Xem bài viết riêng lẻ
  #15  
Cũ 28-10-11, 09:27 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.797
Thanks: 45.828
Thanked 83.810 Times in 21.712 Posts
Mặc định

Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cơi sáng (Dharmata) là lúc tâm thức con người biến hiện rất tế nhị v́ các yếu tố vật chất tan ră hết và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: "Khi vật chất tan ră th́ nó chuyển qua h́nh thức nắng lượng v́ vật chất chính là các năng lượng đă đông đặc lại". Khi vật chất khởi sự tan ră, thần thức dường như bị tê liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối, không ư thức được điều ǵ nhưng khi bước sang giai đoạn Cơi sáng th́ họ thấy ḿnh lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là "lúc đêm chuyển qua ngày" hoăc "khi mặt trời chiếu sáng th́ bóng tối tan dần và sự thật phô bày rơ rệt". Mặt dù cuốn sách nầy hẳn một phần quan trọng để nói về Cơi sáng (the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính v́ thế, phần nầy đă tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn t́m hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân tích một cách khoa học. Đa số những người nầy v́ thiếu kinh nghiệm tâm linh nên đă giải thích cơi nầy một cách sai lạc như một "kinh nghiệm về ảo giác" và có nhiều ngộ nhận đáng tiếc.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: "Chân lư có thể được diễn tả một cách tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có tŕnh độ hiểu biết thâm sâu th́ họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng v́ số người nầy rất ít, do đó các danh sư đă phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu tượng bóng bẩy, các h́nh ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả nhưng cũng v́ thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những ǵ tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối".

Có nhiều người cho rằng đời sống ở cơi nầy rất thoải mái, sung sướng với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cơi trần như người khác lại cho rằng khi bản ngă đă tan hết th́ không c̣n chủ thể hay đối tượng nữa, tất cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đă vô phân biệt th́ đâu c̣n có ḿnh, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: "Đây không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, v́ cảm nhận hay kinh nghiệm c̣n có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà danh từ Phật giáo gọi là Tâm vô phân biệt hay Bất nhị".

Khi bước qua Cơi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đă xảy ra trong kiếp sống vừa qua một cách trung thực. V́ bản ngă đă tiêu tan hết, không c̣n thành kiến hay tham sân si, nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối v́ theo các danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả, chuẩn bị các "nhân" cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự sắp xếp nầy đă được người Tây Tạng sử dụng các h́nh ảnh, biểu tượng để diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái "Vô phân biệt" đến trạng thái "Phân biệt" hay từ "Bất nhị" chuyển qua "Nhị nguyên". Theo cuốn Tử Thư giai đoạn nầy kéo dài khoảng bảy ngày như sau:

Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các h́nh ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của sân hận vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên người ta thường không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ư hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư thiên. Sân hận được giải thích như một h́nh thức tự vệ của bản ngă, nó không dám để cho "ḿnh" tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà quay đầu t́m qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngă và cũng là động lực để ṿng luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới của chư thiên.

Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới A Tu La.

Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra c̣n có các vị kim cương hổ pháp và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia. Tuy nhiên các động năng của bản ngă cũng đồng thời trỗi dậy. Ḷng sân hận, kêu căn, nghi kỵ, ngă mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hăi không dám bước vào những cảnh giới ấy mà t́m cách tránh né và bỏ qua cơ hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác.

Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đă gần như hoàn tất vào cái thế giới "Bất nhị" của tâm vô phân biệt đă chuyển thành những cặp nhị nguyên, đối đăi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt. Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người, A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người ta bước vào giai đoạn thứ tư của ṿng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để tái sinh.

Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các h́nh ảnh nói trên không phải ở bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và phức tạp. Những năng lương nầy vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn v́ bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, v́ bị các động lực của bản ngă như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngă mạn, nghi kỵ che lấp nên người ta không thể ư thức được chúng. Chính v́ không ư thức được chúng nên người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong ṿng sinh tử luân hồi, nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngă, loâi bỏ các thoái quen của Thân, Khẩu, Ư chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát nầy. Một số học giả người Âu đă đặt câu hỏi: "Nếu người Tây Tạng nh́n thấy một vị Phật th́ một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy ǵ?" Sogyam Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă trả lời: "Đây không phải là một kinh nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các h́nh ảnh khác nhau. Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nh́n thấy Thương Đế, Đức Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự nh́n thấy ǵ ở chỗ ư thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo".

Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người b́nh thường, sự chết có thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đă được giải thích rất rơ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh thức để theo dơi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy ḿnh mê man trắng trong suốt và từ phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên măn, xuất hiện. Toàn thân ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các h́nh ảnh lạ lùng, tương trưng cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí suy luận của bản ngă bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật bằng bản ngă hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà t́m cách ẩn ḿnh dưới lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục.

Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang nghiêm không ǵ sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của kiêu căng, hănh diện, nghi kỵ vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi kia. Cái ḷng hănh diện của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn nh́n vào sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của loài người.

Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên ṭa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng nầy chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản vẫn c̣n phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng chói lọi kia. Ḷng tham lam của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ.

Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu, tay cầm một cái chày kim cương h́nh chữ thập xuất hiện. Chung quanh có một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các động lực của ḷng hănh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngă sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái ǵ tốt đẹp hơn, vinh quang hơn, đẹp đẽ hơn nó thay v́ ḥa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không Thành Tựu, nó lại t́m ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy ḿnh có thể chứng kiến tất cả mọi sự đă xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). V́ khi đó bản ngă đă tan ră nên họ có thể chứng kiến rơ ràng mọi sự xảy ra đúng với sự thật chứ không c̣n bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan sát các diễn tiến nầy, họ sẽ ư thức được luật nhân quả đă hành động như thế nào, v́ lư do ǵ mà sự kiện đă diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để chuẩn bị cho sự tái sinh sau nầy. Sự thu xếp nầy hết sức phức tạp v́ c̣n tùy theo những duyên nghiệp đă gây ra từ những kiếp trước. Chính những động năng nầy đă quyết định sự thành lập một bản ngă cho kiếp sống trong tương lai.

Tóm lại, chết không phải là hết v́ nó là điều kiện tất yếu của một kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp nầy đă hội đủ, kiếp sống phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đă tạo, làm nhân cho kiếp sống về sau. Đời sống kiếp trước tạo nhân cho đời sống ở kiếp sau, và kiếp sau là quả của kiếp trước, liên miên bất tận không chấm dứt, đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau khổ v́ đă nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt lấy những ảo giác của vô minh, monh kéo dài đời sống để thỏa măn dục vọng, tạo măi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi sinh tử.

Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh viễn chia ĺa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống cho rằng họ không thể làm ǵ hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng tiếc v́ thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng, việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư.

Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cơi âm tương tự với bảy ngày ở cơi trần hay bảy ngày ở cơi âm tương ứng với bốn mươi chín ngày ở cơi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức người chết c̣n đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến c̣n nặng nên thần thức người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ư thức được ḷng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có người lại cho rằng cơi bên nầy có tất cả bảy tiến tŕnh khác nhau, mỗi tiến tŕnh dải bảy ngày, và tiếp theo tiến tŕnh đầu như vừa diễn tả ở trên c̣n có những tiến tŕnh khác. Thay v́ gặp năm vị Phật th́ người chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể, năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào, thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong ṿng bốn mươi chín ngày thôi mà c̣n phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa. Ḥa thượng Dudjom đă viết: "Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ư nghĩa tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cơi bên nầy một thời gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên cơi nầy cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu thai".

Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn người chết là vô lư v́ người đă chết đâu để nghe được nữa. Ḥa thượng Chogyam Trungpa đă giải thích: "Hiển nhiên người quá cố không thể nghe bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ư thức được bằng thần thức (consciousness). V́ đây là sự theo dơi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ ǵ, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng nầy đ̣i hỏi sự chân thành. Có thành thật th́ người khác mới cảm nhận được, và có cảm th́ mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần tŕnh diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ư nghĩa tốt đẹp ǵ hết". Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngă đă tan ra hết th́ đâu c̣n ǵ để nghe nữa. Ḥa thượng Trungpa giải thích: "Không ai biết được người chết đang ở trong t́nh trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm th́ có thể họ không ư thức được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái nầy chỉ xảy ra trong một chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngă tan ră lại được sắp xếp theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cơi Sáng và chuyển thần thức để đầu thai), do đó họ vẫn có thể ư thức rơ rệt những sự kiện xảy ra chung quanh được". Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho người chết c̣n có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, th́ chắc chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn.

Một trong những vấn đề được bàn căi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật nầy đă gây ra một t́nh trạng nan giải trên phương diện pháp luật, luân lư, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác nầy quả thật vô cùng đáng sợ. Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời sống khi rút những máy móc nầy ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ t́m cái chết được không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không c̣n một hy vọng ǵ có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được nữa, lại là một vấn đề khác.

Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng, việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người chết. Dù cho người đó ở trong một t́nh trạng hôn mê (coma) nhưng thần thức của họ vẫn ư thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố gắng kéo dài đời sống nầy có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu, oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác sĩ Kubler Ross đă viết: "Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở cuối cùng c̣n hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các phương tiện nhân tạo". Linh mục Thomas Merton cũng đă viết: "Sự sống không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được v́ các máy móc nhân tạo nầy chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác". Nhưng làm sao được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều được giải bảo rằng "Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá", do đó mới có thảm trạng mà bác sĩ Melvin Morse đă diễn tả: "Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu, sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập th́ người ta sử dụng điện để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi th́ người ta sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi, khi óc ngưng hoạt động th́ người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay th́ các tṛ nầy mới chấm dứt".

Để t́nh trạng nầy xảy ra, ngày nay một số người đă phải làm di chúc rằng nếu không c̣n hy vọng ǵ cứu sống nữa th́ để cho họ ra đi một cách an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc nầy khá thịnh hành tại các quốc gia Tây phương và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc nầy khi họ phải vào bệnh viện.

V́ chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă khuyên: "Khi tim ngưng đập th́ người đó chưa hẳn đă chết, chỉ có phần vật chất đă ngưng hoạt động hay bắt đầu tan ră mà thôi. V́ phần tâm linh cần phải mất thêm một thời gian nữa mới tan ră (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị quyến luyến hay đau khổ thêm. Hăy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng v́ phần tinh thần c̣n đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được những sự ồn ào, náo nhiệt nầy mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận. Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng v́ thế mà bám vào các thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp nầy. Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người chết được văng sinh về cơi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo, điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rơ tư tưởng người sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu nguyện rất có ích v́ nó có thể giúp người quá cố b́nh tỉnh lại và cùng cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an lạc th́ chắc chắn th́ họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay rượu v́ những thứ nầy thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những loài ma quỷ đói khát t́m đến. Khi thần thức người chết c̣n đang dao động, chưa b́nh tĩnh th́ sự tiếp xúc nầy không có ích lợi ǵ cả. Nên tránh các h́nh thức ma chay to lớn, linh đ́nh hay các thủ tục phiền phức v́ các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp cho người chết được bao nhiêu. Hăy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất, hăy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu v́ đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự sắp xếp nhân quả chưa ngă ngũ rơ rệt, khi người chết c̣n có thể tỉnh thức để ḥa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát.

Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không c̣n quyến luyến thân xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa các năng lực c̣n sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực nầy vào những việc bất hảo. Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực nầy để lưu giữ âm binh, ḥng duy tŕ ảnh hưởng của tà môn.
Trả lời với trích dẫn
The Following 2 Users Say Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (28-10-11), Nhím con (28-10-11)