|
|
Thông Báo |
#11
|
|||
|
|||
Cậu Jo gật đầu là lên tiếng cầu nguyện cùng với mọi người nhưng sau đó cậu lại chỉ tay vào cổ như bị sặc nước. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:
- Hỡi Thượng Đế kính yêu, hỡi đấng Đại Từ Phụ toàn năng, chúng con xin quỳ mọp dưới chân ngài để xin ngài giúp cho cháu Jo thoát khỏi các áp lực vật chất. Chúng con xin thành tâm phụng sự ngài, xin ngài tha thứ cho chúng con những tội lỗi mà chúng con đă phạm, xin ngài chỉ bảo cho chúng con một con đường sáng. Nầy Jo, cậu hăy đọc cùng tôi lời cầu nguyện sau: Xin đức Cha tha thứ cho tội lỗi của chúng con, xin đức Cha chỉ bảo cho con một con đường sáng, xin đức Cha giúp con tiến đến gần ngài, con nguyện cương quyết rời bỏ thể xác vật chất nầy để tiến lên cơi sáng của đức Cha. Con nguyện sẽ phụng sự ngài và tiến lên đời sống tâm linh tốt đẹp, con quyết tiến lên cơi sáng... Khi ông Piquet thốt lên lời cầu nguyện th́ cậu Jo lắng tai nghe một cách chăm chú, không c̣n ú ớ như trước rồi bỗng nhiên cậu cất tiếng đọc theo một cách chân thành. Khi vừa đọc đến câu cuối: "Con quyết tiến lên cơi sáng..." th́ cậu bất ngờ reo lên: - Ô nh́n ḱa! Ánh sáng! Ánh sáng đẹp quá... Cha mẹ ơi, ánh sáng đẹp quá... Con đă ra khỏi đường hầm tối tăm rồi, trước mặt con toàn là ánh sáng... Mọi người nín thở theo dơi. Bà Kunz Cảm động khóc thút thít. Cậu Jo reo lớn mừng rỡ: - Cha mẹ ơi, ánh sáng ở đây đẹp tuyệt vời! Con thấy nhẹ nhơm làm sao... Con có thể bay bổng lên được. Thích quá! Thích quá! Phải rồi, con không c̣n ở dưới nữa mà đă bước vào cơi sáng... Ở đây ánh sáng đẹp tuyệt vời. Cha mẹ ơi, con sung sướng quá, con đă được giải thoát rồi... Ông Kunz Mừng rỡ kêu lớn: - Phải lấy Jo con ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi. Suốt mấy tháng nay con không thể nói được nhưng bây giờ con đă nói được rơ ràng rồi. Ông Piquet ra hiệu cho mọi người cùng quỳ xuống chấp tay cầu nguyện: - Hỡi đấng Đại Từ Phụ, chúng con cám ơn ngài đă giúp cho cháu Jo. Chúng con yếu đuối không thể làm ǵ hơn là xin quỳ mọp dưới chân ngài và xin ngài chăm nom cho phần hồn của cháu Jo. Chúng con tin tưởng nơi ḷng bác ái cao cả của ngài... Cậu Jo nói lớn: - Cha mẹ ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi, tại đây con rất thoải mái an lành, xin cha mẹ đừng lo lắng ǵ nhiều về con. Nói xong, Jo cười một cách sung sướng rồi thăng. Mặc dù buổi cầu có kết quả tốt đẹp nhưng đa số mọi người vẫn không tin tưởng cho lắm. Một số bác sĩ đă nghi ngờ rằng đó chỉ là một màn kịch được đạo diễn bởi ông Piquet mặc dù họ không biết ông nầy làm thế với mục đích ǵ. Cuộc bàn căi trở nên sôi nổi hơn khi bác sĩ Kunz Có ư nghiêng về phía ông Piquet và tỏ ư chê trách các bạn đồng nghiệp đă quá khắt khe với những dữ kiện thu thập được. Sau cùng mọi người đồng ư sẽ tổ chức buổi nói chuyện với Jo thêm một lần nữa. Hai tuần lễ sau Jo trở lại, lần nầy cậu tỉnh táo hơn và đă nói như sau: - Cha mẹ ơi, khi xưa con chỉ biết nghĩ đến đời sống vật chất. Con nghĩ đến tương lai huy hoàng sau khi tốt nghiệp đại học. Con nghĩ đến những tiện nghi của đời sống như có một chiếc xe hơi, một căn nhà riêng, và một t́nh yêu thật đẹp. Chính v́ thế mà con không muốn rời bỏ trần nên cứ sống trong trạng thái bị ngộp nước suốt mấy tháng. Đó là do lỗi của con quá thiết tha với cái vỏ vật chất mà con không muốn từ bỏ. Bây giờ bước qua cơi sáng, con nh́n lại và thấy ḿnh quá ngu dại, lầm lẫn. Từ chỗ của con ở mà nh́n lại cơi trần, con thấy nó âm u, ảm đạm làm sao, khác hẳn với sự tươi sáng của cỏi nầy. Đời sống của con bây giờ đẹp lắm, đẹp không thể tả được. Phải chi khi vừa chết con biết được như vậy... Bất chợt quay qua một bác sĩ ngồi gần đó: - Cháu kính chào bá Morris. Cháu biết bác không tin tưởng ǵ ở những điều cháu nói. Cháu biết bác nghĩ cha cháu đă quá dễ dăi với những dữ kiện mơ hồ, không thể kiểm chứng nầy, nhưng bác ơi, cha cháu không lầm lẫn đâu. Làm sao cháu có thể nói cho bác biết được những điều cháu đă thấy hay đă kinh nghiệm được nơi cơi nầy cũng như những điều mà cháu đă thấy nơi cơi trần. Cháu không biết có nên nói tiếp nữa không...Thôi cháu cứ tŕnh bày và để bác tự quyết định. Cháu biết bác là người rất quư trọng thời giờ. Bác tin rằng thời giờ là tiền bạc nhưng nầy bác Morris, ở cơi bên nầy tiền bạc không c̣n quư báu nữa và cũng không có một giá trị ǵ. Thay v́ lo kiếm tiền, bác nên dành thời giờ để lo cho Yvonne, con gái của bác th́ hơn. Yvonne rất thương bác nhưng hiện nay cô ta đang đau khổ v́ nghĩ rằng không ai hiểu được sự cô đơn của cô ấy. Nầy bác Morris, bác chỉ có một người con gái độc nhất mà bác rất yêu quư nhưng bác lại quá lo lắng về vật chất mà quên rằng con của bác đâu cần những thứ đó mà chỉ cần sự thông cảm của người cha dành cho người con mà thôi. Nầy bác Morris, Yvonne đâu cần những số tiền khổng lồ mà bác cất giữ trong ngân hàng, cô cũng đâu cần những trương mục đầu tư của bác dành riêng cho cô ấy. Điều cô ấy cần là sự cảm thông và hiểu biết của bác ḱa. Cách đây mấy hôm, Yvonne đến gặp bác trong pḥng làm việc để khoe bức tranh cô ấy vừa vẽ xong nhưng bác chẳng những không để ư, c̣n nghiêm giọng bảo cô ấy đi ra chỗ khác để bác làm việc. Bác c̣n nhẫn tâm nói rằng: Đừng làm phí phạm th́ giờ quư như vàng của bác. Bác có biết Yvonne đau khổ như thế nào không? Cô ấy đă xé nát bức tranh và c̣n có ư nghĩ điên rồ là nhảy từ trên lầu xuống đất. May thay sau một lúc khóc lóc, cô ấy nguôi ngoai nhiều nên đă bỏ cái ư định dại dột ấy đi. Cháu thiết nghĩ bác nên suy nghĩ lại. Điều Yvonne thèm khát nhất trong lúc nầy chỉ là một câu nói yêu thương chân thành và dịu dàng của bác, mà điều nầy đâu có khó phải không bác? Bác sĩ Morris ngồi chết sững. Mỗi câu nói của Jo là một mũi kim xuyên vào tim ông. Làm sao Jo biết được điều nầy? Những sự kiện riêng tư nầy làm sao một người ngoài có thể biết được, từ khi họ quan sát nó từ một cơi giới nào đó? Liệu ông có nên tin những câu nói mơ hồ phát ra từ miệng một đồng tử như vậy không? Là một khoa học gia, ông không thể chấp nhận những điều "phản khoa học" như thế nầy được, nhưng ông cũng không thể phủ nhận những dữ kiện có tính cách cá nhân mà ông không ngờ nhất. Mặt ông dúm dó lại như đau đớn lắm. Sau cùng ông run rẩy nói: - Cám ơn... cám ơn Jo. Bác đâu ngờ sự t́nh lại xảy ra như vậy... Cậu Jo quay qua một người khác: - C̣n bác Franz Nữa. Có phải bác đang nghĩ rằng cơi giới bên kia cửa là một nơi náo xa lắm, xa như một tinh tú trên bầu trời mà người ta không thể đến được không? Bác sĩ Franz Giật nẩy ḿnh, ấp úng: - Phải... phải đấy... nhưng làm sao cậu lại biết? Jo cười lớn: - Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở cơi bên nầy người ta có thể đọc rơ tư tưởng của những người bên cơi trần một cách dễ dàng. Nầy bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cơi giới bên nầy rất gần với cơi trần và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên nầy. Để cháu lấy một thí dụ cho dễ hiểu: Khi bác mặc áo choàng là lúc bác ở cơi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra là bác đă qua cơi bên kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có khác ǵ đâu, vẫn y nguyên như trước đấy chứ. Bác không hề thay đổi ǵ, cũng như đi làm bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu th́nh ĺnh Chay bổng lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ. Nói một cách khác, khi từ trần người vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đă hư hại không cón sử dụng được nữa nhưng các giác quan mới lại bắt đầu làm việc. Sau một giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chỗ sáng, bị lóa mắt một lúc rồi mới có thể nh́n được mọi vật một cách rơ ràng th́ cũng như thế, nhờ các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể ư thức được cơi giới bên nầy một cách rơ rệt hơn. Điều đáng nói ở đây là sự quyến luyến với cơi vật chất, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại cứ nhắm mắt, không muốn nh́n ǵ nữa. Tuy họ không c̣n ở chỗ tối nữa nhưng họ cũng chưa thể thấy ǵ ở cơi sáng v́ nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê, đau khổ đ è nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng suốt, không ư thức và cũng hiểu biết ǵ. Ôi, cái tâm trạng sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, cứ vất vưởng trong trạng thái lúc từ trần, ở giữa hai cơi giới nầy thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được. Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp: - Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm về thế giới bên nầy. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn không chịu rời bỏ những ràng buộc vật chất. Số nầy rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang, đói khổ, không nơi nương tựa, không biết phải làm ǵ và cũng không chịu nghe ai. Phần con th́ rất thoải mái, muốn làm ǵ cũng được. Con có thể Chay lên Chay xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cơi sáng nầy hơn v́ mỗi lần đi trở lại cái đường hầm âm u tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn v́ thấy c̣n có những người cứ u mê, than khóc, buồn v́ cứ nghe những câu trách móc, than vang, những lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết. Mấy tháng trước con cũng như thế nhưng nhờ cha mẹ và mọi người cầu nguyện mà con tỉnh thức, thoát khỏi cái t́nh trạng kinh khủng kia. Bây giờ con đă hiểu rồi nên cố gắng giúp đỡ những người c̣n đang u mê để họ có thể tỉnh thức... Con làm việc ngày đêm không biết mệt và cũng không cần phải cung ứng nữa... Bà Kunz Giật ḿnh kêu lớn: - Sao, con không ăn uống ǵ ư: Cậu Jo cười lớn: - Ở bên nầy đâu ai cần phải ăn uống! Người ta sống bằng tâm thức chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa. Nầy mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khỏe của cha mẹ không c̣n như xưa, mẹ không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống. Phần con th́ không nghĩ ǵ đến việc ăn uống, thế mà sức khỏe của con lại hơn xưa v́ ở bên nầy thức ăn cần thiết là t́nh thương chứ không phải thứ ǵ khác. Cha mẹ ơi, lạ lùng lắm! Con nghiệm được rằng t́nh thương là sự cho ra chứ không phải nhận vào. Càng cho ra Chao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khỏe bấy nhiêu. Đó cũng là đặc điểm của cơi sáng bên nầy: Càng yêu thương Chao nhiêu, người ta càng nhẹ nhơm, sung sướng, thoải mái, b́nh an bấy nhiêu. Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những vong linh vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ: Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng đau khổ, oằn oại, thao thức như con đă trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ như thế cho đến lúc tỉnh thức. So sánh với hoàn cảnh của con th́ nhiều người c̣n khổ hơn nhiều, có người đă đau khổ như vậy đă mấy trăm năm rồi, không thể nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được. Chắc hẳn họ đă phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo chỗ con biết, họ là những người khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đă khô kiệt, chỉ c̣n những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải trong những nổi đau khổ cùng cực cho đến khi nào những động năng thù oán đó tiêu tan bớt đi. Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong ṿng mấy tháng thôi, v́ mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng ḿnh đă chết, cứ u mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống ở đâu cũng có cái hay, cái đẹp của nó. Nếu biết như vậy con đâu để ḿnh bị ngộp nước lâu đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đă nghiệm được, cha mẹ nên tŕnh bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đă trải qua. - Nầy Jo, con có thể cho cha biết tai nạn đó xảy ra như thế nào không? - Cha muốn con trở lại t́nh trạng khổ sở đó sao? - Không phải vậy, nhưng bây giờ con đă siêu thoát rồi. Cha tưởng con có thể cho cha mẹ biết sự việc một cách rơ ràng và khách quan hơn. - Cha mẹ biết rằng con rất thích bơi lội. Hôm đó sau khi thi xong, thấy làm bài trôi chảy, con bèn tự thưởng cho ḿnh bằng cách ra hồ vùng vẫy cho thoải mái. Con nhào lộn một hồi mà quên rằng ḿnh đă mệt v́ phải thức khuya học thi suốt mấy ngày liền. Con vừa bơi được một lúc th́ đuối sức nên bị ch́m xuống đáy hồ, mắc vào những cọng rong rêu. B́nh thường con có thể đạp chân để trồi lên được nhưng hôm đó mệt quá nên con hoảng hốt và bị sặc nước. Thật ra dù có trồi lên được th́ con cũng chết thôi v́ phận số đă đến lúc rồi. Việc ra đi cũng nhẹ nhàng chỉ như người ta lật một trang giấy thôi, nhưng con lại không muốn chết v́ con muốn bám víu vào cái thể xác vật chất. Con thấy ḿnh c̣n quá trẻ mà cuộc đời lại quá tươi đẹp nên không muốn chết, chỉ muốn trở lại với thể xác nên cứ mơ màng trong cái trạng bị sặc nước, cho đến khi được Ơn trên phù hộ giúp con tỉnh thức và hiểu biết. Trong lúc u mê, con không biết ǵ và cũng không hiểu ǵ cả nhưng con cảm nhận được tư tưởng yêu thương chân thành và nghe được những lời cầu nguyện của mọi người. Chính sự cầu nguyện đă giúp con tỉnh táo nhiều. Bác sĩ Franz Lên tiếng: - Nầy Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cơi giới bên đó không? - Được chứ. Cơi bên nầy không phải là nơi mà người đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn hễ ai rơi vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là một cơi sáng rất linh hoạt. Có lẽ nó c̣n linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cơi trần, nhưng sự linh hoạt ở đây không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng, b́nh an, thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một t́nh yêu thương tuyệt đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết. Trong sự b́nh an nầy, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đă xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và học hỏi để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. - Cháu nói sau? C̣n có một đời sống nữa hay sao? - Đúng thế. C̣n có nhiều cơi giới nữa chứ không phải chỉ có một cơi bên nầy mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu c̣n giới hạn nên cháu không biết rơ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ có lúc cháu sẽ trở lại cơi trần, dĩ nhiên dưới một h́nh thức nào đó. Theo sự biết của cháu th́ việc học hỏi ở bên nầy có tính cách lư thuyết c̣n phải mang ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. V́ người ta chỉ có thể kinh nghiệm được qua đời sống ở cơi trần mà thôi nên trước sau ǵ các vong linh cũng đều tái sinh trở lại. Cậu Jo quay qua cha mẹ: - Thưa cha mẹ, con đă nói tất những ǵ con biết về cơi giới bên nầy. Con xin cha mẹ cứ yên chí, đừng quá lo lắng ǵ nhiều cho con và cũng đừng gọi con trở lại nữa... sự liên lạc nầy không cần thiết, gây quyến luyến và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay rất bận rộn. Con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người đă cầu nguyện cho con, chính nhờ việc nầy mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân thành cho người chết có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức quan trọng mà mọi người cần nên biết. Khi từ giă cơi trần, người ta không thể mang theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà chỉ có thể mang được ḷng yêu thương và sự hiểu biết mà thôi. Chính ḷng yên thương là mănh lực duy nhất có thể vượt qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó măi măi, nó cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp người ta tiến hóa, phát triển ở cơi giới bên nầy. Người ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh nầy với hành trang quư báu và độc nhất là sự yêu thương mà thôi. Những điều con nói ra hôm nay cần được tŕnh bày cho mọi người biết rơ, đó cũng là lư do ông Piquet viết thư riêng cho cha để báo trước. Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều nầy không quan trọng, nhưng sự hiểu biết về cơi sáng và các áp lực vật chất sẽ là một hạt giống tốt gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phúc khổ sở lúc ĺa đời, người ta sẽ nhớ lại. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người luôn luôn được b́nh an, hạnh phúc. Trường hợp của Jo Kunz Là một trong hàng trăm tài liệu đă ghi nhận và soạn thảo thành hồ sơ một cách chi tiết. Một số khoa học gia cho rằng đây là tài liệu rất quư giá về cơi giới bên kia cửa tử cần phải được nghiên cứu rộng răi hơn. Một số khác chưa chịu chấp nhận các hiện tượng nầy v́ tính cách "mơ hồ khó có thể phối kiểm qua các định luật khoa học thực nghiệm". Do đó các nhà khoa học vẫn c̣n bàn căi sôi nổi, chưa ai chịu nhường ai nhưng đó là việc của ho. C̣n về phần chúng ta? Phải chăng chúng ta vẫn chờ đợi cho đến khi những khoa học gia hay giới chức có thẩm quyền chấp nhận th́ mới chịu tin? |
#12
|
|||
|
|||
Theo những tài liệu viết về cơi giới bên kia cửa tử như cuốn Tử thư Ai Cập và Tử thư Tây Tạng th́ những người chết trẻ, chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp lực rất nặng của vật chất nên khó siêu thoát. Người chết trẻ giống như quả non chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta có thể tách rời cái hột ra khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát ra khỏi áp lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khác của xác thịt. Các vong linh nầy không muốn ĺa bỏ cơi trần, không muốn rời bỏ thể xác đang tan ră, nên đau khổ rất nhiều. Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng khi có người sắp từ trần cần phải tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một thời gian. Mặc dù đây là việc nên làm, cần làm và thường được làm nhưng nếu chờ đợi đến khi chết rồi mới lo cầu nguyện th́ có lẽ đă quá trễ chăng? Cuốn Tử thư Tây Tạng khuyên người ta cần chuẩn bị càng sớm cáng tốt, nếu có những ham muốn vật chất th́ phải biết hạn chế lần hồi các dục vọng nầy bằng cách thay thế nó với những thú vui trí thức, nghệ thuật có tính cách hướng thượng. Chương thứ sáu của cuốn Tử thư đă ghi rơ: "Muốn được hữu dụng ở cơi trần và thoải mái ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết làm chủ các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh sự tha thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng v́ đó là những vật vô thường, nay c̣n mai mất. Khi nhắm mắt từ bỏ cơi trần, người ta không thể mang nó theo được mà c̣n bị nó tạo những áp lực khiến cho thần trí hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đọa lạc vào cảnh giới ngạ quỷ hay súc sanh".
Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về cơi giới bên kia cửa tử là một đề tài cần được nghiên cứu rộng răi để chuẩn bị cho mọi người v́ trước sau ai cũng qua bên đó. Tại sao trước khi đi du lịch một nơi nào, người ta đă thu xếp hành lư cẩn thận, nhưng lại cố t́nh phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi chốn mà trước sau ai cũng phải đến? Theo tài liệu của viện nghiên cứu Gallup th́ với sự tiến bộ của nền y khoa hiện đại, một số người đă chết nhưng được hồi sinh (near death experience) mỗi ngày một nhiều. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cơ quan Gallup đă ghi nhận hơn 8 triệu trường hợp xảy ra. Cũng theo cơ quan nầy, đa số dân chúng Hoa Kỳ (68%) đều tin rằng "có một đời sống bên kia cửa tử". Kết quả cuộc nghiên cứu của viện Gallup cho thấy mặc dù kinh nghiệm cá nhân có phần khác nhau ít nhiều nhưng nói chung đa số đều cho biết họ thấy "nhẹ nhơm, thoải mái, không đau đớn ǵ khi ĺa bỏ thân xác". Phần lớn kể rằng họ đă thấy cái thể xác nằm bất động của ḿnh (out of body experience) và sau đó bị lôi cuốn đi trong một đường hầm đen tối sâu hun hút trước khi đến một biển sáng dịu dàng, thoải mái. Có người kể rằng họ gặp lại các thân nhân đă từ trần trước đó, có người kể rằng họ gặp những cá nhân mà toàn thân sáng chói như thiên thần, có người tin rằng họ đă gặp Thượng Đế hay gặp Chúa Jesus và được ngài chỉ dạy. Một số khoa học gia đă phủ nhận sự kiện nầy và cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong lúc mê sảng. Họ cho rằng khi sắp chết, cơ thể của con người đă tiết ra những hóa chất đặc biệt, có công dụng gây ảo giác như một thứ ma tuư, mặc dù họ chưa chứng minh được những hóa chất nầy như thế nào. Một số người khác tin rằng lúc chết, cơ thể con người bị xáo trộn mạnh mẽ, bộ óc không c̣n kiểm soát được mọi sự nữa nên hệ thần kinh đă hoạt động rất b́nh thường. Giống như một b́nh điện bị chạm, xẹt lửa lung tung, bộ óc con người lúc tan ră cũng có những rối loạn khiến người ta có cảm tưởng như đang ở trong một thế giới với muôn ngàn tia sáng lắp lánh. Tuy nhiên họ không thể giải thích nếu bộ óc đă tan ră (xẹt lửa) như vậy th́ tại sao khi hồi sinh nó lại hoạt động b́nh thường như không hề có chuyện ǵ xảy ra. Các nhà tâm lư học cho rằng h́nh ảnh về thế giới bên kia chỉ là những sự tin tưởng tọn giáo, nằm sâu trong tiềm thức con người, khi đầu óc bị chấn động lúc chết nó đă phát động như một "phương tiện tự vệ" để giúp con người tránh sự xúc động. Tuy nhiên theo dữ kiện của viện nghiên cứu Gallup, th́ phần lớn số người hồi sinh nói về "đời sống ở cơi bên kia" không phải những người có nhiều đức tính về tôn giáo hay những người không đáng tin cậy. Một số lớn là những người có địa vị hay tŕnh độ học thức rất cao trong xă hội, một số khác là các trẻ em c̣n ngây thơ, chưa biết thêu dệt hay thêm thắt những điều bịa đặt. Trong cuốn Learning from Children s Near Death Experiences, bác sĩ Melvin Morse viết: "Tôi tin rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới, có thể nối liền khoa học với tôn giáo. Hiểu biết được sự việc nầy, chúng ta có thể thay đổi quan niệm sống một cách toàn diện và nền y khoa cũng sẽ bước vào một giai đoạn khác hẳn khi xưa". Bác sĩ Morse đă ghi nhận hơn 1000 trường hợp trẻ em bị tai nạn, tưởng đă chết nhưng lại được hồi sinh. Các em nầy kể lại hoạt vẽ lên giấy những h́nh ảnh mà các em đă thấy, cũng như những người mà các em đă tiếp xúc ở cơi giới bên kia. Đa số các em đều nói về một nơi chốn rất sáng, có các thiên thần toàn thân sáng chói d́u dắt, an ủi và ôm các em vào ḷng. Nhiều em kể lại đă gặp thân nhân, họ hàng đă qua đời, hoặc bạn bè giúp đỡ trong lúc các em bị xúc động. Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lănh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đă nh́n cái chết một cách sợ hăi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó v́ làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách b́nh thản, giản dị th́ họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn, lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ư nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính v́ có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng th́ cũng phải có sự hủy diệt, đâu có ǵ tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ư nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đă đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện nầy chứ không thể chấp nhận những lư thuyết mơ hồ nào đó được". Zz Phần lớn các tài liệu nói về người chết hồi sinh chỉ ngưng lại ở một cảnh giới có ánh sáng chói lọi, ít khi đi xa hơn nhưng đă có những tài liệu khác của những người đă chết t́m cách liên lạc với cơi trần, kể rơ về cảnh giới bên kia cửa tử. Chúng tôi trích lại một tài liệu từ cuốn La revue spirite: Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ư đến những điều mà những nhà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết v́ thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đă hư hoại th́ trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đă nói: "Nếu đă chết làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cơi giới nào ngoài đời sống nầy nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều ǵ th́ cha sẽ t́m đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông v́ bận việc nên cũng không để ư ǵ buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đă viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến v́ tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn kêu các em lại dự buổi cơ bút nầy, một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút ch́ và chỉ một lát sau cây bút đă tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau: Các con thân mến, Cha rất hài ḷng đă gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ư trong đợi để kể cho các con nghe về những điều ở cơi bên nầy mà cha đă chứng kiến nhưng không có cơ hội. Như các con đă biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết ǵ nữa. Một lúc sau cha thấy ḿnh đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rơ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha lại thấy trong ḿnh dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị g̣ bó, ràng buộc như trước. Các con biết lúc đó cha đang bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy ḿnh có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn ǵ. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó th́ bất chợt cha nh́n thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rơ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một h́nh thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đ́nh đang xúc động và không thể hiểu sao cha cứ thấy trong ḿnh buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ư thức rằng ḿnh đă chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy ḿnh b́nh tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm ch́m trong những lời cầu nguyện nầy thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rơ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rơ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ư thức tường tận các hành vi của ḿnh, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đă làm cũng như các điều xầu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đă làm và hối tiếc về những điều mà lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rơ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ. Cha ở trong t́nh trạng vật vờ, nữa ngủ nữa thức nầy một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy th́ thấy ḿnh vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như bầu ánh sáng lần trước. Cha thấy ḿnh có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ v́ không c̣n xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ th́ cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người nầy có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biềt tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cơi bên nầy. Sở dĩ cha không tiếp xúc được với một số người v́ họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học nầy làm cha tạm hài ḷng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cơi bên nầy tầng số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước th́ ở cơi bên nầy, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể t́m đến các cảnh giới khác nhau. Sự kiện nầy làm cha vô cùng cảm thấy vô cùng thích thú v́ như vậy quả có một cơi giới bên kia cửa tử và cơi nầy lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa. Zz Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đ àng địa ngục nhưng hiện nay cha cảm thấy quan niệm nầy có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động nầy như thế nào? Tại sao cha lại có tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo t́nh cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau, người có t́nh thương cao cả khác với những người tính t́nh nhỏ mọn, ích kỷ hay nhữnng người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt cậu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, th́ người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cơi bên nầy cả. Điều nầy làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tác chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên nầy ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm ǵ với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người nầy bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xa xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước đến nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà ḿnh vẫn hănh diện thật ra chẳng đáng kể ǵ só với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người ta nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ư thức về tần số rung động của ḿnh. Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi c̣n sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đay cũng không khác cơi trần bao nhiêu, cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn, có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc, có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật nầy dường như luôn luôn thay đổi nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Thay v́ xây cất nhà cửa bằng chất liệu vật chất như gạch đá th́ họ lại tạo ra những thứ nầy bằng tư tưởng. Điều nầy có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cơi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc ḿnh, nhưngn ở cơi trần, sức mạnh tư tưởng nầy rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc rồi thôi. Ở bên nầy v́ có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những h́nh ảnh nầy có thể được thự hiện một cách rơ ràng, chính xác và lâu bền hơn. Các con đừng nghĩ rằng những người bên nầy suốt ngày rong chơi, tạo ra các h́nh ảnh theo ư muốn của họ, mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh, v́ mọi tư tưởng bên nầy đều tạo ra các h́nh ảnh nên đây là môi trướng rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ư thức rơ rệt hơn về tư tưởng của ḿnh. V́ đời sống bên nầy không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời gian theo đuổi những công hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, kẻ theo đuổi các ngành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương, thơ phú.v.v.. Tóm lại, đây là môi trường để học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một pḥng th́ nghiệm khoa học để sau nầy có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có ǵ đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy ǵ làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng ǵ thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" th́ đời sau lại bị coi là "cổ hủ lỗi thời" và như cha đă biết th́ những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đ ào thải. Tuy nhiên cái t́nh thương, cái ư tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật th́ bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những ǵ có thể tổn tại được với thời gian mà không thay đổi th́ mới đáng gọi là chân lư. Cha mong các con hăy suy gẫm về vấn đề nầy, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay v́ theo đuổi những giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt. Cha biết rằng mọi ư nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta nhu một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cơi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ư thức ǵ đến nó nên nó khép kín lại, nhưng khi bước qua cơi bên nầy th́ nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bầy rơ rệt trước mắt. Nhờ thế mà cha biết rơ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong ḿnh. Cuốn sổ lưu trữ nầy là bằng chứng cụ thể của những đời sống đă qua và chíng nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với nhựng cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cơi giới bên nầy. Do đó, muốn được thoải mái ở cơi bên nầy, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hăy bắt tay vào việc nầy ngay. Các con hăy ráng làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc ǵ, các con hăy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hăy tập quên ḿnh. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu. Khi c̣n sống, đă có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng ḿnh đă lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có t́nh thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo ḿnh qua cơi giới bên nầy một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. T́nh thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mănh lựv bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ ḷng thương nầy mà người ta có thể t́m gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đă trở nên mềm yếu chăng? Nầy các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên nầy, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của ḿnh, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thang cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lư trật tự và điều ḥa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của ḿnh mà ra cả và chính ḿnh phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của ḿnh hay lựa chọn những nơi mà ḿnh sẽ đến. Khi c̣n sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết ḿnh đă lầm. Cha không phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ c̣n tiếp tục măi măi. Hiển nhiên cá nhân của cha không phải là cái thể xác đă bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động nầy, dó đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đă hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một gịng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi nầy qua nơi khác, từ h́nh thức nầy qua h́nh thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau, và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ư thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp th́ đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nh́n lại toàn vẹn tiến tŕnh của sự sống th́ kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhân thức về bản chất thật sự của ḿnh vốn là nước chứ không phải là sóng th́ các con sẽ ư thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có quan niệm rơ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái ǵ ghê gớm như người ta thường sợ hăi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung v́ nếu khi c̣n sống các con đă đem hết khả năng và phương tiện của ḿnh để giúp đời, để yêu thương mọi loài th́ lúc lâm chung, các con chẳng có ǵ phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, ba muốn nói thêm rằng hiện nay ba đang sống một cách thoải mái, vui vẻ va an lạc chứ không hề khổ sở. |
#13
|
|||
|
|||
Chương 5 Tử Thư Tây Tạng Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên bác Bardo Thodol Chenmo là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử. Ngay từ khi được giáo sư W. Y. Evens Wentz Phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924, nó đă gây ra nhiều cuộc bàn căi sôi nổi. Danh từ "Tử Thư" (Book of the Dead) thực ra dịch không được đúng v́ giáo sư Evans Wentz Đă căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead). Danh từ "Tử Thư" khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng như người chết. Người Ai Cập chủ trương sống và chết là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi. Tử Thư Ai Cập, nguyên tác Her Em Hru có thể dịch sát nghĩa là "Nghệ thuật bước vào một đời sống mới kể từ lúc nầy", trong đó các danh sư Ai Cập đă giải thích những quy tắc để người sống cho ra sống và chết cgo ra chết, với đúng ư nghĩa của nó. Người Ai Cập tin rằng vũ trụ có nhiều cơi giới mà cơi trần chỉ là một mà thôi. Nếu biết nghệ thuật sống và chết, người ta có thể di chuyển luân hồi từ cơi nầy qua cơi khác như người đi du lịch. Có lẽ đó là lư do mà nhiều nhà nghiên cứu đă coi Tử Thử Ai Cập như tấm bản đồ chỉ dẫn về các cơi giới bên kia cửa tử. Tuy nhiên các danh sư Ai Cập không hề quan tâm đến việc giải thoát ra khỏi ṿng luân hồi nầy. Trong khi đó, người Tây Tạng ngoài việc nghiên cứu các cơi giới, lại đặc biệt chú trọng đến việc giải thoát ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi nữa. Đó là căn bản khác biệt rơ rệt nhất giữa hai cuốn sách nói trên và đống thời cũng làm nổi bật nét độc đáo của cuốn Tử Thư Tây Tạng. Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách nầy, chúng ta hăy t́m hiểu danh sưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là "Sự giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo". Nhiều người đă dịch danh từ Bardo là cơi chết, cơi Trung giới, hay cảnh giới của Thân Trung Ấm, nhưng thật ra nó c̣n có một ư nghĩa rộng hơn là "sự chuyển tiếp" (transition). Danh từ "chuyển tiếp" hàm ư một giai đoạn ở giữa sự di chuyển từ giai đoạn nầy qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái nầy qua một trạng thái khác. Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lư mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đă gây nhiều cuộc bàn căi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng chuyên tham cứu về pháp môn nầy. Trong loạt bài khảo luận ngắn nầy, người viết không có ư mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn tŕnh bày một vài khía cạnh đặc biệt của cuốn sách dưới cái nh́n của của khoa học và Phật học. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng dẫn người ta sắp ĺa đời hoặc người đă chết v́ nội dung cuốn sách đề cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay v́ Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: "Đạo Phật là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết". Ngài đă giảng: "Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ư chính như sau: Người nào biết sống một cách tỉnh thức th́ sẽ chết tỉnh thức, và một khi đă tỉnh thức th́ họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người v́ bị vô minh che phủ nên không biết cách sống cho đúng với ư nghĩa của sự sống, thường thường nếu không hoài niệm về quá khứ th́ họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn luôn lo lắng để sống chứ không hề ư thức rơ rệt sự sống. V́ sống một cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết th́ họ cũng không thể làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi". Lời giải thích nầy là một ch́a khóa quan trọng đă rọi một tia sáng cho những người muốn t́m hiểu cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách t́m đến những cơi giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh. Theo cuốn Tử Thư, ṿng luân hồi có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị th́ đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cơi sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba là lúc sống trong Cơi sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh ra. Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào ṿng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. V́ một biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm ǵ. Ngay trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác nầy chỉ tồn tại rất ngắn v́ hiển nhiên bộ óc lư luận của anh sẽ làm việc ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay tuyệt vọng. Chính v́ thói quen lư luận nầy mà anh bị lôi kéo vào một mê hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không c̣n tự chủ được nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu, trước khi lư trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động nầy. Cũng giống như giây phút "hốt nhiên chứng ngộ" của các vị thiên sư, đó là một khoảng trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lư luận lôi kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra. Giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử, thoát ṿng kiềm tỏa của nghiệp lực. Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và ư. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đă tạo biết bao nhiêu nghiệp lành cũng như dữ, dưới h́nh thức của chủng tử nầy sẽ phát động. Nghiệp có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu, tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả nầy phát động ngay (Cận tử nghiệp) nên thay v́ được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. V́ không ai biết nghiệp quả nào sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đă ghi rơ: "Tâm trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến", do đó cuốn sách nầy đă dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới bên kia. Sogyan Rinpoche, một danh sư Tây Tạng chuyên nghiên cứu về các cảnh giới bên kia cửa tử đă viết: "Không ǵ làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ của người Âu Mỹ đối với sự chết. H́nh như người ta coi đó là một sự kiện bất b́nh thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy h́nh như đa số mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, rất íy ai được chết yên ổn tại nhà. Đă thế họ qua đời không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối về chứng ung thư. Cả gia đ́nh tề tựu an ủi và khuyên bà ta hăy cố gắng chống trả căn bệnh ngặt nghèo đó. Người chồng nói: Đừng tuyệt vọng. Đừng buôn xuôi tay. Hăy tiếp tục phấn đấu . Các con bà cũng khuyên: Hăy vui vẻ, lạc quan . Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đ àn bà đă mệt lắm rồi, mạch bà đập yếu ớt. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong ṿng vài giờ nữa thôi. Cả gia đ́nh bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hăi lúc lâm chung đó là một ḿnh, không ai giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một ḿnh. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế, làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cơi giới bên kia được? Tại sao một quốc gia đă phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những ṿng hoa khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng h́nh như không ai có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người đến chia buồn nên đă quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm xuống chứ đâu phải là những người c̣n sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ v́ việc không chấp nhận sự chết, sợ hăi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đă hành động như vậy chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến b́nh thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới bên kia cửa tử th́ có thể họ đă hành động khác". Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đă viết: "Một bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: Ngày đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một ḿnh với nỗi lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như không muốn rời: Nầy bác sĩ, liệu Thượng Đế có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đă làm nhiều điều tội lỗi, liệu tôi có xuống địa ngục không? Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lăo ra nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lăo ra. Chúng tôi quyết định đưa ông lăo vào một căn pḥng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh. Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến. Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng lúc đó có quá nhiều người chết, vị nầy bận rộn không thể đến được. Ông lăo nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ tuổi đặt câu hỏi: Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm ǵ đây?" Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: "Điều đáng nói là đa số chúng ta, những người chuyên môn trong lănh vực y khoa, không hề có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đă trở nên mất nhạy cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đă chứng kiến quá nhiều cảnh tượng nầy nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải chăng sau khi đă làm tṛn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh nhân nhưng biết không thể làm ǵ hơn, chúng ta đă bó tay, mặc cho số mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?" Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư Tây Tạng, điều quư báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần là làm sao để họ không sợ hăi (vô uư thí). Trước khi có thể giúp cho người khác không sợ hăi th́ chính người cho phải b́nh tỉnh, thoải mái và không sợ hăi đă. Điều nầy không đ̣i hỏi người cho phải làm những điều ǵ khác thường nhưng ít ra người đó phải có một ḷng yêu thươnng chân thành và sự hiểu biết sáng suốt. V́ người sắp chết thường lo lắng, hốt hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can. Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần b́nh tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, ḷng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Đây là lúc các chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ c̣n bùng lên một lúc trước khi tắt ngún..." Các danh sư Tây Tạng khuyên: "Hăy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hăy mở rộng tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng v́ không ǵ tai hại hơn sự phán đoán trong lúc nầy. Hăy đem hết t́nh thương truyền trao cho họ, khuyến khích họ giăi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói đó. Đôi khi v́ những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hăy tự chủ và biết rằng một người đang mất b́nh tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả bất ngờ, không ư thức rơ rệt v́ về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng trách. Nhiều người v́ quá thương xót đă lên tiếng khuyên giải nhưng sự kiện nầy có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng, chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quư giá nhất, v́ hơn bao giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ rằng ḿnh có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều ǵ tốt hơn mà hăy giữ yên lặng v́ chúng ta không biết rơ được tâm thức của người sắp chết khi đó ra sao". Để giữ b́nh tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây Tạng đă chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: "Hăy giữ vững hơi thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một người đang cần giúp đỡ mà hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. V́ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống thương yêu nơi ḿnh, b́nh tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một cách hữu hiệu hơn". Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp qua đời, nhưng nếu đă thành công trên phương diện nầy, người ta có thể đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác, xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa". Khi người sắp chết thố lộ tâm sự, đừng chú ư tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đă làm mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hănh diện, thích thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hăi, lo sợ, hối hận hay tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô t́nh đề cập đến một điều ǵ tốt đẹp mà họ đă làm. Hăy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài nầy để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hăi, để họ thấy rằng cuộc đời của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng. Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ư hơn điều bất như ư th́ các chủng tử xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử thiện và điều nầy có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ. Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă dạy: "Thật không có ǵ tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu hỏi: Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không? th́ các bạn phải biết trả lời: Thượng Đế chính là t́nh thương. Trong t́nh thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của ngài th́ lẽ nào ngài lại có thể không tha thứ cho con của ngài được? Hiển nhiên không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu đem đức tin đến cho người sắp chết th́ họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ Rubler Ross khuyên: "Chúng ta cần thận trọng trong việc nầy. Nếu người đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, c̣n nếu không, đừng nên quan trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đă có ác cảm với một tôn giáo nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều nầy có thể mang lại những hậu quả tai hại bất ngờ". Phần lớn mọi người đều sợ chết v́ không ai biết chết sẽ đưa họ đến đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con, thân quyến, và ngay cả chính ḿnh nữa là một điều hết sức ghê gớm không mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hăi về một nơi gọi là "địa ngục" nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp nhận nó dễ dàng. |
#14
|
|||
|
|||
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă phân tích tâm trạng con người khi phải giáp mặt với sự kiện nầy qua năm trạng thái tâm lư như sau: Phủ nhận, giận dữ, lư luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết ḿnh bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lư tự nhiên của con người là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đă từ chối không chịu uống thuốc hay chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa ḿnh rằng họ không làm sao hết, họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi t́m một bác sĩ nào đó có thể nói khác hơn. Giai đoạn nầy thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc chữa trị. Nhiều người đă không vượt qua được trạng thái nầy và đến khi chết vẫn tin rằng ḿnh không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ nhận nầy th́ đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, t́m cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn c̣n chỉ trích, trách móc người khác. Vượt được giai đoạn nầy, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái tâm lư phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một "phép lạ" xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hăo huyền nầy. Đây là lúc các bệnh nhân đi t́m những phương pháp chữa bệnh khác với lối chữa trị thông thường, đi t́m an ủi qua những điều huyền hoặc hay có những lập luận rất lạ lùng về t́nh trạng của họ. Nếu qua được giai đoạn nầy, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn chán, không biết làm ǵ nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ư là động ḷng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rơ người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lư nào, người ta có thể giải thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận sự chết một cách dễ dàng hơn.
Bác sĩ Ross kết luận: "Người sắp chết không ao ước ǵ hơn là sự cảm thông và ḷng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hăy tự nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là đủ". Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và ngược lại, bất cứ một biến cố ǵ xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động, phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn th́ hậu quả thật không biết đâu mà lường. Cuốn Tử Thư ghi rơ: "Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến". Đó là một lư do người Tây Tạng chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, v́ thiếu hiểu biết, đă hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối cùng để kéo dài thêm sự sống thay v́ chấp nhận rằng đă đến lúc phải để người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận: "Người ta đă lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ư thức, dường như việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y sĩ quan niệm rằng c̣n nước c̣n tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho tâm lư người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ khắp ḿnh, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay b́nh tĩnh mà ra đi cho được". Linh mục Thomas Merton cũng cảnh cáo: "Phần lớc các quốc gia tân tiến đă bỏ nhiều tiền bạc và công sức để t́m các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ, vài ngày nhưng không hề chú ư đến việc giáo dục con người về ư nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết, điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?" Sự tiến bộ của khoa học đă tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc nầy ra để cho người chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn căi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn, chúng ta hăy theo dơi diễn tiến của sự chết. Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đă trả xong, các nhân duyên đă hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và tâm, hay làm các điều ác th́ có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạnh tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật th́ đời sống ḿnh bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác th́ đời sống có thể tăng thêm. Hiển nhiên đă sinh ra th́ ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh ra hay lúc chết đi phản ảnh rơ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đă viết: "Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh th́ phong tục Tây Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu kư, giống cha hay giống mẹ và ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ tiên của ḿnh đă chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể v́ giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị dặn ḍ con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi sự ham muốn nầy đă tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạc ma nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được giờ chết. Ông công bố tin nầy cho học tṛ và chuẩn bị một cái chết rất thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn ḍ và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị nầy ngồi bằng nhập thiền, học tṛ quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông nầy bèn gọi học tṛ mang cơm ra cho thầy ăn. Học tṛ thất vọng rủ nhau bỏ đi hết v́ nghĩ rằng vị thầy thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đă biến thành một vở bi hài kịch". Đối với các vị công phu tu hành th́ thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez Đă viết về cái chết của một Ḥa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa kỳ vào năm 1891 như sau: "Ḥa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng ngài khó qua khỏi đêm đó th́ ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc ngài ra đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đă đến lúc ngặt nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Ḥa thượng vẫn lạc quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng ngài luôn luôn có lư. Cứ thế từ ngày nầy qua ngày nọ, mặc dù bệnh t́nh không thuyên giảm nhưng Ḥa thượng cho biết chưa đến lúc ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh nầy gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng ngài nhất định không chịu. Một hôm ngài cho biết đă đến lúc ra đi và yêu cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để ngài cám ơn họ. Nh́n ngài vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút sau ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi ngài qua đời, ngực ngài vẫn ấm và thân thể của ngài không có một dấu vết hư hoại ǵ. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích". Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất và giai đoạn tan ră của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa. Khi các yếu tố nầy tan ră th́ con người không thể sống được. Nhờ biết quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng không c̣n hiểu được ư nghĩa câu nói đó v́ thính giác đă ngưng hoạt động. Họ không thể nh́n rơ các h́nh ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt không c̣n rơ rệt v́ thị giác đă bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế, các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan ra, các bắp thịt trở nên ră rời, không thể chống đỡ được toàn thân, người hấp hối có cảm tưởng như ḿnh đang bị một ngọn núi đ è nặng lên toàn thân. Khi yếu tố Đất tan ră xong th́ yếu tố nước khởi sự tan ra, các chất lỏng trong cơ thể không c̣n vận hành b́nh thường được nữa, nước mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan ră, người chết tự nhiên thấy khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không c̣n tỉnh táo nữa. Khi yếu tố lữa tan ră hết th́ yếu tố Gió bắt đầu tan ră, hơi thở người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, không c̣n biết ǵ nữa. Đối với y khoa Tây phương th́ tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đă chết, nhưng theo cuốn Tử Thư th́ giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất nầy mới chỉ là bắt đầu v́ giai đoạn thứ hai, sự tan ră của các yếu tố tinh thần có hoàn tất th́ người đó mới có thể coi là thực sự đă chết. V́ yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân nên khi yếu tố nầy tan ră, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức bên trong và sự tan ră của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đă chết, thân thể đă lạnh nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn c̣n hơi nóng. Các yếu tố thuộc về lư trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố thuộc về t́nh cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi hai yếu tố nầy gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngă bắt đầu tan ră, khởi đầu bằng sự tan ră của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và khi ba yếu tố nầy ngưng hoạt động th́ thần thức của con người trở nên minh mẫn hơn, họ sẽ ư thức mọi sự một cách rơ rệt v́ nói theo cuốn Tử Thư "khi các yếu tố thuộc về bản ngă tan ră, khi không c̣n bị mây mù của vô minh chi phối nữa th́ chân tâm bắt đầu hiển hiện". Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng v́ ư thức được chân tâm hay Phật tánh chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người không tập luyện, không ư thức th́ giai đoạn nầy chỉ là một tia chớp lóe sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa th́ đây là cơ hội quư báu nhất v́ họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng thái nầy để giải thoát. Đó cũng là lư do đa số các danh sư Tây Tạng đều nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rơ diễn tiến của sự chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đă có sẵn một tấm bản đồ trong tay, họ biết cách tập trung ư chí vào các câu thần chú, các biểu tượng Mandala, các h́nh ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan ră, họ chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một h́nh ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ư thức được từng giây, từng phút của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngă tan hết, chân tâm tỏ rạng th́ họ có thể tập trung mọi năng lực để ḥa nhập vào cái trạng thái uyên nguyên bất động nầy. Điều nầy thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà v́ một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn th́ họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ. Cuốn Tử Thư đă nói rất rơ về giai đoạn nầy như sau: "Chân như bản thể của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm bắt đầu sáng tỏ". Danh từ "Sáng tỏ" (The dawn of luminosity) đă bị nhiều người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa th́ khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rơ ràng, không c̣n một chút tăm tối nào. Danh từ "Sáng tỏ" ở đây chỉ có ư nghĩa trừu tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam Trungpa không đồng ư v́ giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà c̣n phải ḥa nhập và sống trọn vẹn trong đó nữa. Ông viết: "Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đă chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đă thấy được chân tâm bao nhiêu lần, nhưng đă mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát nầy? Giáo pháp của đức Thế Tôn đă được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đă mấy người biết áp dụng nó để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng v́ không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm ǵ hơn là tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi". Dù có ư thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh nghiệm được trạng thái nầy trong ṿng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú măi măi th́ họ hoàn toàn giải thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quư báu, sau đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người b́nh thường, khi yếu tố tinh thần tan ră hết th́ họ sẽ tiếp đi trong một thời gian dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong Cơi sáng (the luminous Bardo of Dharmata). |
#15
|
|||
|
|||
Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cơi sáng (Dharmata) là lúc tâm thức con người biến hiện rất tế nhị v́ các yếu tố vật chất tan ră hết và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: "Khi vật chất tan ră th́ nó chuyển qua h́nh thức nắng lượng v́ vật chất chính là các năng lượng đă đông đặc lại". Khi vật chất khởi sự tan ră, thần thức dường như bị tê liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối, không ư thức được điều ǵ nhưng khi bước sang giai đoạn Cơi sáng th́ họ thấy ḿnh lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là "lúc đêm chuyển qua ngày" hoăc "khi mặt trời chiếu sáng th́ bóng tối tan dần và sự thật phô bày rơ rệt". Mặt dù cuốn sách nầy hẳn một phần quan trọng để nói về Cơi sáng (the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính v́ thế, phần nầy đă tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn t́m hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân tích một cách khoa học. Đa số những người nầy v́ thiếu kinh nghiệm tâm linh nên đă giải thích cơi nầy một cách sai lạc như một "kinh nghiệm về ảo giác" và có nhiều ngộ nhận đáng tiếc.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: "Chân lư có thể được diễn tả một cách tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có tŕnh độ hiểu biết thâm sâu th́ họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng v́ số người nầy rất ít, do đó các danh sư đă phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu tượng bóng bẩy, các h́nh ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả nhưng cũng v́ thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những ǵ tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối". Có nhiều người cho rằng đời sống ở cơi nầy rất thoải mái, sung sướng với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cơi trần như người khác lại cho rằng khi bản ngă đă tan hết th́ không c̣n chủ thể hay đối tượng nữa, tất cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đă vô phân biệt th́ đâu c̣n có ḿnh, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: "Đây không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, v́ cảm nhận hay kinh nghiệm c̣n có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà danh từ Phật giáo gọi là Tâm vô phân biệt hay Bất nhị". Khi bước qua Cơi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đă xảy ra trong kiếp sống vừa qua một cách trung thực. V́ bản ngă đă tiêu tan hết, không c̣n thành kiến hay tham sân si, nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối v́ theo các danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả, chuẩn bị các "nhân" cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự sắp xếp nầy đă được người Tây Tạng sử dụng các h́nh ảnh, biểu tượng để diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái "Vô phân biệt" đến trạng thái "Phân biệt" hay từ "Bất nhị" chuyển qua "Nhị nguyên". Theo cuốn Tử Thư giai đoạn nầy kéo dài khoảng bảy ngày như sau: Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các h́nh ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của sân hận vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên người ta thường không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ư hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư thiên. Sân hận được giải thích như một h́nh thức tự vệ của bản ngă, nó không dám để cho "ḿnh" tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà quay đầu t́m qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngă và cũng là động lực để ṿng luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới của chư thiên. Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới A Tu La. Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra c̣n có các vị kim cương hổ pháp và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia. Tuy nhiên các động năng của bản ngă cũng đồng thời trỗi dậy. Ḷng sân hận, kêu căn, nghi kỵ, ngă mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hăi không dám bước vào những cảnh giới ấy mà t́m cách tránh né và bỏ qua cơ hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác. Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đă gần như hoàn tất vào cái thế giới "Bất nhị" của tâm vô phân biệt đă chuyển thành những cặp nhị nguyên, đối đăi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt. Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người, A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người ta bước vào giai đoạn thứ tư của ṿng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để tái sinh. Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các h́nh ảnh nói trên không phải ở bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và phức tạp. Những năng lương nầy vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn v́ bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, v́ bị các động lực của bản ngă như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngă mạn, nghi kỵ che lấp nên người ta không thể ư thức được chúng. Chính v́ không ư thức được chúng nên người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong ṿng sinh tử luân hồi, nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngă, loâi bỏ các thoái quen của Thân, Khẩu, Ư chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát nầy. Một số học giả người Âu đă đặt câu hỏi: "Nếu người Tây Tạng nh́n thấy một vị Phật th́ một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy ǵ?" Sogyam Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă trả lời: "Đây không phải là một kinh nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các h́nh ảnh khác nhau. Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nh́n thấy Thương Đế, Đức Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự nh́n thấy ǵ ở chỗ ư thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo". Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người b́nh thường, sự chết có thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đă được giải thích rất rơ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh thức để theo dơi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy ḿnh mê man trắng trong suốt và từ phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên măn, xuất hiện. Toàn thân ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các h́nh ảnh lạ lùng, tương trưng cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí suy luận của bản ngă bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật bằng bản ngă hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà t́m cách ẩn ḿnh dưới lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục. Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang nghiêm không ǵ sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của kiêu căng, hănh diện, nghi kỵ vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi kia. Cái ḷng hănh diện của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn nh́n vào sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của loài người. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên ṭa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng nầy chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản vẫn c̣n phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng chói lọi kia. Ḷng tham lam của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ. Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu, tay cầm một cái chày kim cương h́nh chữ thập xuất hiện. Chung quanh có một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các động lực của ḷng hănh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngă sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái ǵ tốt đẹp hơn, vinh quang hơn, đẹp đẽ hơn nó thay v́ ḥa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không Thành Tựu, nó lại t́m ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy ḿnh có thể chứng kiến tất cả mọi sự đă xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). V́ khi đó bản ngă đă tan ră nên họ có thể chứng kiến rơ ràng mọi sự xảy ra đúng với sự thật chứ không c̣n bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan sát các diễn tiến nầy, họ sẽ ư thức được luật nhân quả đă hành động như thế nào, v́ lư do ǵ mà sự kiện đă diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để chuẩn bị cho sự tái sinh sau nầy. Sự thu xếp nầy hết sức phức tạp v́ c̣n tùy theo những duyên nghiệp đă gây ra từ những kiếp trước. Chính những động năng nầy đă quyết định sự thành lập một bản ngă cho kiếp sống trong tương lai. Tóm lại, chết không phải là hết v́ nó là điều kiện tất yếu của một kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp nầy đă hội đủ, kiếp sống phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đă tạo, làm nhân cho kiếp sống về sau. Đời sống kiếp trước tạo nhân cho đời sống ở kiếp sau, và kiếp sau là quả của kiếp trước, liên miên bất tận không chấm dứt, đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau khổ v́ đă nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt lấy những ảo giác của vô minh, monh kéo dài đời sống để thỏa măn dục vọng, tạo măi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi sinh tử. Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh viễn chia ĺa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống cho rằng họ không thể làm ǵ hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng tiếc v́ thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng, việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư. Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cơi âm tương tự với bảy ngày ở cơi trần hay bảy ngày ở cơi âm tương ứng với bốn mươi chín ngày ở cơi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức người chết c̣n đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến c̣n nặng nên thần thức người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ư thức được ḷng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có người lại cho rằng cơi bên nầy có tất cả bảy tiến tŕnh khác nhau, mỗi tiến tŕnh dải bảy ngày, và tiếp theo tiến tŕnh đầu như vừa diễn tả ở trên c̣n có những tiến tŕnh khác. Thay v́ gặp năm vị Phật th́ người chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể, năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào, thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong ṿng bốn mươi chín ngày thôi mà c̣n phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa. Ḥa thượng Dudjom đă viết: "Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ư nghĩa tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cơi bên nầy một thời gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên cơi nầy cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu thai". Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn người chết là vô lư v́ người đă chết đâu để nghe được nữa. Ḥa thượng Chogyam Trungpa đă giải thích: "Hiển nhiên người quá cố không thể nghe bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ư thức được bằng thần thức (consciousness). V́ đây là sự theo dơi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ ǵ, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng nầy đ̣i hỏi sự chân thành. Có thành thật th́ người khác mới cảm nhận được, và có cảm th́ mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần tŕnh diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ư nghĩa tốt đẹp ǵ hết". Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngă đă tan ra hết th́ đâu c̣n ǵ để nghe nữa. Ḥa thượng Trungpa giải thích: "Không ai biết được người chết đang ở trong t́nh trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm th́ có thể họ không ư thức được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái nầy chỉ xảy ra trong một chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngă tan ră lại được sắp xếp theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cơi Sáng và chuyển thần thức để đầu thai), do đó họ vẫn có thể ư thức rơ rệt những sự kiện xảy ra chung quanh được". Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho người chết c̣n có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, th́ chắc chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn. Một trong những vấn đề được bàn căi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật nầy đă gây ra một t́nh trạng nan giải trên phương diện pháp luật, luân lư, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác nầy quả thật vô cùng đáng sợ. Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời sống khi rút những máy móc nầy ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ t́m cái chết được không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không c̣n một hy vọng ǵ có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được nữa, lại là một vấn đề khác. Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng, việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người chết. Dù cho người đó ở trong một t́nh trạng hôn mê (coma) nhưng thần thức của họ vẫn ư thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố gắng kéo dài đời sống nầy có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu, oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác sĩ Kubler Ross đă viết: "Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở cuối cùng c̣n hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các phương tiện nhân tạo". Linh mục Thomas Merton cũng đă viết: "Sự sống không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được v́ các máy móc nhân tạo nầy chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác". Nhưng làm sao được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều được giải bảo rằng "Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá", do đó mới có thảm trạng mà bác sĩ Melvin Morse đă diễn tả: "Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu, sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập th́ người ta sử dụng điện để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi th́ người ta sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi, khi óc ngưng hoạt động th́ người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay th́ các tṛ nầy mới chấm dứt". Để t́nh trạng nầy xảy ra, ngày nay một số người đă phải làm di chúc rằng nếu không c̣n hy vọng ǵ cứu sống nữa th́ để cho họ ra đi một cách an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc nầy khá thịnh hành tại các quốc gia Tây phương và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc nầy khi họ phải vào bệnh viện. V́ chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă khuyên: "Khi tim ngưng đập th́ người đó chưa hẳn đă chết, chỉ có phần vật chất đă ngưng hoạt động hay bắt đầu tan ră mà thôi. V́ phần tâm linh cần phải mất thêm một thời gian nữa mới tan ră (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị quyến luyến hay đau khổ thêm. Hăy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng v́ phần tinh thần c̣n đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được những sự ồn ào, náo nhiệt nầy mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận. Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng v́ thế mà bám vào các thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp nầy. Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người chết được văng sinh về cơi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo, điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rơ tư tưởng người sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu nguyện rất có ích v́ nó có thể giúp người quá cố b́nh tỉnh lại và cùng cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an lạc th́ chắc chắn th́ họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay rượu v́ những thứ nầy thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những loài ma quỷ đói khát t́m đến. Khi thần thức người chết c̣n đang dao động, chưa b́nh tĩnh th́ sự tiếp xúc nầy không có ích lợi ǵ cả. Nên tránh các h́nh thức ma chay to lớn, linh đ́nh hay các thủ tục phiền phức v́ các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp cho người chết được bao nhiêu. Hăy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất, hăy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu v́ đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự sắp xếp nhân quả chưa ngă ngũ rơ rệt, khi người chết c̣n có thể tỉnh thức để ḥa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát. Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không c̣n quyến luyến thân xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa các năng lực c̣n sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực nầy vào những việc bất hảo. Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực nầy để lưu giữ âm binh, ḥng duy tŕ ảnh hưởng của tà môn. |
The Following 2 Users Say Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (28-10-11),
Nhím con (28-10-11)
|
|
|