|
|
#1
|
|||
|
|||
Điển tích, điển cố
1. TRI ÂM
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại kinh đô, nước Sở (nay thuộc về phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng) có một người danh sĩ họ Du tên Thụy, hiệu là Bá Nha. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của ḿnh. Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phím thử dây. Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng "bựt" khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng: - Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui ḷng ra mặt. Từ trên vách núi có tiếng vọng xuống: - Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành. Bá Nha cười lớn: - Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta? Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại: - Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có người quân tử th́ ngoài cửa ắt có người quân tử đến... Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết ḿnh lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn: - Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, th́ xin cho biết lúc năy tại hạ đă đàn khúc ǵ? Giọng trên bờ b́nh thản vọng xuống: - Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi năy, đại nhân đang đàn th́ đứt dây, nên c̣n thiếu mất câu chót. Nghe xong, Bá Nha thấy ḷng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp: - Quư hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rơ được xuất xứ của cây Dao cầm? Tiều phu đáp không chút ngập ngừng: - Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy t́nh cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậu. Vua biết cây ngô đồng là thứ gỗ quư, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn. Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa ḍng nước đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi. Đàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái b́nh. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi Dũ Lư, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi Vũ Vương đánh nước Trụ, thêm một dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dây. Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc ḷng rối loạn, không đàn lúc ḷng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm. Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem ḷng kính thương: - Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lư. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang dao động. Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đă chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được ḷng học tṛ, c̣n ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này, hiền hữu có biết ḷng ta đang tư lự ǵ không? - Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa. Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ư tại non cao. Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười: - Tuyệt thay, ư chí cao vút. Ư tại non cao. Bá Nha giật ḿnh ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ư tại lưu thủy. Tiều phu khua tay xuống ḍng nước: - Trời nước bao la. Ư tại lưu thủy. Bá Nha thất kinh, nh́n người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của ḿnh như vậy. Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rượu. Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi: - Dám hỏi tiên sinh quư danh và quê quán. Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ: - Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mă Yên này. C̣n đại nhân, chẳng hay cao danh quư tánh là ǵ, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây văng cảnh. - Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lăm. Tại hạ chỉ là một kẻ tài hèn đức bạc mà thôi. C̣n như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, pḥ vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này. - Tôi c̣n cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tṛn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ. Biết Tử Kỳ hai mươi bảy tuổi. Bá Nha trân trọng nói: - Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi. Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn th́ xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm. Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp: - Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đ́nh, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm th́ làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho. - Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quư, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiên sinh chịu nhận làm anh em th́ thật là vạn hạnh cho tiện chức. Bá Nha đă có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa... Bá Nha sai người hầu đốt ḷ hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ. Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện tṛ với nhau rất là tương đắc. Đến lúc ánh trăng nhạt nḥa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đôi bạn đành phải chia taỵ Bá Nha giọng run run, nh́n Tử Kỳ: - Ḷng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ. Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm được một khúc chuyện tṛ cho thỏa mối tâm t́nh chăng. Chung Tử Kỳ cũng không giấu được xúc động: - Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt v́ song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi. - Vậy th́ hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời. "Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết: - Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây. Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt: - Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đă xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối. Cảm t́nh tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối. Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt. Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mă Yên. Ḷng bồn chồn trông ngóng. Vầng kim ô đă ngả bóng xuống ḷng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao măi vẫn không thấy bạn tri âm ra đón. Bá Nha cho đồng tử đốt ḷ hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của ḿnh sao mà ai oán, năo nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này th́ chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi. Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đă khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ṛng rồi cùng vài tên hầu t́m đến chân núi Mă Yên. Dọc đường, gặp một ông lăo, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa: - Xin lăo trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn. - Có Tập Hiền thôn thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào? - Thưa lăo trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào? Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lăo ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lăo ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn: - Chung Tử Kỳ là con lăo. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ v́ chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lăo hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lăo chưa cần đến số vàng đó, nên con lăo đă dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc, ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể v́ quá lao nhọc, con lăo đă lâm bệnh mà qua đời rồi... Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đă bật ̣a khóc, ôm chầm lấy ông lăo nghẹn ngào "Kẻ hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây". Ông lăo thảng thốt, trời ơi: - Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đă cùng con lăo kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lăo đă trối trăng lại: "Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mă Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này". Con đường mà đại nhân vừa đi qua phía bên phải có nấm đất nhỏ, chính là ngôi mộ của Tử Kỳ đó. Hôm nay vừa đúng một trăm ngày mất, lăo vừa đi viếng mộ con về th́ gặp đại nhân. Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy vong linh bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẫm, tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất năo nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán cũng dần lặng tiếng. Bá Nha nh́n Chung lăo thưa: - Tử Kỳ đă về đây chứng giám cho ḷng thành của tiểu sinh. Tiểu sinh mới vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này: Ức tính khi niên xuân Giang thượng tằng hội quân Kim nhật trùng lai phỏng Bất kiến tri ân nhân. Đản kiến nhất phân thổ An nhiên thương ngă tâm Bất giác lệ phân phân Lai hoan khứ hà khổ Giang ban khởi sầu vân. Tử Kỳ, Tử kỳ hề! Nhĩ, ngă thiên kim nghĩa Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ Thử khúc chung hề bất phụ đàn Tam xích Dao cầm vị quân tử Tạm dịch : Từ nhớ đến mùa thu năm trước Bến trường giang gặp bạn cố nhân Năm nay lại đến Giang Tân Ḍng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi Cơi ngàn năm chia cắt đau ḷng Ôi thương tâm, ôi thương tâm Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi Mây sầu thấp thoáng chân trời Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can Thôi từ nay, thôi phím đàn Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân... Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mảnh, trụ ngọc, phím đồng rơi lả tả. Lăo ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt: Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn? Xuân phong măn diện giai bằng hữu Dục mịch tri âm, nan thượng nan. Tạm dịch : Dao cầm đập nát đau ḷng phượng Đă vắng Tử Kỳ đàn với ai Gió xuân bốn phía bao bè bạn Khó thay t́m được bạn tri âm Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lăo ông, sụp quỳ xuống: - Bá Nha Tử Kỳ đă y lời hẹn đến đây rồi. Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm. Chung lăo không từ chối. Bá Nha lạy Chung lăo, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống bến, cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn. (St) |
The Following 4 Users Say Thank You to phale For This Useful Post: | ||
#2
|
|||
|
|||
2. TRI KỶ
Đời Xuân Thu, Quản Di Ngô tự là Trọng, vốn người có tài kinh bang tế thế. ngày c̣n hàn vi, chưa gặp thời thường cùng bạn là Bảo Thúc Nha đi buôn chung. Lúc chia lời, Quản Trọng thường lấy phần hơn. Người ngoài thấy thế bất b́nh, nhưng Bảo Thúc Nha vui vẻ nói: - Quản Trọng không phải tham mà lấy tiền ấy, chỉ v́ gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ nên ta cũng bằng ḷng nhường cho hắn. Quản Trọng ở chỗ thị tứ thường bị lắm kẻ nạt dọa, hà hiếp mà không một lời phản kháng. Mọi người cười cho là hèn mạt, nhu nhược, nhưng Bảo Thúc Nha cho bạn là người khoan dung. Quản Trọng thường đàm luận cùng Bảo Thúc Nha nói nhiều điều sai lầm. Bảo nói: - Đó là con người chưa gặp vận. Chớ lúc gặp thời th́ trăm việc không hỏng việc nào. Lúc theo việc quân, mỗi khi ra trận th́ Quản Trọng đi sau; khi thu qua6n về th́ Quản Trọng đi trước. Mọi người đều chế giễu cho là nhát. Bảo Thúc Nha nói: - Quản Di Ngô nào phải nhát gan, chỉ v́ người c̣n mẹ già nên phải giữ thân thể để phụng dưỡng mẹ. Quản Trọng ba lần ra làm quan, ba lần bị băi, người người đều khinh. Nhưng Thúc Nha nói: - Di Ngô không phải là kẻ bất tiếu, v́ chưa gặp thời, chưa gặp được vua hiền mà thôi. Về sau, Quản Trọng pḥ công tử Củ; Bảo Thúc Nha pḥ công tử Tiểu Bạch. Công tử Củ và công tử Tiểu Bạch vốn anh em khác mẹ tranh ngôi nhau. Công tử Củ thất bại ở nhà nước Lỗ, bị vua nước Lỗ giết chết. Vua Lỗ lại bắt Quản Trọng và Thiệu Hốt là người pḥ công tử Củ nộp cho Tiểu Bạch tức Tề Hoàn công đương làm chúa nước Tề. Thiệu Hốt tự tử. C̣n Quản Trọng th́ chịu làm tên tù, và chịu tội với Tiểu Bạch v́ trước kia đă bắn nhằm đai bụng của Tiểu Bạch. Mến tài của Quản Trọng và do Thúc Nha tiến cử, Tiểu Bạch dùng Quản Trọng làm tướng quốc. Người ta chê Quản Trọng không giữ được khí tiết như Thiệu Hốt. Nhưng Thúc Nha lại bảo: - Di Ngô nhẫn nhục thờ Hoàn công không phải vô sỉ mà là người không câu chấp những tiểu tiết thường t́nh. Đó chính là kẻ có chí làm lợi cho cả thiên hạ. Quản Trọng nghe được lời phê phán của Bảo Thúc Nha, thường thở dài nói: - Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu biết ta ở đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi. "Tri kỷ" nghĩa là biết ḿnh. Người thật biết được ḿnh là tri kỷ. Cổ văn có câu: "Đắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận", nghĩa là: "Ở đời có được một người tri kỷ th́ không c̣n ân hận ǵ nữa". Ông Tchya (Đái Đức Tuấn), một nhà thơ hiện đại cũng có câu: Tri kỷ t́m nhau mắt đă mờ. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả lúc Từ Hải gặp Thúy Kiều ở thanh lâu, Kiều đề cao Từ Hải, Từ lấy làm thống khoái, có câu: Nghe lời vừa ư gật đầu, Cười rằng: "Tri kỷ trước sau mấy người". (ST) |
The Following 4 Users Say Thank You to phale For This Useful Post: | ||
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|