Xem bài viết riêng lẻ
  #5  
Cũ 18-03-11, 11:09 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.797
Thanks: 45.828
Thanked 83.810 Times in 21.712 Posts
Mặc định

Chương 3


Công dụng của văn học Tàu. Như Chương dẫn đâù đă nói ,dân tộc Việt Nam, ngày từ khi thành lập đă chịu ảnh hưởng của văn hóa Tàu. Cái văn hóa ấy truyền sang nhước ta tuy do nhiều cách, nhưng thứ nhất là do văn học, tức là nhờ sự học chữ Nho và các sách chữ Nho của người Tàu đem sang. Chính cái văn học của người Tàu ấy đă chi phối tư tưởng, học thuật, luân lư, chánh trị, phong tục của dân tộc ta.
Trong các trào lưu tư tưởng của người Tàu tràn sang bên ta, có ảnh hưởng sâu xa đến dân tộc ta nhất là Nho giáo. Các sách làm gốc cho Nho giáo là Tứ thư và Ngũ kinh; các sách ấy vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ ở nước Tàu. Vậy ta phải xét những bộ sách ấy trước. Thoạt tiên xét về bộ Tự thư (bốn sách) gồm có Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử.

Đại học

A) Cuốn nầy là sách của bậc “đại học” cốt dạy cái đạo của người quân tử.
Sách chia làm hai phần:
1) Phần trên gọi là kinh, chếp lời đức Khổng tử. (1) có I chương.
--
(1) Khổng tử (551-479) , chính tên là Khưu, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn đông) trước làm quan Đại tư khấu, (coi việc h́nh ở nước Lỗ, sau được cất lên nhiếp tường sự. Sau v́ vua Lỗ không muốn dùng ngài, ngài đi chu du các nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần v.v. .. ) trong 14 năm, nhưng không ông vua nào biết dùng ngài. Ngài bèn trở về nước lỗ dạy học tṛ, san định các Kinh, làm sách Xuâ Thu để bày tỏ cái đạo của Ngài. Tuy ngài không phải là người sánglập ra Nho giáo v́ như ngài đă nói: “Thuật nhi bất tác, ngài chỉ thuật lại đạo giáo của cổ nhân mà không sáng tác ra ǵ, nhưngngài đă có công lớn đem cái đạo của thánh hiền thời thượng cổ mà phát huy ra và lập thành hệ thống để truyền cho đời sau; bởi thế ngài vẫn được coi là ông tổ của Nho giáo.
--
2) Phần dưới, gọi là Truyện, là lời giảng giải của Tăng tử (2) là môn đệ của Khổng tử có 10 chương.
Mục đích bậc đại học hay cái tôn chỉ của người quân tử, đă tóm ở câu đầu sách là: “Đại học chi đạo, tại minh chi đức, tại thân dân, tại chỉ ư chi thiện. Nghĩa là: Cái đạo của người theo bậc đại học là cốt làm sáng cái đức (đức tốt) của ḿnh, cốt làm mới (ư nói cải hóa) người dân, cốt dừng lại ở cơi chí thiện. Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức tính ḿnh cho hay, rồi lo dạy người khác nên hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.
C) Mục đích đă như vậy, phương pháp phải thế nào? Phải sửa ḿnh trước (tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (trị quốc) và làm cho cả thiên hạ được b́nh yên (b́nh thiên hạ). Cái phương pháp ấy là tuần tự mà tiến, tự ḿnh đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhất là việc sửa ḿnh, nên trong Đại học có câu:”Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản, nghĩa là: Từ ông vua đến kẻ thường dân, ai nấy đều lấy việc sửa ḿnh làm gốc.
--
(2) Tăng tử: xem lời chú số (2) ở chương thứ hai.
--
D) Nay muốn sửa ḿnh, phải thực hành theo cách nào?
Trước hết phải cách vật nghĩa là thấu lẽ mọi sự vật, rồi phải trí tri, nghĩa là biết cho đến cùng cực, thành ư: nghĩa là ư phải thành thực, chánh tâm, nghĩa là ḷng phải cho ngay thẳng. Bốn điều ấy phải theo htứ tự kể trên mà tiến hành, có làm được điều trên mới làm được điều dưới. Làm được bốn điều áy th́ th́ sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và b́nh được thiên hạ, mà làm trọn được cái đạo của người quân tử.

Trung Dung. Cuốn này là gồm những lời tâm pháp của đứcKhổng tử do học tṛ ngài truyền lại, rồi sau Tử tư là cháu ngài chép thành sách, gồm có 33 chương.

“Ông Tử Tư dẫn những lời của Khổng Phu tử đă giảng về đạo trung dung. Ngài nói rằng: Trung ḥa là cái tính t́nh tự nhiên của trời đất, mà trung dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, không lệch về bên nào: dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thương (4). đạo trung dung th́ ai ai cũng có thể theo được, thế mà không mấy người chịu theo. Khác nào như ai cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn mà biết rơ mùi vậy. Chỉ có thánh nhân mới theo được mà thôi, v́ theo đạo ấy cốt phải có ba cái đạt đức là trí, nhân và dũng. Trí là để biết rơ các sự lư, nhân là để hiều điều lành mà làm, dũng là để có cái khí cường kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng.
“Ông Tử tư lại dẫn lời đứcKhổng Phu tử nói về chữ thành, “Thành là đạo Trời, học cho đến bậc thành là đạo người” Đạo người là phải cố gắng hết sức để cho đến bậc chí thành. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rơ, và dốc ḷng làm điều thiện cho đến cùng. Hể ai làm được như thế th́ rồi ngu thành sáng, yếu thành ra mạnh, tức là dần dần lên đến bậc chí thành. Ở trong thiên hạ duy có bậc chí thành tức là bậcthánh, th́ mới biết rơ cái tính của Trời; biết rơ cái tính của trời th́ biết rơ cái t́nh của người; biết rơ cái t́nh của người, th́ biết được cái tính của vạn vật; biết rơ cái tính của ạn vật th́ khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy …
--
(3) Tâm pháp (tâm: ḷng; pháp: phép) là những điều đạo giáo thày tṛ dạy bảo truyền thụ cho nhau.
(4) Trung dung là đạo người quân tử ăn ở đúng mực, không thái qua, không bất cập. chữ dung ở đây nghĩa là không thay đổi.
(5) Trung dung XX.
--
“Sách Trung dung nói cái đạo của thánh nhân căn bản ở Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến người ta phải giữ ḿnh cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một ḿnh. Suy cái lư ấy ra cho đến sự nhân nghĩa, để khiến cho thiên hạ được b́nh trị và lại tán dương cái công hiệu linh diệu của đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thanh, vô sắc mới thôi. Thật là một quyển sách triết lư rất cao” (Trần Trọng Kim, Nho giáo, q1, tr.279-285)

Luận ngữ.

A) Luận ngữ (nghĩa đen là bàn nói) là cuốn sách chép các lời đức Khổng tử khuyên dạy học tṛ hoặc các câu chuyện ngài nói với những người đương thời về nhiều vấn đề (luân lư, triết lư, chánh trị, học thuật) do các môn đệ ngài sưu tập lại.
Sách ấy chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên lâư hai chữ đầu đặt tên). Các chương không có liên lạc thống hệ ǵ với nhau.
B) Sách luận ngữ cho ta biết những điều ǵ? – Sách Luận ngữ có thể coi là cuốn sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và mô tả t́nh t́nh, cử chỉ, đức độ của đức Khổng tử như phác họa ra một cái mẫu mực hoạt động cho người đời sau theo.
Xem sách ấy ta có thể biết được:

1) Nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử.
2) Phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt) của đức Khổng tử biểu lộ ra trong những chuyện ngài nói với học tṛ.
3) Cảm t́nh phong phú và ḷng ái mỹ của ngài.
4) Khoa sư phạm của ngài. Trong các lời khuyên dạy chuyện tṛ với học tṛ, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lư học tṛ và khéo làm cho lời dạy bảo của ḿnh thích hợp với tŕnh độ cảnh ngộ của mỗi người. có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của từng người (Xem bài đọc thêm số 1)

Mạnh tử.


A) Đó là tên cuốn sách của Mạnh tử (6) viết ra.
Sách gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn về một vấn đề.
B) Tư tưởng của Mạnh tử . Xem sách ấy, ta có thể nhận được tư tưởng của mạnh tử về các vấn đề sau này:
1) Về luân lư. a) Ông xướng lên cái thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ư ông, th́ thiên tính người ta vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sở dĩ thành ác là v́ làm trái thiên tính đi, ví như ngăn nước cho nó phải lên chỗ cao vậy (xem bài dọc thêm số 2).
b) Tính người vốn thiện, nhưng v́ tập quan, v́ hoàn cảnh v́ vật dục làm sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để muôi lấy ḷng thiện, giữa lấy bản tính. Mấy điều cốt yếu trong việc giáo dục ấy là: dưỡng tính (giữ lấy thiện tính), tồn tâm (giữa lấy ḷng lành), tŕ chí (cầm lấy chí hướng cho vững), dưỡng khí (nuôi lấy khí phách cho mạnh).
--
(6) Mạnh Tử (372-289) tên là Kha, người đất Châu (nay thuộc tỉnh Sơn đông), ở về đời Chiến quốc, học tṛ Tử tư cháu đích tôn Khổng tử) Ông hiểu rơ đạo của Khổng tự, lại có tài hùng biện, thường đi du lịch các nước chư hầu (Tề, lương, Tống, đằng), muốn đem cái đạo của thánh nhân ra cứu đời, nhưng không được ông vua nào biết dùng. Sau lúc gần già thấy cái đạo ấy không thể thực hành được, ông về nhà dạy học tṛ và soạn ra sách Mạnh tử. Ông là người có công to nhất trong việc làm sáng tỏ đạo lư Nho giáo và bệnh vực đạo ấy để chống với các học thuyết khác về đời Chiến quốc, nên vẫn được coi là bậc á thánh (gần bậc thánh)
--
c) Ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà ông gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân: bậc ấy phải có đủ bốn điêù là : nhân, nghĩa, lễ, và trí.
2. Về chính trị. Ông nói bậc làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài lợi th́ mới tránh được sự biến loạn và việc chiến tranh (Xem bài đọc thêm số 3)
2) Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế lắm. Ông nói: Người ta có hằng sản, rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc th́ mới sinh ra có ḷng tốt muốn làm điêù thiện. Vậy bổn phận kẻ bề trên làp hải trù tính sao cho tài sản củadân được phong phú rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bặt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ các phương lược mà các bậc vua chúa phải theo để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt.
C) Văn trừ trong sách Mạnh tử.Mạnh tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc, lại là một vậc văn gia đại tài. Văn ông rất hùng hồn, và khúc triết: ông nói điều ǵ, căi lẽ ǵ, thật là rạch ṛi, góc cạnh. Ông hay nói thí dụ: muốn cho ai hiểu điều ǵ, muốn bắt ai chịu phục lẽ ǵ, ông thường dẫn các thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét. Ông lại hay dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái thâm ư của ông (Xem bài đọc thêm số 4).
Kết luận. - Bộ Tứ thư là bộ sách gồm những điều cốt yêu của Nho giáo, ai muốn hiểu rơ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu bộ ấy. Trong bộ ấy, có nhiều câu cách ngôn xác đáng, nhiều chân lư đương nhiên đáng để cho chúng ta, bất kỳ là người nước nào, ở thời đại nào, ngẫm nghĩ suy xét và rất có bổ ích về đường tinh thần, đức hạnh của ta vậy.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (19-03-11)