|
|
Thông Báo |
|
#1
|
|||
|
|||
Đọc Lại Thơ Đường: TƯƠNG TIẾN TỬU của Lư Bạch
Tôi muốn mượn bài thơ Đăng U Châu Đài Ca của Trần Tử Ngang thời Sơ Đường bên Trung Hoa để nói lên sự vận hành của vũ trụ do luật tuần hoàn chi phối:
Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất tri lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc sảng nhiên nhi thế hạ Nghĩa: Ngoảnh lại trước: người xưa chẳng thấy Trông về sau: quạnh vắng người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Ḿnh ta rơi hạt lệ sầu chứa chan Đất trời dài lâu man mác 'thiên địa chi du du‛ mà đời người th́ giới hạn 'doanh hư, tiêu trưởng‛. Những bài thơ Đường đă vượt cả không gian và thời gian để tồn tại đến ngày nay. Bao thế kỷ đă trôi qua, bao triều đại hưng vong, bao lớp người đă sinh ra rồi mất đi. Bất chấp tất cả, những bài thơ Đường măi măi là những bông hoa tươi đẹp nhất chẳng những những trong vườn văn học Trung Hoa mà c̣n cả văn học thế giới. Trong quyển 'Vang Bóng Một Thời‛ nhà văn Nguyễn Tuân có kể chuyện về một khách phong lưu ngày xưa nhà rất nghèo mà không chừa được thói quen thắp nến bạch lạp trong đêm khuya thanh vắng để đọc Đường Thi in thạch bản. Trên thế giới ít có quan hệ văn chương nào đặc biệt như quan hệ giữa thơ Đường với thơ Việt, chỉ có thơ Đường chứ không phải toàn bộ thi ca Trung Hoa đă ảnh hưởng sâu xa, phong phú và lâu dài đối với thơ Việt, không phải chỉ ngày xưa mà đến cả ngày nay. Có thể nói không một nhà thơ lớn nào của nước ta lại không cưu mang một món nợ tâm hồn ít nhiều thơ Đường. Người ta đă nói đến 'nguồn Đường‛, 'hồn Đường‛, 'giọng Đường‛ trong thơ Việt như một hệ lụy dài lâu. Đọc lại thơ Đường để mà nhớ lại những ǵ tổ tiên chúng ta đă từng mến yêu trân trọng. Tâm hồn Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan … đều có dấu ấn thơ Đường. Rồi đến những nhà thơ cận đại như Tản Đà, Quách Tấn … chịu ảnh hưởng thơ Đường quá rơ rệt. Hồn thơ Đường vẫn ẩn hiện ở những nhà thơ Tây học không thông thạo chữ Hán như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Chế Lan Viên… Có thể nói rằng thiếu kiến thức thơ Đường, chúng ta sẽ không hiểu thấu đáo thi ca Việt Nam cả cổ điển lẫn hiện tại. Đọc lại thơ Đường để tâm hồn rung cảm với 'sắc liễu bên bờ sông Dương Tử‛, những 'nhành mai đợi tuyết ở núi Cô Sơn‛, 'tiếng chuông khuya của chùa Hàn Sơn‛, 'cḥm mây trắng trên lầu Hoàng Hạc‛… Hôm nay đọc lại thơ Đường là t́m về cái say của Lư Bạch trong Trương Tiến Tửu để suy niệm về thời gian trôi qua trong mỗi sát-na của nhà Phật, nước chảy như thế nầy đây ngày đêm không dứt của Khổng Tử và người ta không tắm hai lần trong một gịng nước của một triết gia Tây Phương. Thơ Lư Bạch có một phong cách phóng khoáng, hào hùng rất đặc biệt. Phong cách ấy gắn liền với nội dung tư tưởng các bài thơ mà cũng gắn liền với nhân cách của nhà thơ. Lời thơ của ông không sắp đặt, trau chuốt nhưng đẹp một cách tự nhiên. Ông là người chống khuynh hướng h́nh thức chủ nghĩa của thời Tề Lương, một khuynh hướng thi ca chỉ chú trọng về thanh luật, đối ngẫu c̣n nội dung th́ ủy mị, vô vị. Ông đă thực hiện được chủ trương trên vào thi ca của ḿnh, bởi ông là người có thực tài nên đă làm cho chủ trương đó thắng lợi. Sống vào thời Thịnh Đường mà ông ít sáng tác các bài thơ theo thể Đường Luật. Thơ ông chủ yếu là nhạc phủ, ca hành, cổ phong nghĩa là thể thơ không g̣ bó theo một khuôn khổ nào, câu dài câu ngắn xen nhau. Dài hay ngắn tùy ư thơ, tùy cảm hứng chứ không lệ thuộc vào vần điệu. Qua bài thơ Tương Tiến Tửu của ông, chúng ta đă thấy được điều nầy Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết. Nhân sinh đắc ư tu tận hoan Mục sử kim tôn không đối nguyệt Nhân sinh ngă tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Phanh dương, tể ngưu thả vi lạc Hội tu nhất ẩm tam bách bôi Sàm phu tử Đan Khâu sinh Tương tiến tửu Bôi mạc đ́nh Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngă khuynh nhĩ thinh Chung cổ soạn ngọc bất túc quư Đản nguyện trường túy bất nguyện tinh Cổ nhân thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Trần Vương tích thời yến B́nh lạc Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền Kính tu cô thủ đối quân chước Ngũ hoa mă Thiên kim cừu Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu Dịch : Sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước Xuống biển rồi có ngược lên đâu Lầu cao, gương xót mái đầu Sớm c̣n tơ biếc, tối hầu tuyết pha Vui cho trọn khi ta đắc ư Dưới vầng trăng đừng để chén không Sinh ta trời có chỗ dùng Ngh́n vàng tiêu hết lại trông thấy về Chén đi đă trâu dê cứ giết Ba trăm ly phải hết một lần Khâu, Sâm hai bác bạn thân Rượu vào xin chớ ngại ngần ngừng thôi Ta v́ bác hát chơi một khúc Bác v́ ta hăy chúc bên tai Ngọc vàng chuông trống mặc ai Tỉnh chi ? chỉ muốn cho dài cuộc say Bao hiền thánh đến nay ai rơ Phường rượu ta tên họ rành rành Trần Vương bữa tiệc quán B́nh Mười phần đấu rượu thỏa t́nh đùa vui Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít Mua rượu ta chén tít cùng chau Ao cừu, ngựa gấm để đâu ? Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon Ngô Tất Tố (dịch) 'Sắp Mời Rượu‛ là tên một ca khúc cổ, Lư Bạch đă mượn ca khúc nầy làm tựa đề cho bài thơ của ḿnh. Quách Mạt Nhược nhận xét : 'Hầu hết những bài thơ hay của Lư Bạch phần lớn được làm trong khi say‛. Khi say con người như vượt thoát mọi kiềm chế, lời nói chếnh choáng sa đà. Trong những lời nói đó có những thành ư mà lúc tỉnh người ta không muốn nói ra hoặc không thể nói ra. Tương Tiến Tửu là một bài thơ lớn v́ nó đă phơi bày một cách chung nhất của một đời người ngắn ngủi, hiện hữu trong một vũ trụ bao la bất di bất dịch. Bài thơ mở đầu bằng một h́nh ảnh, một ẩn dụ sinh động triết lư : Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát. Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết. Nước sông Hoàng Hà từ trên trời chảy lại rồi chảy xuôi về biển và không bao giờ trở lại, và nếu có trở lại chăng th́ đâu có c̣n nguyên vẹn ḍng nước ban đều. Trong bài thơ Thề Non Nước, Tản Đà đă viết : Nước non nặng một lời thề Nước đi đi mải không về cùng non Hai nhà thơ Việt và Hoa đă có những tư duy giống nhau về gịng chảy của thời gian bởi cuộc đời qua tháng năm mới buổi sáng mái tóc c̣n tơ xanh, buổi chiều đă ngă màu tuyết trắng để rồi đi vào cơi già, cơi chết. Những ai đă bước vào tuổi năm mươi trở đi mà Khổng Tử đă định vị ‚ngũ thập nhi tri thiên mệnh‛ chắc hẳn đă giác ngộ sâu sắc điều nầy để từ đó mọi người nên nh́n lại cách sống đẹp hơn, vị tha hơn : Nhân sinh đắc ư tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Người xưa nói rằng : 'Kẻ sĩ v́ người tri kỷ mà chết‛ (sĩ vị tri kỷ giả tử). Tri kỷ có thể là 'bằng hữu tri kỷ‛, có khi là 'hồng nhan tri kỷ‛. Trong Tương Tiến Tửu, Lư Bạch đă cùng hai người bạn tâm đắc Sàm Phu và Đan Khâu ngồi uống rượu, và xem cuộc đời chỉ là một giấc mộng lớn : Xử thế nhược đại mộng Hồ vi lao kỳ sinh Sở dĩ chung nhật túy Đồi nhiên ngọa tiền doanh Dịch Việc đời tựa giấc chiêm bao Làm chi cho phải lao đao nhọc nhằn Vậy nên say suốt hôm mai Bên cây cột lớn nằm dài khểnh chân Vốn là một người cuồng phóng, Lư Bạch không chịu một sự trói buộc nào. Vào đời ông theo một con đường hết sức đặc biệt. Các nhà thơ thời nhà Đường thường tiến thân bằng khoa bảng để ra làm quan. Nhưng Lư Bạch mặc dù học rất giỏi, mười lăm tuổi đă học hết sách Bách Gia Chư Tử và các loại kỳ thư, ông không chịu vào kinh ứng thí, chỉ ở nhà luyện kiếm rồi lên núi cầu tiên phỏng đạo. Ong tin rằng nếu người ta có thực tài th́ sẽ được trọng dụng, và ngh́n vàng nếu có mất đi rồi sẽ có trở lại : Nhân sinh hữu tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Hơn một ngh́n tám trăm bài thơ của Lư Bạch được in thành ba mươi quyển, hầu hết nhà thơ đều lấy đề tài uống rượu, du tiên, ca tụng cảnh thiên nhiên, ca vịnh nhân vật lịch sử, về t́nh bằng hữu … Rượu đối vơi thi nhân là một chất kích xúc tác (stimulant) để làm thơ. Rượu vào thi ra (tửu nhập thi xuất), và những bài thơ làm trong lúc say là những thi phẩm hay nhất, vi diệu nhất. Cái say của Lư Bạch là cái say của chừng mực, chứ không phải sa đà, trụy lạc, mặc dù từ say tới trụy lạc rất gần. Với tư tưởng phù sinh nhược mộng, nhân thế vô thường không phải là nhân sinh bi quan, yếm thế của nhà thơ, ông đă dùng nó như một phương tiện để phản kháng uy thế của bọn quyền thần hầu đạt được cứu cánh sống trong một chế độ tự do nhân bản. Ong đă từng xác định ‚ông không bỏ đời, mà đời đă bỏ ông‛ (ngă bản bất khí thế, thế nhân tự khí ngă). Tiếc thay xă hội mà ông đang sống đầy bất công, không được như ư nên ông đă ‚xỏa tóc ngồi trên thuyền cho bay theo gió‛ (nhân sinh tại thế bất xứng ư, minh triêu tản phát lộng biên chu). Nếu đời không đạt được những ǵ ḿnh mong ước, nhà thơ hoặc ngồi dưới trăng uống rượu một ḿnh (nguyệt hạ độc chước) hoặc đồng ẩm với bạn bè khi gặp cuộc vui: Phanh dương tể ngưu thả vi lạc Hội tu nhất ẩm tam bách bôi … Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngă khuynh nhĩ thinh Dĩ nhiên khi say người ta nói quá lời, nhưng không v́ thế mà ta phải câu nệ từng lời, từng chữ đối với người say. 'Kỵ hổ nan hạ‛ mà 'kỵ tửu‛ th́ càng khó xuống hơn. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đă bày tỏ ư niệm đó qua những câu thơ : Ta về trên lưng rượu Đến đâu th́ đến đâu Có ai say để quên sầu Ḷng ta lảo đảo càng sâu vết buồn Phải chăng nhà thơ họ Vũ đă ảnh hưởng sâu đậm ư thơ của Lư Bạch tiên sinh : Trừu đao đoạn thủy, thủy tự lưu Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu Lấy dao chém nước, nước vẫn chảy, nâng chén giải sầu, sầu vẫn sầu. Ô hay! 'Dục phá thành sầu khiển dụng tửu‛ đă không c̣n hiệu nghiệm! Lư Bạch là một người có bản tính bộc trực, khi ghét ông dám nói thẳng rằng : 'triều đ́nh đă lấy châu ngọc mà mua tiếng cười điệu hát và lấy tám cám nuôi dưỡng hiền tài‛ ( châu ngọc măi ca tiếu, tao khang dưỡng hiền tài ), và trong thời phong kiến, cũng chỉ có Lư Bạch mới gan dạ đặt Đạo Chích cạnh Nghiêu Thuấn trong cùng một vần thơ : Thế vô tẩy nhĩ ông Thùy tri Nghiêu dữ Chích ( Đời mà thiếu Hứa Do, Nghiêu và trộm nào ai rơ). Do đó mà ông xem thường bọn quyền qúy, quan lại, xem thường tiếng chuông, tiếng trống ầm ĩ trong những cuộc đại yến ở triều đ́nh : Chung cổ soạn ngọc bất túc quư Đản nguyện trường túy bất nguyện tinh. 'Tỉnh chi chỉ biết cho dài cuộc say‛! Say để ḥa nhập với đời khi hoài bảo chưa thành. Nhà thơ không muốn ḿnh làm kẻ ngu trung như một Khuất Nguyên khi mà mọi người đều say chỉ có ḿnh ta tỉnh (chúng nhân giai túy, ngă độc tỉnh). Người đời đều say ḿnh phải ăn luôn cả hèm, nuốt luôn cả bă rượu để cùng say th́ mới là người thức thời. Cổ nhân thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Uống rượu mà danh lưu thiên cổ th́ cũng đặc biệt, đem người uống rượu mà so sánh với bậc thánh hiền lại càng đặc biệt hơn. Phải chăng khi say lời nói cường điệu, thái độ ngông nghênh điều nầy dành cho kẻ phàm phu tục tử. Với Lư Bạch, một đấu rượu làm thơ cả trăm thiên, vua gọi về triều chẳng lên thuyền và cho ḿnh là một trong tám vị tiên trong rượu. Bài ‚Tửu Trung Bát Tiên Ca‛ của Đỗ Phủ đă đề cập và minh chứng điều nầy : Lư Bạch nhất đấu thi bách thiên Trường An thị thượng tửu gia miên Thiên tử hô lai bất thượng thuyền Tự xưng thần thị tửu trung tiên Ngựa ngũ hoa và áo hồ cừu giá ngh́n vàng từ xưa vốn là của quư. Nhà thơ đă gọi trẻ đem đổi lấy rượu ngon để cùng với các bạn uống cho tiêu sầu vạn cổ. Bốn câu cuối của bài thơ đă đồng điệu với Đỗ Phủ trong bốn câu đầu của bài Khúc Giang : Triều hồi nhật nhật điển xuân y Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hy Dịch : Khỏi bệ vua ra cố áo hoài Bên sông say khướt tối liền mai Nợ tiền mua rượu đâu không thế Sống bảy mươi năm đă mấy người Tản Đà(dịch) Hai nhà thơ, hai tư tưởng đă gặp nhau như chia xẻ những bức bách cơm áo của đời thường, những bon chen danh lợi nơi Xuân Canh Dần 2010 70 Đặc San Lại Giang triều chính. Rượu như một phương tiện giải tỏa chăng những tiêu sầu khiển muộn mà c̣n thể hiện cái hào khí của ḿnh trong một xă hội đầy ắp bất công khi mà đời sống dân chúng bị bào ṃn đến ră rời từ thể xác đến tinh thần. Viết về Lư Bạch chỉ một bài thôi không đủ bởi trong cái thế giới thi ca của ông mênh mông quá. Đọc thơ ông khó biết ông sáng tác trong hoàn cảnh nào, ông để trí tưởng tượng, t́nh cảm của ḿnh bao trùm lấy cảnh vật. Có người ví thơ Lư Bạch như ‚con ngựa trời bay trên mấy từng mây‛ (thiên mă hành không), có người ví thơ ông như 'sóng dữ vỗ bờ‛ (nộ đào hồ lăng). Nhưng có lúc thơ ông êm ả dịu dàng với những ‚âm thanh ngoài dây tơ‛, 'mùi vị ngoài mùi vị‛ (huyền ngoại âm, vị ngoại vị) mà các nhà thơ đương thời và sau nầy khó mà bắt chước. Một người tài hoa học rộng, giỏi kiếm cung như ông mà đến khi say khướt vẫn không quên được mối sầu vạn cổ. Mối sầu đó chính là nỗi bất măn khôn ngui với một xă hội đầy dẫy bất công, bất hợp lư: tài năng bị coi rẻ, người hiền bị chèn ép, kẻ tầm thường dựa quyền thế lộng hành, tác oai, tác quái. Là vóc dáng thi sĩ lớn thời Đường Huyền Tông, ông đă để lại cho đời sau, qua bao thế hệ, những bài thơ không có tuổi thọ, trong đó bài ‚Tương Tiến Tử‛ đă làm cho tên tuổi ông danh lưu thiên cổ. Trần Đ́nh Mười Nam California, tháng 01, 2010 |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
Cá chuồn (17-11-10)
|
|
|