|
|
Thông Báo |
#1
|
|||
|
|||
36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ - Huyền Li
Lời người biên soạn: Về Nguyễn Công Trứ có rất nhiều giai thoại. Trong số 81 câu chuyện vừa kịp sưu tầm trong dịp này, chúng tôi xin chọn lọc biên soạn lại để đưa vào tập sách 36 giai thoại tiêu biểu, với mong muốn dựng lên một chân dung Nguyễn Công Trứ qua cái nh́n “dân gian” - từ góc độ khác với những lí giải, nghiên cứu hàn lâm - của hậu thế về con người của cụ Thượng Uy Viễn.
1. NGÔNG NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI… CHO ĐẾN TẬN KHI CHẾT! Ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Tuất (1778), tại tư gia của viên quan Tri huyện Quỳnh Côi, Thái B́nh, bà huyện họ Nguyễn, sau cuộc vượt cạn kinh hoàng đă sinh hạ được một cậu con trai thân dài, trán rộng, mũi cao. Các cụ xưa nói “Trai mồng một, gái ngày rằm” quả không sai - vừa mới lọt ra khỏi ḷng mẹ, cậu bé đă tỏ ngay sự ngông bướng của ḿnh bằng cách không chịu mở mắt nḥm và không thèm mở miệng khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác. Người nhà và hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gơ liên hồi, cậu cũng điềm nhiên mặc! Chỉ đến khi cả đám người lớn đă mỏi ră rời, xuôi tay lắc đầu th́ cậu mới dơng dạc cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng! Người cha của đứa bé mừng khôn xiết, v́ ông vốn hiếm muộn, năm đó đă ngót nghét lục tuần mới có được cậu con trai nối dơi(1). Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây cũng là một điềm triệu báo điều hỉ, ông bèn ra thư pḥng lấy giấy bút đặt tên cho con trai. Ông chọn cho cậu quư tử bướng bỉnh tên huư là Củng - theo chữ Nho có nghĩa là bền chặt, vững vàng; c̣n tên chữ là Trứ - nghĩa là rơ ràng, nổi trội. Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ tương lai, và cũng là nhà thơ trác việt kiêm tay chơi số một một thời. Cả cuộc đời của cậu Củng - Trứ về sau quả đúng như những quan sát dân gian và ước vọng thầm kín của người cha già - bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ! Nhưng đó chỉ mới là cái ngông khởi đầu. Tới tận khi đón cái chết, Nguyễn Công Trứ vẫn ngông. Theo lời truyền, trước khi sang thế giới bên kia - chắc là cũng sẽ tiếp tục cái cuộc chơi bất tuyệt - Cụ dặn con cháu không nên bày cuộc tang lễ để khỏi tốn kém, làm khổ dân làng, mà cứ để Cụ nằm nguyên trên chơng như khi đang ngủ, thả xuống huyệt là xong! Nhưng không biết là các con cháu có dám nghe theo lời Cụ hay không? Xưa nay người đời sau vốn coi trọng cái “lễ” của ḿnh hơn là hiểu và tuân theo được cái lí, cái ḷng giản dị và khoáng đạt, không chấp nê của những bậc vĩ nhân vừa khuất. Cụ mất, theo Niên biểu ghi là ngày 14 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), nhưng chính trong Gia phả lại chép là ngày Rằm. Nếu như vậy, th́ quả là Cụ lại “chơi ngông” quả chót: lựa đúng ngày Sóc (mồng một) để đến nhập cuộc tang bồng, rồi chọn đúng ngày Vọng trăng tṛn (15 Âm lịch) để vĩnh viễn rũ trường danh lợi ra đi(2). Đúng là… đến cả chết cũng ngông! 2. NGOÀI VƯỜN - TRONG BUỒNG! Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh dĩnh ngộ hơn thiên hạ, lại tinh nghịch, lém lỉnh chẳng ai b́, nổi tiếng “Thần đồng”. Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị. Khoang 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt; ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và trong đám học tṛ đó có cậu bé Củng. Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các tṛ một vế đối. Được thầy đồng ư, ông Đồ Trung nói: - Ta có câu đối này, tṛ nào đối hay và đối nhanh trước sẽ được thưởng một quan tiền! Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối:“Ngoài vườn cây đại nở hoa đại”. Các học tṛ ngồi nh́n nhau, mặc dù rất thèm quan tiền (với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai t́m được vế đối lại để lấy. Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, th́ chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi: - Tṛ Củng, sao không đối đi? Củng khép nép thưa: - Thưa, con sợ bị quở phạt ạ. - Tṛ cứ đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng, - nếu hay th́ ta sẽ thưởng cho, c̣n nếu có điều ǵ sơ suất th́ ta và thầy cũng không bắt lỗi tṛ đâu. Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc: - Thưa, con xin đối là“Trong buồng ông Trung ấp bà Trung” ạ! - Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở th́ tất nhiên phải đối với ấp rồi! Thầy và tṛ cả lớp được một trận cười nghiêng ngả, c̣n ông chủ nhà Đồ Trung th́ đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một quan tiền! 3. TƯỞNG MẦN BA TRỰ… Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường về Củng gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ ham chơi khác, Củng liền nhập bọn; và cũng như những đứa trẻ mải chơi khác, cậu say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác của Củng là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm chí cả khóc nữa, c̣n Củng th́ vừa đi về nhà vừa đọc: Tưởng mần ba trự mà chơi vậy, Bỗng chốc nên quan đạ sướng chưa?!(3) Thật ra, đây có thể chỉ là một câu nói buột miệng, lúc đó cậu tṛ Củng chắc không cố ư làm thơ; nhưng nó đă bộc lộ tính cách ngang tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ. 4. SẴN GÁNH CÀN KHÔN GHÉ THẲNG VAI Vào một ngày hè nóng nực, thầy học dẫn cả đám học tṛ đi ra con sông cách trường độ hơn một cây số để tắm mát, ḥng làm dịu bớt cái nóng ghê người của xứ Nghệ. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép bằng những tảng đá xanh, thầy tức cảnh nghĩ ra một vế đối Nôm, bảo các tṛ cùng đối: Đá xanh ghép cống, ḥn dưới nống ḥn trên. Trong khi các tṛ khác đang vắt óc suy nghĩ th́ cậu Củng đă có ngay vế đối: Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước. Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài t́nh: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều nhà Nguyễn); c̣n “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương (từ này nay đă ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người đời c̣n t́m thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uư, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước!(4). Đang nói chuyện th́ một trận mưa to ập đến, thầy tṛ phải vội vàng chạy vào xin trú trong một quán nước ven đường. Ngay lúc đó có một người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đă vội vă ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các tṛ thử làm vài câu thơ tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang ṿ đầu t́m chữ nghĩa th́ tṛ Củng đă ứng khẩu đọc hai câu: Tạnh cơn phong vũ ḷ ngay mặt, Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai. Thầy học và tất cả mọi người trong quán đều tấm tắc khen hai câu thơ tuyệt diệu của Củng, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một đấng trượng phu tương lai. C̣n về phép đối th́ khỏi phải nói: hoàn chỉnh, chan chát từng ư, từng chữ - “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối với “thẳng vai”… Và thầy càng khẳng định dự đoán tṛ Củng về sau sẽ làm nên công to nghiệp lớn. 5. NÍN HƠI BIỂN ĐỘNG BA TẦNG SÓNG Một hôm, thầy học đến thăm nhà tṛ Củng, cùng với thân phụ của cậu ngồi đàm đạo, lâu lâu hai người lại kéo thuốc lào, thả khói thơm lừng từng đám bay ra như mây. Củng được phép đúng bên hầu thầy và cha để hóng chuyện. Chợt thấy cha đưa tay vê vê điếu thuốc nạp vào nơ, cậu vội đốt đóm đưa lên. Cụ Đức Ngạn Hầu rít một hơi dài khoan khoái, rồi nhả khói bay ra thành luồng như một con rồng uốn khúc. Cúi ḿnh đón cái điếu cày từ tay cha, bất ngờ cậu bé Củng ứng khẩu đọc luôn hai câu: Nín hơi, biển động ba tầng sóng, Há miệng, rồng bay chín khúc mây. Thầy học không nín được, vỗ đùi khen hay. Cha của Củng cũng tṛn mắt nh́n, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Như được động viên, Củng sung sướng đọc tiếp: Ba tầng sóng dội vang trời bể Năm sắc mây bay thấp thoáng trời. Thấy tṛ Củng đọc bốn câu thơ xuất thần đó, thầy học đắc ư lắm, gọi cậu đến gần, xoa đầu khen ngợi rồi nói với cụ thân sinh của cậu: - Tṛ Củng sẽ có một tương lai phong vân đắc lộ, sự nghiệp kinh nhân, tôi rất hănh diện có một môn sinh như Củng. Nhưng ở đây trường t*&#ư nhỏ bé, tŕnh độ các học sinh c̣n thấp kém nhiều so với Củng. Nếu Củng c̣n lư*&#u học ở đây, tôi e sẽ làm uổng phí th́ giờ của Củng. Vậy tôi khuyên ngài nên cho Củng xin lên trường quan Đốc trên tỉnh theo đ̣i bút nghiên để chóng thành tài... Nghe theo lời khuyên của thầy, Củng từ đó được lên tỉnh thành Hà Tĩnh học. Trước ngày lên đường đi học với thầy khác, Củng đến dâng thầy học cũ của ḿnh đôi câu đối để tạ ơn: Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi cầu viễn; Nhi quốc gia chi học quy hữu định, tương sử tự hạ tiệm thăng cao. Nghĩa là: Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần mà đi t́m nơi xa; Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ chỗ thấp mà bước lên chỗ cao. Thế là “túi đàn, cặp sách đề huề”, tṛ Củng rời đất Nghi Xuân lên đường vào thành Hà Tĩnh học. Lúc này cậu đă 15 tuổi, trở thành Nho sinh trường Đốc học của tỉnh. 6. KHẢ ÚY ĐOAN ĐOAN ĐÍCH HẬU SINH Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, Nho sinh Củng lang thang dạo phố th́ bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán. Đang lớ ngớ không biết đường tránh, cậu vô t́nh cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới tŕnh quan về tội vô lễ. Cậu tṛ vừa bị giải đến nơi, đă nghe quan quát hỏi: - Sao cậu dám thất lễ với bản quan? - Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rơ các nghi lễ nên mới vô t́nh vô lễ, xin quan lớn dung thứ. - À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan sẽ ra một vế đối, cậu đối hay th́ được tha, bằng không sẽ bị giam về tội “phạm thượng”! Rồi quan đọc: - Khách khoa bảng, khách văn ch*&#ương, giữa quan khách, khách lại gặp khách. Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay: - Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai! Củng lại tung ra một câu thơ khẩu khí! Quan Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà c̣n thưởng thêm một quan tiền đồng (trị giá bằng sáu quan tiền kẽm). Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành: - Quả là Khả úy đoan đoan đích hậu sinh. Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh nầy rất đáng sợ”. |
|
|