán thấy chướng tai, Cụ Trứ bèn vai vác cuốc tay dắt ḅ đến cho ăn cỏ trên con đường mà quan huyện sắp đi qua. Một lát sau đoàn xe ngựa, vơng lọng tân quan đi đến, tên lính lệ đi trước dẹp đường, lớn tiếng hô:

- Ai nấy phải tránh về một bên để quan lớn đi hành hạt.

Cụ Trứ giả vờ không nghe, cứ chăm chăm cuốc, rồi lại ngồi bệt xuống đường cái nhặt cỏ. Đám lính khiêng vơng quan đến tận nơi mà Cụ Trứ vẫn lom khom làm việc. Quan tức ḿnh nhảy xuống vơng, lớn tiếng quát:

- Hay cho lăo già nhà quê vô lễ! Ngạo mạn!

Rồi giựt phắt cái cuốc trong tay cụ Trứ, ném xuống con sông Lam trong xanh, rồi truyền bắt ông già phải thay một người lính vơng quan đi, c̣n con ḅ th́ cho dắt theo.

Cụ Trứ lẳng lặng ghé vai khiêng vơng đi trước, c̣n quan huyện nằm trên vơng ra dáng bệ vệ, hả hê. Vừa đi được chừng mươi thước th́ đoàn người gặp một anh đồ Nho người cùng huyện Nghi Xuân. Trông thấy Cụ Trứ, anh đồ hốt hoảng chạy tới chắp tay chào hỏi:
- Bẩm, lạy cụ lớn! Sao Cụ lớn lại phải khiêng vơng như thế ạ?
Cụ Trứ chưa kịp trả lời, quan huyện đă giật ḿnh, nhảy ngay xuống đất, lắp bắp hỏi anh đồ Nho:
- Cụ già nầy là ai?
- Tŕnh quan, đây là cụ Binh bộ Thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng, uy tín và phẩm tước lớn nhất trong tỉnh Hà Tĩnh ạ!
Bấy giờ quan huyện mới như người mắc bệnh kinh phong, run lẩy bẩy chắp hai tay lạy Cụ Trứ như tế sao:
- Bẩm lạy cụ lớn! V́ con mới đến nhận chức ở quư huyện, chưa có dịp yết kiến nên chưa được biết Cụ lớn. Nay con trót đă phạm tội lỗi nặng nề đối với cụ lớn. Trăm lạy Cụ lớn mở lương khoan hồng, con nguyện xin suốt đời làm tôi tớ Cụ lớn. Xin Cụ lớn tha tội cho con.
- Tôi bắt tội, bắt t́nh quan huyện làm chi? Quan huyện bắt tôi khiêng quan từ đâu đến đây, th́ bây giờ quan phải khiêng tôi từ đây tới đó, thế là công bằng. C̣n cái cuốc của tôi, quan quăng đi, th́ quan t́m mà trả lại cho tôi, thế là xong việc.
- Con xin khiêng Cụ lớn tới nơi Cụ lớn cuốc cỏ khi hồi. C̣n cái cuốc, con trót quăng xuống sông cái, nước sâu quá con không thể lặn xuống t́m được, con xin mua cái mới tốt hơn đền cho Cụ lớn ạ.
- Không được! Hơn ba năm nay, với cái cuốc xấu xí, cũ kĩ ấy, tôi đă cuốc cỏ cho ḅ ăn, và cuốc rau má cho tôi cùng người nhà tôi ăn, t́nh nghĩa giữa tôi và cái cuốc sâu đậm biết chừng nào! Người ta ở đời, - Cụ Trứ nói tiếp, - có ǵ đáng quư bằng t́nh nghĩa hay không? Nay quan ỷ thế nhiều tiền nhiều bạc, vứt cuốc tôi xuống sông, để rồi mua cái khác đền lại. Tiền bạc th́ quan có thể bồi thường được, c̣n t́nh nghĩa giữa tôi và cái cuốc th́ có thể lấy tiền bạc mà bồi thường được không?
- Bẩm lạy Cụ lớn! Con lỡ làm một việc tội lỗi tày trời đối với Cụ lớn, bây giờ con hối hận lắm. Rất mong Cụ lớn thương hại con là đứa hậu sanh có khác nào đứa con út của Cụ lớn.
- Đành rằng quan không biết tôi là Nguyễn Công Trứ, nhưng quan vẫn thấy tôi là người già nua, tóc bạc đó thôi. Cái chức Thượng thư của tôi là thân ngoại chi vật(35),quan muốn biết hay không muốn biết, là tuỳ ư quan. Nhưng cái đầu bạc trắng của một người gần tám mươi tuổi, th́ mọi người trông thấy, không có lí ǵ mà quan không thấy? Đối với tôi mà quan c̣n hách dịch đến thế, thử hỏi đối với những người dân đen thấp cổ bé họng th́ quan sẽ tác oai tác quái đến độ nào? Nay, nêu tôi dung thứ cho quan, th́ vô t́nh tôi đă “trợ Kiệt vi ngược”(36). Vậy nên tôi sẽ tŕnh báo minh bạch lên Đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển tŕnh về bộ Lại và triều đ́nh xét xử, để làm gương cho những quan lại xấu xa quen hiếp đáp lương dân vô tội.
Nghe nói, quan huyện càng tái mặt, ấp úng không nên nửa lời.
Cụ Trứ nói tiếp:
- Bây giờ quan hăy khiêng tôi trở lại nơi tôi đang cuốc cỏ khi hồi.
Quan huyện cúc cung ghé vai vơng Cụ Thượng Trứ đi trở lại nơi cũ, trước những con mắt hiếu ḱ của nhân dân địa phương. C̣n con ḅ của Cụ Trứ vẫn được người lính lệ dắt đi theo. Tới nơi, Cụ bảo dừng vơng lại, thung dung bước xuống đất, nh́n con ḅ bị đói cỏ, rồi nói:
- Quan huyện đă làm xong một việc rồi, bây giờ c̣n một việc nữa là t́m cái cuốc của tôi cho ḱ được, - đoạn Cụ lấy tay chỉ xuống sông Lam.
Quan huyện chắp hai tay vái dài, khóc nức nở không c̣n biết xấu hổ, thể diện nữa. Bấy giờ, Cụ Thượng Trứ mới nghiêm nghị nói:
Thôi được, tôi tha cho ông một lần!
Quan huyện được một bài học chắc là nhớ đời.

35. BÀI HỌC CHO QUAN ÁN SÁT HỐNG HÁCH

Câu chuyện này dài, dài hơn một giai thoại b́nh thường, nhưng v́ rất có ư nghĩa và rất thực nên cũng xin chép lại cho đủ, cho hết.
Mùa xuân năm Đinh Tị (1857), cụ Trứ 79 tuổi, như lệ thường lại cưỡi ḅ vàng đạc ngựa đi từ núi Cảm Sơn (Thạch Hà) về làng Uy Viễn chánh quán để bái yết từ đường họ Nguyễn, quăng đường độ năm chục cây số. Ra đi từ lúc trời vừa sáng, măi đến xế chiều Cụ mới đến gần khúc đường rẽ vào làng ḿnh. Thương con ḅ vàng đói và mệt, Cụ dừng lại nghỉ, dắt cho ăn cỏ dọc theo con đường cái quan (tức là quốc lộ 1A bây giờ, quăng Gia Lách gần Bến Thuỷ). Được một lúc, bỗng thấy một đoàn người đông đảo, mang cờ, lọng, trống, chiêng và bát âm cùng vơng, cáng, tiền hô hậu ủng đi tới. Th́ ra đó là đám rước quan tân Án sát Nghệ An(37) về nhiệm sở. Đi đầu đám rước, một viên cai cầm loa hô lớn:
- Hỡi mọi người khách đi đường phải tránh về một bên, để cho đám rước quan lớn rộng đường đi.
Nghe tiếng loa, Cụ Trứ tỏ vẻ sợ hăi, hai tay nắm lấy sợi dây thừng, kéo con ḅ từ bên này đường sang bên kia đường cái quan.
Viên cai lại hét loa lần nữa, Cụ Trứ luưnh quưnh, lại nắm lấy dây kéo con ḅ từ bên kia đường qua bên này đường. Cứ thế, theo tiếng loa, con ḅ bị kéo đi, kéo lại mấy lần qua mặt đường cái quan.
Viên Cai chạy tới trừng mắt hỏi Cụ Trứ:
- Tại sao ông già cứ dắt ḅ chạy qua chạy lại măi trên đường như thế? Có phải ông cố ư cản trở đường đi của quan lớn hay không?
Ông già dắt ḅ lập cập thưa:
- Dạ bẩm, tôi già lại điếc, nên không nghe được rơ ràng. Tôi đă dắt ḅ về một bên đường rồi, lại c̣n nghe kêu gọi nữa, nên tôi tưởng phải dắt ḅ qua bên khác mới khỏi mang tội ạ.
Viên cai nổi cáu nắm chặt tay ông già kéo sang bên đường, tức th́ cụ Trứ ngă lăn ra đất, chỏng bốn vó lên trời, miệng kêu la rên rỉ, tay vẫn nắm chặt sợi dây con ḅ đứng chặn ngang đường cái. Vừa lúc đó vơng quan Án sát tới nơi, viên Cai bèn tŕnh lại sự việc và xin cách giải quyết với cụ già. Nghe xong, quan Án sát lên giọng quát lớn:
- Tên già này thật to gan, cần phải trừng trị gắt gao để làm gương cho những kẻ vô lễ khác. - Và quan truyền: - Nay ta truyền cho ngươi cứ thi hành nghiêm chỉnh phận sự dẹp đường. Và truyền cho hai tên lính theo hầu ta phải dẫn giải tên già ngạo mạn kia sang dinh Án sát Nghệ An, ta sẽ chiếu luật xét xử đích đáng để răn những kẻ điền phu dă tốt khác ỷ nhiều tuổi mà làm càn, làm bậy, khinh khi phẩm tước triều đ́nh…
Lập tức, hai người lính tới khiêng ông già đặt sang vệ đường cho đám rước tiếp tục đi, rồi họ khuyên ông ngồi dậy cùng đi với họ sang dinh Án sát Nghệ An. “Nếu ông ngoan ngoăn, sẽ được tha mau”. Cụ Trứ ngồi dậy nói:
- Tôi thân già, sức yếu, nhà lại nghèo, chỉ trông cậy vào con ḅ này mới sống qua ngày. Tôi có đi đâu ra khỏi nhà cũng là nhờ nó chở đi, chứ hai chân tôi bước không nổi nữa. Nay hai ông đă phải áp giải tôi, th́ tôi yêu cầu hai ông cũng áp giải luôn con ḅ nữa, v́ mất nó th́ tôi chết, rời nó th́ tôi bước không được, bởi hai đầu gối tôi đă long từ lâu ngày rồi.
Thế là hai người lính - một người đi trước và một người đi sau - cùng ông già cưỡi con ḅ vàng về tỉnh Nghệ An.
Đến nơi th́ trời đă tối, hai người lính không biết làm thế nào để canh giữ Cụ Trứ và con ḅ, bèn tạm gửi Cụ vào nhà lao tỉnh Nghệ An. Sáng hôm sau, khi hai người lính vào nhà lao dẫn ông già và con ḅ ra th́ vừa thấy quan Án sát đang đi về phía dinh Tổng đốc(38) để yết kiến quan Thủ hiến. Nh́n thấy quan Án, ông già quay sang nói với hai người lính: - Nhờ hai ông coi dùm con ḅ cho tôi, để tôi chạy theo quan Án, hoạ may quan xét xử gấp cho tôi.
Thế là trên đường, quan Án đi trước, không hề biết có ông già đang lẽo đẽo chạy theo sau. Lúc đó quan Tổng đốc Vơ Trọng B́nh đang đứng trên tam cấp dinh nh́n ra, quan Án vừa vào tới sân đă cúi đầu chào mấy cái, nhưng không thấy quan trên đáp lễ, v́ đang chăm chú nh́n ông già bước thấp bước cao đi sau lưng quan Án. Khi quan Án bước lên tam cấp khom người vái chào, th́ thấy quan Tổng đốc dường như không để ư đến ḿnh mà chạy vội xuống sân. Quay nh́n lại, quan Án đă thấy quan Tổng đốc hai tay d́u ông già lên thềm và đưa vào pḥng khách, rồi lễ độ và ân cần thưa chuyện:
- Mấy lâu nay tiểu đệ hằng trông mong Cụ lớn qua chơi để hàn huyên tâm sự. Nhưng càng trông lại càng bặt tin. Tiểu đệ có gửi thư, cũng không được Cụ lớn phúc đáp. V́ vậy mà tiểu đệ rất lo ngại về sức khoẻ của Cụ lớn. Hôm nay Cụ lớn qua đây, sao lại đi vào giờ nầy, mà không cho tiểu đệ biết trước, để sai người đi đón rước?
Quan Án cũng vừa theo vào pḥng khách, nghe thấy thế mặt tái xạm, đang đứng khép nép một bên không dám lên tiếng.
Ông già đáp:
- Thưa tôn huynh, thực ra cũng đă mấy lần lăo đệ định qua thăm tôn huynh để ḥng ôn lại bao nhiêu câu chuyện cũ, nhưng gia bần thân lăo, lại thêm nay đau mai ốm, cứ lẩn quẩn măi không đi được, rất mong tôn huynh lượng t́nh miễn chấp. Hôm qua lăo đệ cưỡi ḅ về thăm quê và từ đường, đến khúc đường gần rẽ vào làng Uy Viễn, thấy ḅ đói quá, lăo đệ dừng lại dắt ḅ ăn cỏ dọc theo thiên lí lộ. Gặp đám rước quan ngài đây đi qua, lăo đệ già cả không biết đường tránh nên phạm lỗi, được quan truyền áp giải lăo đệ qua đây. Cũng may, nếu không có việc này có lẽ lăo đệ chưa có dịp qua thăm tôn huynh được, biết ngày nào mới tái ngộ nhau?
- Cụ lớn bị áp giải qua đây! Như vậy, suốt cả đêm qua, Cụ lớn nghỉ ngơi ở đâu? Ăn uống thế nào? Và được đối đăi ra sao?
- Đêm qua lăo đệ tạm trú tại lao xá quư tỉnh, chưa ăn ǵ từ chiều qua đến giờ.
Vơ Trọng B́nh đỏ mặt, quay sang quan Án sát trừng mắt nói:
- Quan Án có hay biết cụ già đây là ai không? Đây là Binh bộ Thượng thư trí sĩ Nguyễn Công Trứ, một vị danh sĩ và trọng thần của triều đ́nh. Chẳng những hàng Đốc phủ như chúng tôi phải tôn trọng, kính nhường Cụ, mà đến đức Hoàng thượng cũng quư mến và ưu đăi Cụ nữa. Nay quan Án được lệnh trên hoán bổ tới đây, chưa đạp chân lên đất Nghệ An mà đă ngang nhiên hành hạ một vị lương lăo thần vào tuổi thúc phụ, xâm phạm đến danh vọng và thể xác của người. Hành động của quan Án như vậy quả thật không xứng đáng là một vị Đường quan cầm cán cân công lí giữa tỉnh hạt Nghệ An nầy xưa nay vốn là một trọng trấn trong nước. Nay tôi không dám nhận một vị quan cao cấp trông coi h́nh ngục và án tiết tỉnh Nghệ An lại là người hách dịch như thế. Tôi xin giao hoàn quan Án “Lai kinh hậu cứu” về tội vô cớ hành hung một vị công thần của nhà nước.
Quan Án sát tái mặt, vái lạy quan Tổng đốc và “kẻ điền phu dă tốt" như tế sao, không thốt được lời nào. Tổng đốc Vơ Trọng B́nh khoát tay:
- Quan Án đừng vái nữa mà hèn người. Việc quan làm, quan phải chịu. Quan hăy trở về dinh Án sửa soạn hành lí để trở về kinh đô!
Cụ Trứ thấy cảnh ấy lại bắt đầu thấy áy náy:
- Thưa quan lớn Tổng đốc An Tĩnh, tôi xin có lời này. Quan Án đây quả đă có những sở hành quá đáng đối với tôi, một người có tuổi vô tội, lại là một trọng thần, nên quan lớn tức giận mà xử như thế là hợp lẽ. Nhưng xét cho kĩ, quan Án không biết tôi là ai, nên có thể châm chước vài phần. Theo tôi, quan lớn nên v́ tuổi già của tôi mà tha cho quan Án, chỉ mong trong thời gian trấn nhậm ở đây, quan Án hăy v́ con dân Nghệ An mà xử sự đúng mực là phước lắm rồi.
Nghe Cụ Trứ nói vậy, quan Án sát mừng như chết đuối vớ được cọc, vội vái tạ, nói theo:
- Cụ lớn dạy chí phải. Tôi c̣n gia đ́nh, c̣n bầy con, xin quan lớn xét lại. Về đây chưa ấm hơi mà đă lai kinh hậu cứu, coi như đường công danh của tôi tới đây đă hết. Xin quan lớn rộng ḷng dung thứ. Ơn ấy tôi xin ghi tâm khắc cốt.
Quan Án cũng được một bài học chắc là nhớ đời.

36. LÀM CÂY THÔNG ĐỨNG GIỮA TRỜI

Cụ Thượng Uy Viễn Nguyễn Công Trứ ngang tàng, coi đời như một cuộc chơi thú vị theo ư ngông của ḿnh cho đến tận lúc chết, và cả chết Cụ cũng ngông như vừa nói ở trên. Thế nhưng, cái ngông, cái ngạo của Cụ không dừng lại ở kiếp này, mà c̣n sang cả kiếp sau nữa.
Tương truyền, vào phút lâm chung, cụ Trứ dặn con cháu trước mộ ḿnh chỉ trồng một cây thông xanh mà thôi. Và bài thơ Cụ để lại sau đây cũng có thể coi là lời di chúc của Cụ với đời: kiếp người, dù có tài, có sang, có chơi đến như Cụ vẫn có những lúc buồn tênh, vẫn đầy những nhộn nhạo, khóc cười; và Cụ hẹn một cuộc chơi khác:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!
Nhưng dù thế, Cụ vẫn không muốn ḿnh đơn độc, vẫn muốn t́m bạn, để có người tri kỉ, cùng chơi. Cụ gửi lại lời mời đầy thách thức:
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét th́ trèo với thông!
Nhân vật chết, hết giai thoại!
Nhưng vẫn c̣n một điều cuối cùng chúng tôi muốn chép lại, là lời băn khoăn buồn của những hậu duệ trông coi và hương khói nhà thờ Cụ Trứ: họ đă nhiều lần trồng thông xanh bên mộ Cụ đúng theo di chúc, nhưng thông không sống được - quê Cụ toàn đất cát. Đất nghèo(39).
Đất này cây khó sống, nhưng người vẫn phải sống. Mà lại sống kiêu sa, ngang tàng.
Nghịch lí chăng?
Đông Tây, 17/11/2008
Huyền Li


(1) Hầu hết các sách đều ghi thân sinh của Nguyễn Công Trứ là Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, nhưng theo Chu Trọng Huyến trong Nguyễn Công Trứ, con người và sự nghiệp, Nxb. KHXH, 1995, tr. 11-12, th́ tên đúng của cụ phải là Nguyễn Tần, sinh năm 1720, đỗ Giải nguyên năm 20 tuổi, mất năm 1800, thọ 80 tuổi, chỉ có một con trai. C̣n theo Lê Thước và nhiều nhà nghiên cứu khác, cụ thọ 84 tuổi (tức là sinh năm 1716, đỗ Hương giải năm 1739, lúc 24 tuổi, mất năm 1800), có nghĩa là năm Nguyễn Công Trứ ra đời cụ đă 62 tuổi, và có tất cả 3 con trai và 3 con gái (xem: Lê Thước. Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội 1928, tr. 6-7). Có một câu hỏi đặt ra là chẳng lẽ cụ đậu Hương giải rất sớm (năm 20 hoặc 24 tuổi), rồi được bổ làm Giáo thụ phủ Anh Sơn, mà măi 38 năm sau, lúc sinh Nguyễn Công Trứ, cụ vẫn là Tri huyện (huyện Quỳnh Côi)?
(2) Giáo sư Chương Thâu kể, ông c̣n nhớ thuở nhỏ thường nghe bà nội hát ru bài vè về đám ma cố Lớn (tức cụ Nguyễn Công Trứ) như sau: Nhất vui là đám cố Lớn, Dận bựa Mười bốn, Mắc cơn mưa rào, Hoăn lại bựa sau, Trời yên bể lặng…”. …(cố: cụ; dận: đưa tang; bựa: bữa, ngày; mắc: gặp…(tiếng địa phương).
(3) Nguyễn Công Trứ đọc theo giọng Nghệ, câu này dịch ra tiếng phổ thông là:
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đă sướng chưa?
Trong tiếng Nghệ, “chữ” đọc là trự; “trự” vừa có nghĩa là “chữ nghĩa”, vừa có nghĩa là “đồng tiền” (trự tiền); Quan vừa có nghĩa là “quan tiền” (một quan là 100 đồng/trự), vừa có nghĩa “quan chức”. Câu của cậu Củng có thể hiểu theo hai nghĩa: 1, tưởng đánh chơi dăm ba đồng, nào ngờ mất đến cả quan; 2, học ba chữ chơi chơi mà cũng được làm quan, sướng chưa?
(4) Giai thoại về câu đối này phổ biến ở nhiều địa phương với nhiều nhân vật khác nhau, như Cao Bá Quát, Lê Công Hành,Nguyễn Bá Lân...
(5) Người Nghệ gọi ông đầu rau là ông núc bếp; câu này c̣n có ư diễu cợt: khách khứa ǵ mà lại xông (núc) vào bếp nhà người ta!
(6) Trai chay: Trai giới và chay tịnh. Tiếng Nghệ chữ “vại” (vật bằng sành dùng để đựng cà) và “văi” (ni cô) đều đọc như nhau, nên câu này c̣n có ư trêu chọc: Người / nơi trai chay sao lại có (bà) văi cà (động từ: áp sát, cọ xát) ông sư?
(7) Cái hay là kệ đối với kinh. Mặc kệ là bất chấp. Câu này có ư nói làm sư đi tu là không giữ trọn đạo quân thần phụ tử, dầu có đọc hết kinh sách cũng không phải là người tốt.
(8) Đầu phủ là người đỗ đầu trong một ḱ khảo hạch tại phủ.
(9) Hai câu này lấy từ hai câu tục ngữ: “Đánh trống trước cửa nhà sấm” và “Mang chiêng đi đánh đất người”, ư nói: tôi đâu dám khoe khoang trước một người tài giỏi như ông, nhưng v́ ông đă muốn thách thức th́ tôi cũng đành thể hiện vậy.
(10) Câu thơ vừa tả thực vừa ẩn dụ đầy khẩu khí. “Ba vạn anh hùng” là ổ rơm (anh hùng rơm!), “Chín lần thiên tử” vừa chỉ nhà vua, vừa chỉ chiếc chiếu (trùng âm với chiếu chỉ của nhà vua, và chiếu chỉ nhà vua thường bắt đầu bằng câu “Cửu trùng thiên tử chiếu”.
(11) Nhà bay: các người; tau: tao; giừ: bây giờ (tiếng địa phương).
(12) Cái tài ở bài thơ này là câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm, nhưng vẫn mang được nghĩa thông thường và tỏ rơ ư tác giả xin khất nợ. Bát văn là tên quân bài vẽ một thân h́nh dài, có vẻ yếu ớt, thường ví như thân học tṛ; Bán chi là tên quân bài, vừa có nghĩa là bán (cái, vật) ǵ; Không thang là tên quân bài, vừa có nghĩa là không có thang (để leo lên trời); Lục sách là tên quân bài, vừa có nghĩa lục t́m trong sách vở, ư nói c̣n chờ học hành đỗ đạt; Nhất văn là tên quân bài, vừa có nghĩa là vừa nghe (lấy ư trong câu Nhất văn thiên tử chiếu, tứ hải trạng nguyên tâm, nghĩa là Vừa nghe chiếu vua (mở khoa thi), bốn biển đă nức ḷng muốn chiếm trạng nguyên); câu này c̣n có ư: khi tôi đỗ đạt rồi chẳng thiếu tiền; Tam vạn là tên quân bài, lại vừa có nghĩa là ba vạn ngày con người sống ở đời (trong khoảng trăm năm); Nhất sách là tên quân bài, vừa có nghĩa là một mưu kế ǵ; Ông lăo cũng là tên quân bài, lại vừa có nghĩa ông lăo chủ nợ...
(13) Câu này có bản chép Dần dần ngoài cửa mới đưa vô. Câu này kết hợp với những câu cuối bài tạo thành ư rất hóm hỉnh, nghịch ngợm.
(14) Chừng mô: chừng nào (tiếng địa phương).
(15) Có người c̣n đọc là “nắng cực”.
(16) Mấn: váy (tiếng địa phương).
(17) Nố tê: cái kia (tiếng địa phương).
(18) Bầu: bầu rượu. Bầu lăn chiêng là v́ không có rượu. “Chiêng” đối với “trống” ở câu dưới, thật chỉnh.
(19) Ngày xưa, câu đối Tết dán nhà cửa thường có Ngũ phúc lâm môn / Tam dương khai thái. Ngũ phúc lâm môn (năm điều phúc vào cửa) là: Thọ (sống lâu); phú (giàu sang); khang ninh (b́nh an, khỏe mạnh); du hiếu đức (ham làm việc phước đức); khảo chung mệnh (sống trọn tuổi Trời cho). Tam dương khai thái: theo Kinh Dịch, ba hào dương (ba vạch liền) mở ra quẻ Thái tượng trưng cho mùa xuân tốt lành.
(20) Thời hành Hạ: lấy ư từ câu cổ văn: “Hành Hạ chi thời, phục Chu chi miện...”, nghĩa là “Thời tiết th́ theo nhà Hạ, mũ miện th́ theo nhà Chu”.
(21) Be củ tỏi: ve (chai) nhỏ, có h́nh củ tỏi, cổ dài, thân tṛn, người xưa thường dùng đựng rượu.
(22) Chuyện cà riềng: chuyện con cà, con kê. Lưu ư: cà riềng đối với củ tỏi rất chỉnh.
(23) Chi: con chi chi.
(24) Câu thành ngữ này c̣n đọc là “(tốt mă) dẻ cùi” - dẻ cùi là một loài chim.
(25) Con văn chương: c̣n gọi là con học tṛ.
(26) Về hưu, cụ Thượng Trứ thường cưỡi cỗ xe ḅ cái với tấm mo cau “Che miệng thế gian”.
(27)Nguyễn Công Nhàn (1789 - 1872), quê ở Phú Hoà, Phú Yên, làm quan dưới ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, từng giữ chức Tổng đốc, Thống chế, có thời cùng với Nguyễn Công Trứ cầm quân đánh quân Xiêm.
(28) Có dị bản đọc là: “Sông Nhị Hà ba mươi thước nước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hoành Sơn, tưởng đương sơ Thang Vơ chi hưng. Ông loèm ông loẻm ông loem, tổng bất ngoại ḅ vàng chi liếm lá!”.
(29) Về câu đối trong giai thoại này, có người c̣n kể “độc” hơn như sau: Câu của Nguyễn Công Trứ ra là “Chống chỏi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa ḍng sông ngăn đá, nên chi mồm ông phủ Thạch Hà hà!”, c̣n thằng bé đối lại: “Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng, bởi thế đồ bà huyện Kim Động động!”.
(30) Hà là sông, tĩnh là lặng.
(31) Hải là bể, yên là yên.
(32) Miệng hay đối với của kín! Lời lời châu ngọc đối với hàng hàng gấm thêu!
(33) Tam tiên tam tổ đối với bát đảo bát điên.
(34) Mặt người dạ thú đối với miệng Phật ḷng xà.
(35) Thân ngoại chi vật: vật nằm ngoài thân thể.
(36) Trợ Kiệt vi ngược: giúp vua Kiệt làm điều bạo ngược.
(37) Án sát: chức quan coi việc h́nh trong một tỉnh. Viên Án sát nói đến ở đây nguyên làm Án sát Quảng Nam, v́ mang tiếng hách dịch và tham nhũng nên phải đổi ra Nghệ An.
(38) Tổng đốc: chức quan đứng đầu trong một tỉnh (Thủ hiến). Viên Tổng đốc Nghệ An nói đến ở đây là Vơ Trọng B́nh (1807-1898), quê ở Quảng B́nh, đỗ Tiến sĩ, ít tuổi hơn Cụ Trứ và về hưu sau, cũng là vị quan thanh liêm nên hai người kính trọng nhau đă lâu.
(39) Chi tiết dựa theo bài viết Suy nghĩ trước mộ một nhà thơ của Song Ân, báo Văn nghệ số 48, tháng 11/1994.
Trả lời với trích dẫn