NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Thơ > Thơ Quán
Nạp lại trang này Giai thoại thơ đường - Cao Tự Thanh

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

 
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
Prev Bài viết trước   Bài viết tiếp theo Next
  #11  
Cũ 09-12-10, 01:42 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Nhớ hoài trăng núi cũ

...Nhân hữu bi hoan ly hợp,
Nguyệt hữu âm tịnh viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.

(...Người có buồn vui tan hợp,
Trăng có tỏ mờ tṛn khuyết,
Từ xưa khó vẹn toàn).


Nh́n nhận cuộc sống con người từ quy luật của giới tự nhiên, Tô Thức với đoạn trong bài Thủy điệu ca đầu nói trên đă nhắc tới một nỗi buồn lớn của nhân sinh - nỗi buồn ly biệt. Quả thật sau nỗi khổ sinh lăo bệnh tử, điều làm người đời bận tâm nhiều hơn cả có lẽ là những cuộc chia tay, những cuộc chia tay nhiều khi mang mùi vị đắng cay tới mức khiến họ phải xếp nỗi buồn sinh ly ngay sau niềm đau tử biệt. Hiện thực thế nhân ấy cũng tràn vào tác phẩm của các thi tăng đời Đường, nhưng đáng nói là nhiều khi như một minh chứng cho tôn chỉ vạn sự giai không, kết hợp ư đạo với t́nh đời ở đây lại làm nên một biệt sắc trong thơ văn của những người coi cuộc sống là phù du, nhân sinh là ảo ảnh.

Sư Pháp Chiếu có bài Tống Thiền sư quy Tân La như sau:

Vạn lư quy hương lộ,
Tùy duyên bất toán tŕnh.
Đăng sơn bách nạp tệ,
Quá hải nhất bôi khinh.
Dạ túc y vân sắc,
Thần trai tựu thủy thanh.
Hà niên tŕ bối diệp,
Khước đáo Hán gia thành?

(Muôn dặm về quê cũ,
Lâu mau phó chữ duyên.
Lên non áo rách lối,
Qua bể chén đưa thuyền.
Ngủ giữa màu mây kết,
Ăn trong tiếng suối rền.
Năm nào kinh lá bối,
Lại chở tới Trung nguyên?)


Đưa người đồng đạo Triều Tiên về lại nước cũ Tân La, sư Pháp Chiếu cũng bộc lộ t́nh lưu luyến, ḷng mến thương qua hai câu thơ cuối. Nhưng bài thơ tuyệt nhiên không có nỗi đau thương, không có lời oán hận, mà ngược lại, lại vẽ ra tư thái ung dung thanh thản của một bậc cao tăng trên đường trở lại quê xưa. Nẻo thiên sơn vạn thủy, cảnh ăn bụi ngủ bờ không làm bận ḷng cả người đi lẫn kẻ ở, bởi đi lâu hay mau, gặp lành hay dữ th́ cả hai đều quan niệm là tùy duyên. Cuộc tiễn đưa không phải không nặng t́nh, song thái độ tùy duyên được khẳng định ngay đầu bài thơ đă mở ra cho mối t́nh đồng đạo ở đây một không gian biệt ly vượt khỏi những tiếc thương, buồn đau thế tục. Chính v́ vậy mà nói cho cùng th́ việc nhà sư Tân La kia có trở lại đất Trung Hoa và tái ngộ sư Pháp Chiếu hay không cũng chẳng phải là điều làm hai người trăn trở, bởi trở lại hay không trở lại, tái ngộ hay không tái ngộ th́ cũng đều v́ đạo pháp, bởi nhân duyên...

Đầu niên hiệu Chí Đức (756 - 758) vương tử nước Tân La là Kim Địa Tạng vượt bể tới Trung Hoa, vào ẩn cư tu hành trong núi Cửu Hoa, có một tiểu đồng người Trung Quốc theo hầu hạ. Sau người tiểu đồng xin về, sư làm bài Tống đồng tử hạ sơn rằng:

Không môn tịch mịch nhử tư gia,
Lễ biệt vân pḥng hạ Cửu Hoa.
Ưu hướng trúc lan ky (kỵ) trúc mă,
Lăn ư kim địa tụ kim sa.
Thiên b́nh giản để hưu chiêu nguyệt,
Phanh dánh âu trung băi lộng hoa.
Hảo khứ bất tu tần hạ lệ,
Lăo tăng tương bạn hữu yên hà.

(Vắng vẻ Thiền môn chú nhớ nhà,
Lạy chào sư phụ xuống non Hoa.
Ngựa tre tơ tưởng niềm nhân thế,
Cửa Phật lơ là chuyện xuất gia.
Băng cạn đáy khe thôi múc gánh,
Hoa sôi trong ấm hết pha trà.
Lên đường khỏe mạnh, đừng rơi lệ,
Mây khói cùng sư vẫn bạn mà).


Khác với sư Pháp Chiếu chia tay với một người trong cửa Thiền, ở đây sư Kim Địa Tạng chia tay với một người rời bỏ cuộc sống tu hành trở về cùng thế tục. Cho nên trong bài thơ có tới hai cuộc chia tay: cuộc chia tay giữa người tiểu đồng với lư tưởng tu hành lồng trong cuộc chia tay giữa chú ta cùng tác giả. Nhưng mang tấm ḷng về lại với đời thường, người tiểu đồng kia cũng lập tức phát sinh tục niệm với những giọt lệ thế nhân trong giờ ly biệt. Thái độ hồn hậu trong lời an ủi của sư Kim Địa Tạng ở hai câu cuối rơ ra tấm ḷng bao dung của một vị cao tăng đắc đạo, song chính v́ vậy mà ở đây lại xuất hiện một nghịch lư trong cái thế song hành tương phản: kẻ trở về với gia đ́nh như hằng mong ước dường như lại thấy ḿnh mất mát nên rơi nước mắt, c̣n người ở lại lẻ loi trong cô tịch vẫn thản nhiên thấy ḿnh c̣n đủ cả người quen bạn cũ giữa cảnh yên hà trên núi Cửu Hoa...

Nhân hữu bi hoan ly hợp... Những người trong cửa Thiền cũng có lúc phải chia tay và cũng đều cảm xúc lúc chia tay, nhưng họ nh́n nhận hay cố gắng nh́n nhận những cảm xúc ấy bằng một con mắt thản nhiên, hay nói đúng hơn, cố gắng đồng quy những xử cảnh, nhất hóa những cảm xúc ấy vào với nhịp điệu hữu sinh hữu diệt thường hằng của ḍng đời vô tận vô cùng miên viễn. Trên đường hướng này mà vào một ngày cuối xuân tiễn bạn, sư Vô Muộn đă viết bài Mộ xuân tống nhân:

Chiết liễu đ́nh biên thủ trụng huề,
Giang yên đạm đạm thảo thê thê.
Đỗ quyên bất cố ly nhân ư,
Cánh hướng lạc hoa chi thượng đề.

(Vin liễu giơ tay măi cạnh đ́nh,
Khói sông nhàn nhạt cỏ xanh xanh.
Đỗ quyên chẳng nghĩ người ly biệt,
Lại cứ kêu hoa rụng dưới cành).


Bài thơ như một bức tranh ở đó một khoảnh khắc của cuộc tiễn đưa được tác giả khắc họa trong một giây phút ngưng thần: người tiễn giơ tay lần thứ hai mà chưa nỡ bẻ cành liễu tặng người đi, giơ tay bẻ liễu mà mắt nh́n ra bờ sông xa tít tắp cỏ xanh và nhạt nḥa khói sóng, trong khi tai nghe tiếng chim cuốc kêu ran dưới gốc dương tả tơi hoa rụng c̣n tâm tư th́ liên tưởng tới việc tạo vật vô t́nh. Ở đây thi pháp Đường thi với tâm thức Thiền môn đă được kết hợp một cách tài t́nh: người cứ chia tay c̣n cuốc cứ kêu xuân chẳng cần biết tới mối t́nh ly biệt, chim đầu hạ không kêu cho hoa cuối xuân song mối ly t́nh lại gắn tiếng chim hạ kêu với cảnh hoa xuân rụng, mà mối liên hệ chim kêu - hoa rụng kia tự nó lại hàm chứa sự tiếp nối xuân - hạ tự nhiên của đất trời tạo vật, cũng giống như đời người hết hợp rồi tan...

Nguyệt hữu âm tịnh viên khuyết... Dĩ nhiên, thông thường th́ cuộc chia tay nào cũng có kẻ ở người đi, và trong ba bài thơ trên th́ ba nhà sư Pháp Chiếu, Kim Địa Tạng và Vô Muộn đều đóng vai tṛ kẻ tiễn. Trong một vai tṛ ngược lại, sư Thương Hạo làm bài Lưu biệt Gia Hưng tri kỷ để từ giă bạn bè trước khi rời chùa Đông Lâm:

Nhất tọa Đông Lâm tự,
Tùng lai vị hạ san.
Bất nhân tầm trưởng giả,
Vô sự đáo nhân gian.
Túc vũ sầu vi khách,
Hàn cầm tán vị hoàn.
Không hoài cựu sơn nguyệt,
Đồng tử tụng kinh nhàn.

(Một bận lên chùa học,
Hôm nay mới hạ san.
Chẳng mong t́m trưởng giả,
Bởi rảnh tới nhân gian.
Mưa tối cho buồn khách,
Chim côi chửa họp đàn.
Nhớ hoài trăng núi cũ,
Lúc nhỏ tụng kinh nhàn).


Thông thường th́ trong những cuộc chia tay người đi vẫn là kẻ mang tâm tư bị xáo trộn nhiều hơn, nên ở đây tâm t́nh của sư Thương Hạo cũng bị xáo động trước khi chính thức bước vào cảnh sống của một Thiền sư vân du hành đạo. Đáng chú ư là ông lại tự cho rằng ḿnh rời chùa Đông Lâm không phải để t́m những người trưởng giả có thiện duyên nhằm hoằng dương Phật pháp, mà chỉ v́ nhàn rỗi nên bước vào chốn nhân gian. Song người ta lại thấy ông dự cảm về nỗi buồn làm khách trên đường giữa đêm mưa đồng thời trăn trở cảnh bầy chim lạnh bay tan trong một liên tưởng thân côi vắng bạn. Và một cách tự nhiên, ông cũng theo hoài niệm trở về dĩ văng, ở đó dưới vầng trăng lung linh màu kỷ niệm, ông và bạn bè c̣n là những tiểu đồng chuyên cần kinh kệ trong một tâm trạng vô lo...

Tuy nhiên, nếu chỉ như vậy th́ bài thơ của sư Thương Hạo chẳng có ǵ đáng gọi là thơ Thiền. Nó mang một cấu trúc ch́m riêng với đầu mối nằm ở sự liên hệ giữa câu 4 và câu 8. Tác giả xuống núi v́ nhàn rỗi và nhớ măi những ngày xưa nhàn rỗi! Điểm bất thường nếu không nói là phi lư này đ̣i hỏi phải được giải thích, và chỉ có thể giải thích nó trên cơ sở một cách giải mă khác, một hướng tiếp cận - cách nhận thức khác đối với chữ nghĩa bài thơ. Từ giă cảnh sống nhàn ngày cũ để bước vào cuộc tiêu dao trong cảnh sống không nhàn, sư Thương Hạo đă mang tấm ḷng nhàn - đạo tâm nó giúp ông không chỉ nh́n thấy nơi vầng trăng một vầng trăng nữa. Và trên lằn ranh giữa hai cảnh sống mà cũng là hai thế giới nhận thức - ứng xử này, ông đă hiểu rằng cuộc chia tay với các bạn tri kỷ ở chùa Đông Lâm thật ra cũng là cuộc chia tay với chính ḿnh trong quá khứ. Cho nên vầng trăng trong hoài niệm của sư Thương Hạo không phải là vầng trăng tự nhiên với những tỏ mờ tṛn khuyết như trong bài Thủy điệu ca đầu của Tô Thức mà là một vầng trăng biểu kiến, nó vằng vặc măi ánh sáng an nhiên trầm mặc tỏa ra từ một tấm ḷng phá chấp đă ḥa vào cảnh giới của không gian tịch diệt vô sinh...

Đưa người đi, sư Pháp Chiếu nói Lâu mau phó chữ duyên, sư Kim Địa Tạng nói Lên đường khỏe mạnh, đừng rơi lệ, sư Vô Muộn nói Đỗ quyên chẳng nghĩ người ly biệt. Từ biệt bạn, sư Thương Hạo nói Nhớ hoài trăng núi cũ. Cả bốn người đều hướng tới một bản chất sau hiện tượng, một quy luật trong khoảnh khắc của cuộc đời và nhận thức để ứng xử. Có lẽ đi hay ở, tan hay hợp đối với nhà Phật đều là chuyện nhân duyên...
Trả lời với trích dẫn
 


Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 02:10 PM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.