|
|
Thông Báo |
#21
|
|||
|
|||
20. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại gọi là "ông Táo"? "Táo" là ǵ? AN CHI: Táo là tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt, có nghĩa Ià bếp. Đại táo là bếp to, nấu cho chiến sĩ (quân đội) hoặc nhân viên (cơ quan) ăn tập thể rất đông người. Trung táo là bếp vừa, nấu cho cán bộ trung cấp. C̣n tiểu táo là bếp nhỏ, nấu riêng cho cán bộ cao cấp. Lại c̣n có đặc táo là bếp nhỏ loại đặc biệt thượng hảo hạng. Theo tín ngưỡng xưa, bếp có thần bếp gọi là táo quân, táo vương hoặc táo thần, khẩu ngữ c̣n gọi là táo công. Người Việt Nam đă dịch táo công thành ông táo. Dân gian Việt Nam c̣n lấy hai tiếng ông táo để chỉ từng ḥn trong ba ḥn đất dùng để bắc chảo bắc nồi lên mà xào mà nấu. Những ḥn đất này thoạt đầu th́ cháy nám, rồi lâu ngày dài tháng, trở nên đen thủi đen thui (v́ vậy mà trong khẩu ngữ ở Nam Bộ trước đây, người ta c̣n dùng hai tiếng ông táo để gọi đùa người Ấn Độ, rồi về sau cả lính da đen nữa). |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#22
|
|||
|
|||
21- (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại nói "ngày tư ngày tết" và “tư niên" (là quanh năm). Hai tiếng "tư” này có liên quan ǵ với nhau hay không? AN CHI: Hán ngữ có một từ ghi bằng chữ 玆 , mà âm Hán Việt là tư, có nghĩa là năm, là mùa. Mathews' Chinese-English Dictionary (p.1023. ch.6935) giảng là: "A year, a season”. Sách Lă thị xuân thu có câu: “Kim tư mỹ ḥa, lai tư mỹ mạch” nghĩa là mùa này tốt lúa gạo, mùa tới tốt lúa ḿ. V́ nó cùng một trường nghĩa với tết nên người ta đă ghép nó với từ này thành tư tết, rồi lại xen ngày vào mà nói thành ngày tư ngày tết. C̣n tư trong "tư niên” th́ lại không liên quan ǵ đến tư trong "ngày tư ngày tết" cả. Nó là tư trong tư bề, tư mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứ là bốn. Tư bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tư mùa là suốt bốn mùa, nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lư từ bốn sang mọi, sang quanh trong nghĩa của tư bề, tư mùa đă dẫn đến cách hiểu sai lệch rằng tư có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, v.v.. Với cách hiểu sai lệch này, người ta đă nói tư niên mà hiểu là quanh năm. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#23
|
|||
|
|||
22. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Con lân là con ǵ? Có phải đó cũng là con kỳ lân hay không? Tại sao ngoài Bắc gọi là "múa sư tử" mà trong Nam lại gọi là "múa lân"? AN CHI: Con lân cũng gọi là con kỳ lân. Nguyên kỳ là tên của con đực, c̣n lân là tên của con cái. Người ta ghép lại mà gọi chung là kỳ lân. Ngày nay lân hoặc kỳ lân chỉ cả con đực lẫn con cái. Tiếng Pháp dịch là unicorne, tiếng Anh là unicorn. Lân là con vật đứng hàng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Nó là một con vật thần thoại thân hươu, móng ngựa, đuôi ḅ, miệng rộng, mũi to, có một sừng, lông trên lưng th́ ngũ sắc mà dưới bụng th́ màu vàng. Tục truyền rằng nó là một con vật hiền lành (nhân thú), không đạp lên cỏ tươi và không làm hại các vật sống. Tục c̣n truyền rằng v́ nó là một con thú có nhân như thế cho nên vua chúa ai là người có nhân th́ mới được nh́n thấy nó. Múa lân tức là múa kỳ lân. Sở dĩ trong Nam gọi múa lân mà ngoài Bắc gọi là múa sư tử là v́ nhác trông th́ con lân giống con sư tử (Đại Nam quấc âm tự vị của Húnh-tịnh Paulus Của cũng giảng lân là một "con thú giống con sư tử"). V́ vậy, người ta đă nhầm múa lân thành "múa sư tử” rồi cứ thế mà gọi lâu ngày thành quen. Nhưng cứ nh́n vào cái đầu lân (để múa) với cái miệng rộng, cái mũi to và cái sừng nổi cộm th́ biết ngay đó không phải là con sư tử rồi. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#24
|
|||
|
|||
23. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại gọi là "con giáp"? Mỗi con giáp có bao nhiêu năm? AN CHI: Hai tiếng con giáp là một lối nói của phương ngữ Nam Bộ. Trong phương ngữ này con giáp là một chu kỳ 12 năm âm lịch gọi bằng tên của 12 địa chi từ Tí đến Hợi. Nghĩa này đă cho ra một nghĩa rộng là chu kỳ thời gian từ một năm đă cho đến năm cùng một tên chi với nó sau đó 12 năm, chẳng hạn từ năm Nhâm Th́n 1832 đến năm Giáp Th́n 1844, hoặc từ năm Đinh Hợi 1947 đến năm Kỷ Hợi 1959, v.v.. Do đó mà người sanh năm Nhâm Th́n 1832 lớn hơn người sanh năm Giáp Th́n 1844 một con giáp, c̣n người sánh năm Kỷ Hợi 1959 th́ nhỏ hơn người sánh năm Đinh Hợi 1947 một con giáp. Ngoài ra, trong khẩu ngữ của tiếng địa phương Nam Bộ, con giáp c̣n có nghĩa là con vật tượng trưng của mỗi chi trong 12 địa chi nữa (chẳng hạn con chuột cho năm Tư, con trâu cho năm Sửu, v.v… Do đó mới có câu "Mười hai con giáp không giống con nào”. Vậy tại sao lại gọi là con giáp? Nguyên ngày xưa người ta đă theo thứ tự trước sau của thập can và thập nhị chi mà phối hợp các can và các chi với nhau sao cho có được một chu kỳ gồm 60 đơn vị bắt đầu từ Giáp Tí cho đến Quư Hợi, trong đó mỗi đơn vị được gọi bằng một tên kép gồm có một tên can và một tên chi. Chu kỳ này được tŕnh bày thành một bảng gồm có 60 ô. Bảng này gọi là hoa giáp. Trong phương ngữ Bắc Bộ, hoa giáp đă được nói tắt thành giáp. Giáp thoạt đầu vẫn được hiểu là một chu kỳ gồm 60 năm, về sau lại được linh động hiểu thành một chu kỳ 12 năm như cách hiểu thong thường hiện nay. Tuy cũng cùng một cách chuyển nghĩa như trên nhưng trong phương ngữ Nam Bộ th́ hoa giáp lại trở thành con giáp v́ hai lư do. Một là người ta vẫn bị ám ảnh bởi các con vật tượng trưng cho mỗi chi khi nói đến hoa giáp. Hai là tiếng con vừa có tác dụng nhắc nhớ đến các con vật như đă nói ở trên, lại vừa đồng âm với con là một từ chỉ chu kỳ như trong con nước, con trăng v.v. mà hoa giáp th́ rơ ràng là một chu kỳ. V́ hai lư do đó mà con đă thay thế cho hoa. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#25
|
|||
|
|||
24- (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết xuất xứ của tên gọi Ba Son (Nhà máy Ba Son). AN CHI: Về tên Ba Son, trong Sài G̣n năm xưa, Vương Hồng Sển đă ghi nhận bốn cách giải thích sau đây 1. Trước kia có một anh thợ nguội tên Son, thứ ba, đă vào làm ở sở này. Người ta bèn lấy thứ và tên của anh mà gọi tên sở là Ba Son. 2. Trước khi Ba Son được thành lập th́ nơi đó có một con xẻo chảy qua. Xẻo này có nhiều cá. Người Pháp thường đến câu ở đó và gọi nó là "mare aux poissons” (ao cá). Khi xây dựng xưởng Ba Son, con xẻo tuy bị lấp nhưng tên vẫn c̣n. Người ta bèn phiên âm poissons thành Ba Son để gọi xưởng mới thành lập. 3. Ba Son là do tiếng Pháp reparation có nghĩa là “công việc sửa chữa” mà ra (Ba Son vốn là nơi sửa chữa tàu thủy). 4. Ba Son là do "bassin de radoub"nghĩa là "ụ sửa chữa vỏ tàu mà ra (bassin > Ba Son). Ông Vương Hồng Sển viết rơ như sau: "Theo quyển Promenades dans Saigon, tác giả, bà Hilda Arnold, ghi rằng buổi đầu người Pháp đă xuất ra trên bảy triệu quan thời áy để lấp đất và xây cái ụ tàu "bassin de radoub" này, để có thể sửa chữa các thứ tàu chiến, tàu buôn tại đây khỏi đem về tận Pháp quốc. Thời ấy, cuộc chuyển vận đều do đường thủy, nên cái "bassin de radoub" giúp họ nắm vận mạng xứ này trong tay". Trong bốn cách trên, chỉ có cách giải thích thứ tư là đáng tin nhất mà thôi. Về phần ḿnh, chúng tôi cho rằng Ba Son là do tiếng Pháp bastion (= pháo đài) mà ra và tin rằng sẽ có ngày chúng tôi chứng minh được mối quan hệ này. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#26
|
|||
|
|||
25. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Lục dục, thất t́nh là những t́nh cảm nào? AN CHI: 1. Lục dục là tiếng nhà Phật chỉ sáu điều ham muốn do lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư) mà ra: mắt muốn nh́n đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân muốn hưởng sướng và ư muốn biết hết. 2. Thất t́nh là bảy thứ t́nh cảm thường khuấy động ḷng người: hỉ (mừng), nộ (giận), ai (lo), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét) và dục (muốn). |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#27
|
|||
|
|||
26. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy. Xin cho biết sáu nghệ thuật kia. AN CHI: Sáu nghệ thuật kia là: 1. âm nhạc, 2. múa, 3. hội họa, 4. điêu khắc, 5. kiến trúc, 6. kịch. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#28
|
|||
|
|||
27. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Con dâu của vua gọi là ǵ? Tại sao con rể của vua lại gọi là “pḥ mă”? AN CHI: Con dâu của vua gọi là hoàng tức. Hoàng là một thành tố chỉ những ǵ thuộc về vua, liên quan đến vua. Tức là dạng tắt của tức phụ đă trở nên thông dụng, có nghĩa là con dâu. Con rể của vua vốn được gọi là hoàng tế (tế là rể). Từ đời Ngụy, đời Tấn, chàng rể được phong làm phụ mă đô úy, gọi tắt là phụ mă, âm xưa là pḥ mă. Đây là một chức quan chuyên trách việc ngựa xe cho vua, anh chàng hoàng tế được cái tên pḥ mă là nhờ ở chức này. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#29
|
|||
|
|||
28. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Tứ hỉ" là ǵ? Có phải đó cũng là "tứ khoái" hay không? AN CHI: Tứ khoái là quan niệm của người Việt Nam gồm có: ăn, ngủ, đ. và ị. Đây là bốn cái thú có tính chất sinh lư. C̣n tứ hỉ là một quan niệm của người Trung Hoa, có nghĩa là bốn điều mừng, bốn điều tốt lành. Quan niệm này bắt nguồn từ một bài thơ dân gian, tục gọi là Tứ hỉ thi (bài thơ về bốn điều vui mừng). Đây là một bài thơ mà các trường học ở thôn quê Trung Hoa ngày xưa vẫn dạy cho học sinh. Nó đă được chép trong Dung trai tùy bút của Hồng Mại đời Tống, Nguyên văn (phiên âm Hán Việt) như sau: Đại hạn phùng cam vũ; Tha hương ngộ cố tri; Động pḥng hoa chúc dạ; Kim bảng quải danh th́. Dịch nghĩa: Nắng hạn lâu ngày gặp mưa nhuần Nơi xứ người gặp được bạn cũ Đêm đuốc hoa trong pḥng cô dâu Lúc thi đỗ bảng vàng treo tên. Mỗi câu thơ nói lên một điều vui mừng. Tuy câu thứ ba nói lên điều vui mừng về đêm tân hôn, có phần nào trùng với cái khoái thứ ba, nhưng rơ ràng tứ khoái và tứ hỉ là hai quan niệm riêng biệt. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (05-01-11)
|
#30
|
|||
|
|||
29. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Xin cho biết tên nước ta qua các thời kỳ lịch sử. AN CHI: Sau đây là quốc hiệu qua các đời: Sau khi An Dương Vương mất Cổ Loa và tự tử th́ nước Âu Lạc bị Triệu Đà sát nhập vào quận Nam Hải để lập thành nước Nam Việt. Nước này lại bị nhà Hán chiếm rồi đặt thành Giao Chỉ bộ chia làm 9 quận trong đó 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, chủ yếu là Giao Chỉ, rồi đến Cửu Chân, có những phần đất cũ của Âu Lạc. Năm 203, Hán Hiến Đế cải gọi là Giao Châu. Năm 679, Đường Cao Tông đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Thời pháp thuộc, nước ta bị chia làm Tonkin, Annam và Cochinchine. Trước năm 1945, vẫn dịch thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Từ năm 1945, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa gọi là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Sau đó, chính quyền thân Pháp gọi là Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần, rồi Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Trước 1945, tên Việt Nam vẫn có được dùng nhưng đó chỉ là ngôn từ của sách báo hoặc là yếu tố trong tên của tổ chức (như: Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, v.v. ) mà thôi.1. Xích Quỷ (thời Kinh Dương Vương), |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (05-01-11)
|
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|