Đánh thơ
Giữa quăng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoàng Tôn Tuyên hoàng đế, đất Thuận Hóa có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ.
Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đă thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời.
Cái thời ấy là thời của Nhà nước Bảo hộ tạm gọi là yên trong cuộc b́nh định. Nơi quê hương, vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc c̣n gửi măi về cái mùi diêm sinh đem từ ngoài bờ cơi vào. Nhưng, mặc kệ, dưới chân một nếp hoàng thành, bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng đàn hát trên mặt nước một con sông nông ḷng và không gợn chút tăm cá, đă vẳng đưa ra rất rộng. Thấy thế, một vài ông già mặc áo vải, mỗi lúc chống gậy trúc ra bến, ngắm bóng nắng tàn rụng phía bên tả ngạn sông Hương, đă thốt ra những lời than thở.
Nhưng, giọt lệ già của người mặc áo vải rỏ rơi xuống th́ cát nơi băi sông cứ việc thấm hút và uống cạn. Và có một cái ǵ vẫn c̣n lại măi măi ở hai bờ sông Hương th́ vẫn chỉ là những tiếng hát. Tiếng đàn hát của giai nhân.
Họ là một bộ ba có ba cái tên rất đẹp, rất thơ mộng: một người là Mộng Liên, một người là Mộng Huyền và một người nữa tên là Mộng Thu. ở Huế, những cái miệng tuổi tác đă bắt đầu theo thị hiếu mà nói luôn luôn đến ba cái Mộng xinh kia và luôn luôn tấm tắc: "Thần kinh hữu tam Mộng".
Giữa cái thế giới đàn sáo của thành đô, ba cái Mộng xinh đẹp mỗi đêm rải rác ra mọi bến đ̣ tản mát ở dọc sông Hương, những cái sở đắc về thanh và sắc của ḿnh.
Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ trôi một ḿnh theo những cái xoáy nước yếu đuối. Mỗi đêm, ba cái Mộng gơ một nhịp phách, bấm một dây tơ và để rồi phá cười lên vài trận. Để cho cái xă hội đàn ông mặc áo xanh ẩm ướt phải thèm muốn. Thế rồi trong một đêm tốt đẹp, có một ông Phó Sứ giữ lăng, đă đứng lên làm chủ cho một cái Mộng. Mộng Liên đă về hẳn với quan Phó Sứ.
Một cái miệng cười, mười ngón tay tháp bút trước kia là của chung thiên hạ, bởi v́ nó không có sở cứ, bây giờ đă trở nên của riêng một nhà. Cặp vợ chồng ấy là một lứa đôi tài tử.
Ông bà Phó Sứ giữ lăng không mấy khi ở yên một chỗ.
Cái nghề của họ buộc họ phải xê dịch luôn luôn và măi măi. Suốt một dải Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức này.
Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh. Cái chiếu bạc thả thơ của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đă để dấu giầy trên mọi chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ. Họ nhờ vả cổ thi, kiếm ra cũng được rất nhiều tiền. Nhưng cái giống lăng tử cầm tiền thường không nóng ḷng bàn tay và có mấy khi họ nghĩ đến sự bảo hiểm cho ngày mai của ḿnh. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa bao giờ nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào.
Quê hương của họ là Cờ bạc và Đờn hát. Nhà cửa đôi lưu đăng ấy gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ. Cái lăi trong đời bấp bênh của họ là ở chỗ nhiều người đă nhắc nhỏm tới cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, mỗi khi lứa đôi chậm tới hay là đă lâu rồi mà chưa thấy trở lại. Người đánh thơ được, người đánh thơ thua xiểng liểng, ai ai cũng đều nhớ đến họ những khi xa vắng. H́nh như bấy nhiêu người đều nhận ông Phó Sứ là đáng mặt làm nhà cái cho những buổi thả thơ rất nên thơ; mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn thua từng mấy chục bạc, người ta đều ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều ngâm vang cả nhà, chừng như muốn thi nhau một cái giọng tốt, chứ đồng tiền mất đi hay thu về được gấp ba số đặt, thời có ǵ là đáng kể. Giữa hai tiếng bạc trên một chiếc chiếu la liệt những mảnh thơ đề, Mộng Liên đêm đêm kề đùi tựa má ông Phó Sứ, lại đánh đàn, lại ca Nam bằng, ca Nam ai.
Có lẽ không riêng ǵ ở một nơi, mà ở mọi nơi, những lúc sốt ruột chờ mong vợ chồng ông Phó Sứ trở lại với túi thơ, mỗi buổi gần giờ tan buổi hầu, những lúc việc quan thanh thản, bao nhiêu thầy thừa phái ở các ty Phiên, ty Niết và những ông Hậu bổ, Thông Phán tỉnh, Kinh Lịch đă nói những câu:
- Quái lạ, sao cữ này hai ông mụ đó đi lâu quá chưa trở lại thả thơ cho bọn ḿnh chơi hè!
- Đánh thơ của lăo Phó Sứ có cái rất thú là được thua chi chi, ḿnh cũng đều lấy làm thích cả. Bởi v́ lăo biết chọn những câu rất hay mà thả. Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đă làm cho bọn ḿnh lạnh hết cả người.
- Chẳng thế mà quan Kinh ngài đă mấy lần phải bán lương non, thua nhẵn.
- Chơi cái ǵ th́ chơi, chứ đến cái lối đánh thơ thả, cái nghiệp những anh đă hay chữ lại thêm tự phụ, là chỉ măn kiếp thua không c̣n lấy một đồng một chữ tiền.
- Và có nhiều đứa dốt cay dốt đắng, th́ lại mỏi tay vơ tiền.
- Quan bác có biết tại sao không? Đệ cho không có cái nào lợi hại bằng lăo Phó Sứ. Hắn lấy ư tứ ra mà ḍ tiếng bạc của từng người. Nếu lăo biết quan bác thích lối thơ liệu, đọc lên âm thanh và niêm luật tṛn trĩnh, nhịp nhàng, thế nào lăo cũng ŕnh lăo thả một đôi chữ rất quê kệch hay là khổ độc. Quan bác mấy khi lựa những chữ quê kệch mà đặt tiền. Vậy nên lăo ṿng những chữ rất ngớ ngẩn đó. Thế là quan bác mất nghiệp, nếu bữa đó, quan bác lại đặt tiền đến tột cửa. Và lăo lại c̣n bán cho mấy cửa đánh những chữ ngô nghê mà lăo biết trước sao ḿnh cũng khinh rẻ.
- Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Ngài nghĩ, tôi đă bắt thóp được một câu do sự vô ư của mụ Mộng Liên. Nguyên hôm ấy, lăo Phó Sứ cho thả năm chữ: cầm, thử, đan, thiếp, sầu trong một câu thơ mà lăo "ṿng" chữ đầu "Ṿng tâm duy hữu dạ đăng tri". Kể cũng khó đánh đấy chứ. "Ngọn đèn dầu ban đêm soi tỏ, biết cho tấm ḷng ǵ?" Ḷng đàn? Ḷng son? Ḷng một thiếu phụ? Ḷng sầu? Phân vân lạ. Bỗng tôi thấy mụ Mộng Liên ngồi cạnh, nh́n chăm chú vào chữ thả đứng đầu là chữ cầm, rồi mụ thánh thót bấm khẽ mấy tiếng đàn nguyệt. Tôi đánh ngay chữ cầm ngài ạ. Tôi đoán già là lúc ở nhà ṿng chữ, chồng đưa đùi cho vợ gối, lăo Phó Sứ đă bị tiếng đàn của vợ dạo lên buổi đêm ảnh hưởng nên lăo mới thả chữ cầm. Và đánh chữ cầm, thế nào cũng ăn. Hôm ấy tôi đặt hai chục được sáu chục và muốn tỏ ư cám ơn người đánh đàn một cách kín đáo, hôm sau tôi đă mua biếu Mộng Liên một cây đàn nguyệt có bốn cái trục bằng ngà voi nẩy. Đấy, chơi thơ, nhiều khi tâm lư nhiều vào là ăn.
- Tâm với lư ǵ. Có biết thơ thả, lăo Phó Sứ thường mua lại của ai không? Mua của Tào Sắt bên phủ Tuy Lư Vương! Hai ba đồng, tiền công ṿng một trăm câu. Thơ Tào Sắt mà thả, th́ đừng có ḥng mà ăn.
- Này, các ngài có được rơ câu chuyện lăo Phó Sứ dám thuê thợ bên Tàu khắc riêng cho ḿnh mấy tấm thạch bản in thành một tập thơ mỏng không? Lăo ra khuôn mẫu cho họ in nhiều câu có những chữ lạ, rất ngộ nghĩnh và mỗi khi đem câu đó ra mà thả thực không ai ngờ đến. Nhưng chỉ có khi nào đánh to lắm, lăo mới giở đến bí thuật này. Lăo t́m đến những quan to và có tiếng là hay chữ, lăo mới thả một hai câu thật gay go. Các quan thua, đ̣i lăo phải dẫn chứng cổ thi, lăo giả vờ bịt tên sách lại, che kín lề, mép và gáy cuốn thơ, chỉ cho xem đủ cái câu thả đó và đủng đỉnh, tủm tỉm tŕnh với cả làng rằng đó là một câu thơ Tống. Thật là rơ ràng chữ thạch bản, chữ tuy nhỏ bằng con kiến, nhưng đeo kính vào xem, chữ không nḥe lấy một nét. Nhiều người thua cay, thường chỉ tự trách ḿnh xem cổ thi ít quá và tặc lưỡi kêu: "Cổ nhân dùng chữ úp mở uyển chuyển quá đi thôi. Họ cậy có tài, tự cho ḿnh cái quyền hạ những chữ quá lắt léo, đem cái quyền lực của sáng tạo ra mà làm bọn ḿnh đảo điên cả nhận thức và cả tiền bạc nữa. C̣n ai biết đằng nào mà lần nữa". ấy một năm lăo Phó Sứ dùng lối thả thơ sanh tử như thế độ một đôi lần, đủ gỡ lại những bữa thua to. Chà! Nhưng mà nghĩ lắm lúc cũng tội. Vợ chồng họ nhiều khi thua nhẵn. Lắm bữa không có lấy một chữ tiền mà thửa dây đàn nữa. Và hai ông mụ phải vờ cáo bệnh nằm bệt một nơi có khi đến hàng tháng.
- Cụ Tuần trước ở đây, chơi không được lịch sự, thành thử vợ chồng ông Phó Sứ họ cũng đâm nhờn. Ai đời đi mặc cả với họ mỗi buổi đánh thơ xong, phải đưa cho ḿnh một số nhất định là bao nhiêu, mặc dầu họ thua hay là được. Không những thế, Cụ lại c̣n quấy nhiễu họ giữa những tiếng bạc lớn. Lấy tiền nhà cái, lúc năm đồng, lúc mười chữ, tẹp nhẹp quá. H́nh như Cụ c̣n chớt nhả với cả mụ Mộng Liên nữa.
- Th́ cũng phải lấy hồ chút ít chứ sao? Có thế th́ những buổi hội giảng đầu tháng bên ṭa bên tỉnh xong, Cụ mới giữ các quan phủ huyện lại cho chớ? Vậy chớ ai trả tiền những mâm rượu linh đ́nh giáo đầu cho mỗi cuộc thả thơ?
- Cái ông huyện B́nh Khê, người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ. Ông ta chúa hay vờ vĩnh. Nhà cái chưa thả thơ xong, ông cứ vờ vĩnh giục ồn lên những là lâu và làng đặt tiền chậm như thế th́ một đêm, phỏng thả được mấy câu thơ. Thế rồi ông vồ lấy lá thơ đặt ở giữa chiếu, dọa mọi người nếu không đặt tiền nhanh lên th́ ông thổi tuột lá thơ ra và xin làng, nếu nghĩ lâu quá, th́ đợi đến câu sau hăy đánh vậy. Mỗi lần ông cầm lên đặt xuống lá thơ, cái mẩu giấy tàu bạch cuộn tṛn như tổ sâu kèn lại nới giăn dần ra một chút. Và ông đă hé nh́n được chữ ǵ viết trên đầu giấy, cuốn tṛn tận ṿng trong cùng lá thơ. Mắt ông ta nhanh như cái cắt. Có lần ông Phó Sứ ṿng một chữ bút, ông huyện vờ xin thổi thế nào mà nh́n được cái nét sổ dài. Rồi là có bao nhiêu tiền đem đặt vào chữ bút đến tột cửa! Nhưng, mụ Mộng Liên xem chừng cũng hiểu, nên mỗi lần sau, ông huyện B́nh Khê động tay vào lá thơ là mụ lại buông tay đàn, chận lấy giấy và nh́n trừng trừng vào giữa mặt ông huyện có tính gian giảo kia.
Đêm hôm đó người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch. Mọi người tụ tập ở đấy đều lấy thế làm vừa ḷng. V́, ít ra, ở đây, người ta cũng chơi bời có phần được tự nhiên hơn ở trong dinh các cụ. Ông Kinh Lịch là một người trọng cái sạch sẽ của tâm hồn, nói to cùng mọi người là ông không thu tiền hồ. Ông chỉ yêu cầu ai được thơ nhiều nhất th́ nên cho người lăo bộc nhà ông một số tiền nhỏ mọn để đền lại cái công nó làm dầu, làm đèn, nấu cháo và bưng điếu. Ông Kinh lại c̣n khẩn khoản với mọi người đừng nên làm huyên náo nhà cửa lên. Ông vui vẻ nói:
- Đă hay rằng vớ được câu thơ hay, ai mà chẳng muốn ngâm vang lên. Thứ nhất lại ngâm vang câu thơ thả ḿnh vừa đánh trúng cái chữ hiểm hóc, th́ ai mà bụm miệng được. Một người ngâm, cả làng phụ họa vào, ồn ào bằng vỡ chợ, cái đó cũng là thường t́nh. Nhưng, tôi xin các ngài biết cho là chúng ta ở trong thành, gần ba dinh Cụ Lớn, ḿnh không nên làm náo động quá. B́nh khe khẽ, đủ nghe với nhau thôi.
Cả một lũ con bạc lên mặt tài giỏi, nh́n ông Kinh Lịch cười hóm hỉnh và khoan thai bước vào chiếu giữa. Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây sáp nữa đă gắn sẵn vào đế đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến, chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một b́nh hoa rộng miệng chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ măn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh, của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đă lầm rằng thuốc của ḿnh là ướp ủ bằng hoa huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng rận. Ông Phó Sứ vừa gỡ túi thơ vừa hỏi làng:
- Dạ thưa, có đánh thơ cổ phong không? Và có đánh chữ chân không?
Một con bạc ít tuổi và chừng như mới tập tơng lối chơi chữ này, hỏi lại:
- Đánh thơ cổ phong? Thôi, nếu thả thơ cổ phong th́ anh em ở đây đưa tiền cho ông tiêu hết. C̣n đánh chữ chân là thế nào?
Ông Kinh Lịch đang nằm bên khay đèn, ngồi nhổm dậy nói chơ xuống chiếu dưới:
- Cái ông thừa nhà tôi đến hay lẩm cẩm. Đă đi đánh thơ đ̣i ăn tiền thiên hạ, c̣n hỏi lục vấn thế nào là chữ chân. Thưa ông, câu thơ bảy chữ, đem ṿng chữ thứ bảy cuối cùng cho làng đánh, thế gọi là đánh chữ chân ạ.
- Nếu thế th́ đánh cả chữ trắc và cả chữ bằng à? Thôi, xin làng cứ theo như lệ mọi khi mà đánh. Đây, chúng tôi không phải là thi bá, không dám đánh chữ vần, chữ chân.
Ông Phó Sứ và Mộng Liên nh́n nhau cười; vợ chồng có ư bảo thầm nhau rằng làng cũng khôn đấy nên mới không dám trêu vào lối đánh thơ hiểm hóc này.
Lá thơ đầu tiên đă ra khỏi miệng túi gấm vẫn khư khư nằm trong tay Mộng Liên. Cả làng chăm chú nh́n và ngâm ngợi và ngẫm nghĩ. Cái ǵ mà ".... thượng, mai khai, xuân hựu lăo"? Cuối lá thơ thả, có sẵn năm chữ thả viết xương kính: tái, sơn, đ́nh, mộ, Văn. Cả làng ngâm:
- "Ṿng" thượng, mai khai, xuân hựu lăo.
Vẫn lời cái ông thừa trẻ:
- Tái, sơn, đ́nh, mộ, Văn. Ta đánh chữ tái "Tái thượng, mai khai, xuân hựu lăo". Hoa mai... nở trên mặt ngọn ải... xuân lại già nữa.
Nghĩ ngợi lâu, ông thừa trẻ trở nên do dự. Thấy ông Thông phán tỉnh, người có tuổi và vốn sành về môn thơ thả, đánh chữ Văn, ông tỏ ư ngạc nhiên:
- Văn thượng, mai khai, xuân hựu lăo. Quái nhỉ! Sao lại Văn?
Rồi ông thừa cứ mân mê măi cọc tiền, không biết nên đặt chữ ǵ để ông Phó Sứ phải sốt tiết lên cắt nghĩa hộ cho bằng vẻ lễ phép ngụ nhiều ngạo mạn kín đáo.
- Thưa ngài, Văn là con sông Văn chảy qua đất Lỗ, quê đức Thánh Khổng. "Mai nở trên sông Văn, xuân lại già". Cụ Phán tỉnh đánh thơ như thế, câu đó ngài cho làm lạ lắm sao?
Và, xem chừng cả làng cũng không có một ai đánh thêm được đồng nào nữa, ông Phó Sứ xin làng cho phép ông được thổi lá thơ cuộn tṛn để tuyên bố cái kết quả tiếng bạc đầu tiên. Ông đă nhẹ nhàng cầm lá thơ, phồng má định thổi phù một cái. Một vài người vội vàng vứt thêm tiền đặt vào mấy chữ tái, sơn, đ́nh. chỉ có chữ mộ là không ai đánh cả.
Mộng Liên ngồi đánh được một phần ba bản đàn Nam b́nh*.
Thế rồi tiếng bạc mở.
Và cả làng đều ngă ngửa ra khi đọc rơ lá thơ thả kia là câu: "Mộ thượng, mai khai, xuân hựu lăo". Cả làng nhao nhao:
- Ô, cổ nhân dùng chữ ác thật. Hoa mai nở trên nấm mồ, xuân càng già. Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô mà lần, mà đoán.
Ông Phó Sứ trước khi vơ tiền cả làng, v́ không ai đánh chữ mộ, ông đă vội tŕnh với làng một trang sách thơ mở rộng. Và tay vừa chỉ một ḍng chữ in nhỏ, mồm vừa nói:
- Thưa với làng, câu này lấy ở bài Tọa phóng hạc đ́nh của Từ Dạ.
Bao nhiêu bộ mặt tâng hẩng đều cúi cả vào trang cổ thi và ề à ngâm lại:
- "Mộ thượng mai khai, xuân hựu lăo; Đ́nh biên hạc khứ, khách không hoàn". Hay, hay thiệt.
Ông Kinh Lịch đêm ấy thua to. Ông truyền cho người cuốn chiếu bạc và ân cần dặn vợ chồng ông Phó Sứ tháng sau có trở lại th́ thế nào cũng phải tổ chức cuộc thả thơ ở ngay nhà ông cho ông gỡ lại. Ông c̣n nằn ń xin ông Phó Sứ làm quà cho ḿnh tất cả những lá thơ đă dùng đánh suốt một đêm qua. Thấy nhà cái trù trừ, ông Kinh Lịch nói dỗi:
- Có cho, th́ tôi giữ làm chút kỷ niệm.
Ông Phó Sứ cười, trao vào tay ông Kinh mấy chục lá thơ đă dùng đến nhầu nát rồi và thắt chặt lại miệng túi gấm c̣n đựng đến gần trăm lá thơ khác chưa dùng đến c̣n phong kín cái bí mật một chữ thơ. Rồi nhà cái nhà con chắp tay từ biệt nhau với một câu đính ước: "Cữ thượng tuần tháng sau, xin lại gặp nhau ở đây nữa".
Nhưng ngày thượng tuần tháng sau, ông Phó Sứ và Mộng Liên không trở lại. Rồi quá cữ trung tuần, rồi qua luôn cả cữ hạ tuần. Nhiều khách thả thơ đă dầy công chờ đợi vợ chồng ông như một cái bóng chim như một cái tăm cá.
Một hôm có người ở kinh ra, nói chuyện cùng ông Kinh Lịch:
- Ông Phó Sứ chết ở chân Đèo Ngang rồi. Mộng Liên giờ là người góa và đang lúng túng t́m người giữ cho cây đàn. Số là đi qua Hoành sơn quan, thấy cảnh đẹp, ḷng sinh t́nh, hai ông mụ đă yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la. Ngay chỗ dưới chân ngọn tường ải có chữ "Đệ nhất hùng quan" của đức Thánh tổ ngự phê ấy, ông ạ. Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đă hóa ra ma chết đường. Mộ để sát ngay bên đường thiên lư. Cái giống ma trơi này, sẽ thiêng vô cùng. Rồi đây những lúc thanh vắng, những lúc trăng băi gió ngàn, hồn ma tha hồ mà trêu ghẹo khách bộ hành vô Kinh đấy ông ạ. Cám cảnh cho lăo, đâu có bậc thời sĩ quê vùng Ngũ Quảng có làm đôi câu đối điếu. Xin đọc ông nghe:
Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi,
Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.
|