PL thích bài "Phong kiều dạ bạc" của Trương Kế:
Nguyên bản chữ Hán:
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Phiên âm Hán-Việt:
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
......................
* Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh
(thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà):
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
* Bản dịch của Tản Đà
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây băi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
* Bản dịch của Hồ Tiểu Tà
Neo thuyền bến Phong Kiều
Trăng tản, quạ rền, sương lăng đăng.
Sông- ngư, lửa- gió đối nghiêng sầu.
Nửa đêm đỗ thuyền nghe chuông vọng,
Cô Tô chùa cổ một Hàn Sơn.