NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Thơ > Thơ Quán
Nạp lại trang này Nhà thơ Quách Tấn và bài Văn tế Vua Quang Trung

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

 
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
Prev Bài viết trước   Bài viết tiếp theo Next
  #1  
Cũ 20-04-11, 10:42 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.803
Thanks: 45.829
Thanked 83.828 Times in 21.718 Posts
Mặc định Nhà thơ Quách Tấn và bài Văn tế Vua Quang Trung

Quách Tấn (1910 – 1992 ), thi sĩ, nhà văn , hiệu Trường Xuyên, tự Đăng Đạo, snh ngày 4/1/1910 tại làng Trường Định, huyện B́nh Khê, tỉnh B́nh Định (nay thuộc xă B́nh Ḥa, huyện Tây Sơn, tỉnh B́nh Định), Sống và làm việc ở Nha Trang từ năm 1940 đến ngày qua đời. Thuở nhỏ ông học chữ Hán ở nhà với cha, đến năm 12 tuổi chuyển sang học chữ Pháp và Quốc Ngữ. Năm 1929 đậu bằng Thành chung, được bổ làm việc tại ṭa sứ Huế, Nha trang ….
Trước thế chiến thứ 2, ông từng cộng tác với các báo: An Nam tạp chí, Tiếng dân, Phụ Nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy …
Lúc viết báo, làm thơ, ông chơi thân với Hàn Mặc Tử, Bích khê, Chế Lan Viên, đương thời gọi là Bàn Thành Tứ Hữu (bốn người bạn ở đất Đồ Bàn – B́nh Định)

Sau năm 1945 , ông tản cư về B́nh Định, tham gia công tác B́nh dân học vụ, dạy ở Trung học B́nh Định, là thành viên của Mặt trận Liên Việt huyện B́nh Khê. Ḥa b́nh lập lại (1954), ông hồi cư về Nha Tang; đi làm công chức ở Quy nhơn; có lúc làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh B́nh Định .. Rồi về hưu trong năm 1965 tại Nha Trang ..

Quách Tấn là một nhà thơ cổ điển (Đường luật) Việt Nam. Theo Nguyễn Hiến Lê (1) “Ông là nhà thơ Đường siêng năng nhất Việt Nam".

Ông từng có hơn 1500 bài thơ Đường, trong dó có khoảng 900 bài cận thể, thất tuyệt, ngũ tuyệt … trên 400 bài lục bát và chỉ có một số ít đă in (đă xuất bản) trong các tập “Mùa cổ Điển", “Mộng Ngân Sơn”, “Đọng Bóng Chiều”, “Tố Như Thi” … Nhưng dầu ở thể thơ ǵ th́ thơ Quách Tấn vẫn có cảm xúc mới, ư lạ mà nồng nàn, khiến người đọc rung động, bồi hồi theo nỗi ḷng cô đơn lắng đọng, yêu đời của tác giả; hoặc đ́u hiu như bên bờ sông lạnh … Đó là tiếng hư không vọng về từ cơi âm:

Bờ nghiêng lau lách bóng sương lồng,
Trăng muộn vàng canh cánh mặt sông,
Đời mới khói mây ch́m bóng mộng,
Gọi đ̣ một tiếng lạnh hư không!


Hoặc dạt dào t́nh cảm mà không bi lụy như bài Mộng thấy Hàn Mặc Tử :

Ơi Lệ Thanh! Ơi Lệ Thanh!
Một gấc trưa nay lại gặp ḿnh.
Nhan sắc châu sa màu phú quư
Tài ba bút trổ nét tinh anh,
Rượu tân thu cũ say sưa chuyện,
Hương lạ trời cao bát ngát t́nh,
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng
Nhớ thương đưa lạc gió quanh ḿnh.


Đúng Quách Tấn là nhà thơ cổ điển (như tên gọi một thi phẩm của ông), rất chung thủy với thơ Đường của văn học Việt Nam. Nhưng có điều đáng suy ngẫm là thơ họ Quách không cổ, không lỗi thời với tháng năm trong tiến triển của thơ Việt. Bên cạnh nhà thơ cổ điển này - Quách Tấn thi sĩ – c̣n là văn sĩ viết văn xuôi rất sung măn; đó là Nhà Tây Sơn (1988); Đôi nét về Hàn Mặc Tử (1972); Đời Bich Khê(1971); Thi Pháp Thơ Đường (1978), mà đặc sắc nhất là hai cuốn có tính địa phương chí: Non nước B́nh Định (1968), Xứ Trầm hương (1969) mang phong cách văn chương, đầy tính nghệ thuật. Song ít ai biết đến một tài lạ khác là Quách Tấn có khiếu viết Văn Tế các Danh nhân Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu một trong nhiều bài văn tế mà ông dă sáng tác.

Đồng bào B́nh Định Tế Vua Quang Trung
<Ngày Kỷ niệm Đống Đa>

Than ôi !
Ḍng Côn thủy mây lồng thức gấm
Măn vui t́nh mai liễu đọ xuân
Đỉnh Tây Sơn sóng cuộn sóng tùng
Chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn linh xưa;
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc;
Sưc điều binh, tài khiển tướng
Hạng Vơ, Lưu Bang;
Ḷng trọng sĩ, lượng tôn hiền
Văn Xương, Huyền Đức,
T́nh đất nước giận cơn chia xẻ;
Lưỡi gươm trần dẹp loạn cứu dân.

Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn,
Thân áo vải giúp Anh dựng nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật.
Xiêm phô áo phủ,
Trên chín trùng toan mối trị b́nh,
Vuốt dũa nanh mài,
Ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược.
Cơng rắn tội ḱa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước;
Tế Trời Đất, đàn giao cao vút núi,
Bóng tinh kỳ sáng dọi buổi Đăng quang;
Nh́n non sông khí giận ngất tầng mây;
Tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuât phát;

Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh
Chiến tượng hai trăm tinh tường trận mạc
Ḷng một quyết ra tay hàng hổ
Hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau;
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang,
Cùng tướng sĩ chung vui Nguyên đán trước.
Cạn lời ủy lăo, trống dục cờ giong;
Dốc dạ truy t́m, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi hăm giặc.

Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng;
Xong đồn nọ tới đồn kia, ngói tan dá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt,
Đót hương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng,
Quấn cổ thước khăn vàng, quyêt một trận chẳng hơn th́ thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ;
Thuốc súng chôn quanh thành, chông sắc cắm khắp lũy
Thêm bốn bề đạn rạt rào mưa;

Quân ta nhờ trí sáng gan bền,
Ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm b́,
Hè một rập, sức cuồn cuộn thác.
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ,
Sông máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương thượng gần thâu,
Núi thây chồng chất.
Nghi Đống liệu khôn bề sống sót,
Vội vàng treo cổ! Đống Đa!
Sĩ Nghĩ may t́m được lối ra;
Hớt hải thoát thân măn Bắc.
Ngoài ải sôi gió tan mùi sát khí,
Niềm hân hoan nhuộm thắm đất sơn xuyên.
Vào Thành Long cờ rợp bóng vinh quang;
Áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.
Mười ngày hẹn trước trời đất chứng lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa mừng tiệc ngọc,
Lửa tạnh hề biên cương,
Nền cao hề xă tắc.
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm. .
Triều Măn Thanh bóp bụng sống chung trời.
Chí đấu ranh son sắt vững vàng non,
Mi ền Lưỡng Quảng quyết tâm đ̣i lại đất!

Nhưng than ôi !
Tấm gan rèn đá Trời, chửa vá xong,
Đỉnh ngự ch́m mây rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dồn thoi phút để mối tơ chùng.
Nghiệp đế vương đuối sức giữ ǵn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn lật!
Trời Phú xuân sương gió lạnh lùng,
Biển Thị Nại bèo mây tản mát !
Bút chép sử múa men, tay đắc thế;
Trang oanh liệt son nḥa !
Nền ghi ân khuất bóng cô thôn;
Gương anh hùng thủy nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận;
Lao công Tinh Vệ ngậm ngùi thương !
Ǵn dấu linh, chốn cũ khó nguôi t́nh .
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột.

Cũng may thay !
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống ṇi nay đă thoát.
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám,
Ngọn Đông phong mát mẻ vén màn sương.
Vườn anh hoa dua nở tự do,
Bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc.

Chúng tôi nay:
Chung gọi ơn xuân
Kính dâng lễ bạc
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nỗi thẳm ngàn xa hương tinh thành bát ngát .
Ḍng lịch sử mở ra ôn lại,
Dịu dang , chữ gấm dệt lời hoa,
Tranh vĩ nhân mở rộng xem chung,
Lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm Hồ con cá nhảy,
Trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng.
Trưng lĩnh cánh diều bay,
Theo tiếng gió nhịp nhàng tiếng nhạc...
Linh thiêng xin chứng.


Q . T phụng soạn
Nguồn: Vanhoanghean
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
kehotro (20-04-11)
 


Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 12:55 AM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.