
23-08-12, 07:33 PM
|
 |
Member
|
|
Tham gia ngày: Feb 2011
Bài gửi: 225
Thanks: 1
Thanked 441 Times in 181 Posts
|
|

Bài thơ Nửa đời và bốn bi kịch lớn của con người
1. Bi kịch thứ nhất: Bi kịch trong t́nh yêu
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo măi
Vẫn không thấy bờ.
Với giọng thơ lục bát nhưng Thanh Trắc Nguyễn Văn đă vận dụng lối ngắt nhịp biến 2 câu thơ lục bát 6- 8 thành 2- 4 - 4 - 4 để tạo nên một âm điệu vừa trữ t́nh vừa khoắc khoải bi thương. Yêu như trong bài thơ th́ làm sao giữ ǵn hạnh phúc được? Yêu là phải có nghị lực vươn lên. Tôi nhớ một bài thơ khác cũng của Thanh Trắc Nguyễn Văn, đă có một ư thức và một cách xử lư trong t́nh yêu hoàn toàn khác hẳn:
Cầm lên một trái khổ qua
Khổ mà kêu khổ đúng là khổ thôi
Yêu nhau leo núi vượt đồi
Chia bùi xẻ đắng khổ rồi cũng qua!
(Trái khổ qua – Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Bi kịch trong t́nh yêu chính là sự ủy mị, sướt mướt. Nước mắt chỉ làm người ta thương hại chứ không giữ được t́nh yêu. Khoảng những năm 1980 Liên Xô có bộ phim nổi tiếng Mat-xcơ-va không tin vào những giọt nước mắt. Nay qua bốn câu thơ đầu của bài thơ Nửa đời nên có thêm một thành ngữ mới: ”T́nh yêu không giữ được từ những giọt nước mắt”. H́nh ảnh và h́nh tượng bài thơ rất đắt: ”Nhỏ lệ làm sông”, ”Thuyền yêu chèo măi/ Vẫn không thấy bờ” gợi đến những h́nh ảnh đă có từ rất lâu trong t́nh yêu: ”biển t́nh”, ”biển ái” nhưng nghiệt ngă hơn rất nhiều. Cái giá phải trả của một người không có ”bản lĩnh” trong t́nh yêu cũng thật đáng thương ”thuyền yêu chèo măi vẫn không thấy bờ”. Thanh Trắc Nguyễn Văn đă khéo léo dùng tu từ và nghệ thuật đúc kết cho người đọc một kinh nghiệm trong t́nh trường mà chắc có lẽ anh đă từng ít nhiều trải nghiệm qua.
2. Bi kịch thứ hai: Bi kịch của những người muốn làm ”nhà thơ”
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “t́nh” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Chưa bao giờ nước ta lại có rất nhiều người làm thơ như hiện nay. Người làm thơ th́ nhiều nhưng những nhà thơ đúng nghĩa th́ lại rất ít. Thơ phải viết ra từ cảm xúc, từ nghệ thuật tinh tế. ”Sáng tác” thơ mà xếp chữ cho ra một bài thơ có vần, có điệu như quay một khối rubik th́ c̣n ǵ là thơ! Đó là ”thợ thơ” th́ đúng hơn! Tôi c̣n nhớ có lần nghe một ”nhà thơ ” tự phong ở một câu lạc bộ thơ nọ, tuổi cũng đă lục tuần, lên hội trường đọc những câu thơ ngô nghê như sau:
Sáng nay mùng tám tháng ba
Chào mừng đại hội các bà các cô...
Nghe thật tức cười nhưng cũng thật giật ḿnh v́ nghe đâu ”nhà thơ” này đă xuất bản được hơn tám tập thơ và hiện đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ chín! Thế mới hay làm thơ th́ dễ nhưng làm thơ để đi được vào ḷng người th́ khó vô cùng. Cái giá phải trả của những người làm thơ loại này là đến một lúc nào đó họ mới hiểu ra ḿnh đă quá dại dột. Họ làm thơ ”t́nh” nhưng chỉ để người ta xem xong và cười, có người c̣n xấu miệng hơn bảo họ là những kẻ háo danh. Đó chính là chữ ”khờ” của những ”nhà thơ” không có thực tài. Tuy nhiên đây là bi kịch rất dễ thương. Họ ”khờ” v́ sự đam mê nghệ thuật quá đáng của ḿnh. Có thể sự đam mê đó gây phiền nhiễu cho nhiếu người khác nhưng không hề gây ra nguy hại nghiêm trọng cho xă hội. Thanh Trắc Nguyễn Văn đă dùng tu từ nhân cách hóa cho chữ ”t́nh” và chữ ”khờ” để biểu hiện một cách thật sinh động và cũng thật hài hước:
Chữ “t́nh” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo
Nh́n chung Thanh Trắc Nguyễn Văn đă khá thành công khi anh tạo nên một tiếng cười vui nhưng đầy cảm thông cho loại bi kịch đáng yêu này.
3. Bi kịch thứ ba: Bi kịch trong kinh doanh
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo c̣n mang.
Đă là nhà thơ hầu hết ai cũng có chút bệnh ngông! Ở Trung Quốc có nhà thơ Lư Bạch nhảy xuống ḍng sông ôm trăng mà chết. Ở Việt Nam ta th́ có nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng đ̣i bán trăng trên trời! Nhiều người khác cũng thế, họ kinh doanh rất nhiều thứ và nhiều người trong số đó đă phải cam chịu thất bại, chẳng hạn như những người ”kinh doanh thơ”. Trong một bài thơ trào lộng nhà thơ Tản Đà cũng đă từng kể chuyện ông gánh ”đống thơ ế” lên bán chợ trời!
Ở đây Thanh Trắc Nguyễn Văn dùng tu từ ẩn dụ ”mảnh trăng treo” để nói lên những cái ǵ rất đẹp và rất nghệ thuật. Nhưng cái đẹp, cái nghệ thuật ấy chưa chắc đă kiếm ra tiền! Kết quả là ǵ? Là hơn ”nửa đời” người kinh doanh, đầu tư nhưng trắng tay vẫn hoàn trắng tay! Họ hoàn toàn hiểu những điều ǵ họ đă và đang làm nhưng chưa chắc họ đă nhận được sự đồng cảm của những người thân. Có những người luôn bị vợ hoặc con cái ch́ chiết là ”vô dụng” hoặc nặng nề hơn ”là đồ ăn hại” !
Câu thơ thật phũ phàng:
Tháng năm rơi trắng
Không sinh được lợi lại c̣n bị mất thời gian:”tháng năm rơi”. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ lại càng thêm chua xót. Thật đúng là ”Cơm áo không áo không đùa với khách thơ” (Thơ Xuân Diệu).
4. Bi kịch thứ tư: Bi kịch cho những người đi t́m hạnh phúc
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng t́m em.
Nhân vật trong bài thơ h́nh như yêu rất nhiều. Anh ta luôn mơ đến những mối t́nh cao và xa đối với những nàng hoa hậu chân dài. Những chuyện t́nh đó thật phù phiếm và không thực. Thanh Trắc Nguyễn Văn đă dùng h́nh ảnh rất sinh động để diễn tả :
Nhặt giấc mơ hoang
Vâng đúng vậy, loại t́nh yêu đơn phương chỉ một chiều, không cân xứng kiểu như Trương Chi yêu Mỵ Nương th́ quả thật đúng là một loại bi hài kịch xă hội. Đó là những ”giấc mơ hoang tưởng” không thực tế.
Thanh Trắc Nguyễn Văn đă dùng một từ rất ”đắc” đó là ”vấp”! "Vấp” chỉ xảy ra khi người ta không chú ư và giúp con người thật sự được ”bừng tỉnh”! Đă vậy, ở đây c̣n lại là ”vấp” vào nỗi ”nhớ”. Thật rất mới và rất lạ! Nhờ ”vấp” mà nhân vật trữ t́nh trong bài thơ chợt ”nhớ” đến một người con gái vẫn c̣n yêu thương ḿnh thật ḷng. Nhân vật vội vă ”bàng hoàng” đi ”t́m em”. Nhưng dù sao cũng đă hơn ”nửa đời” người rồi, không biết ”người ấy” đă mất hay vẫn c̣n trên dương thế? Nếu vẫn c̣n liệu người ấy có c̣n chờ đợi hay đă sang thuyền khác mất rồi? Than ôi!
Hùng Thanh
------------------------------------------------------------------
Nửa đời
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo măi
Vẫn không thấy bờ.
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “t́nh” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo c̣n mang.
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng t́m em.
(Báo Văn Nghệ Trẻ 14.12.2008)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
(Bài thơ và bài b́nh thơ đă được chọn đăng trên trang web văn học Lục Bát ngày 6.4.2012)
Nguồn: http://lucbat.com/index.php?tab=news&id=9790
|