|
#1
|
||||
|
||||
Vang bóng một thời - Nguyễn Tuân
VANG BÓNG MỘT THỜI Tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân Trọng Đạt Vang Bóng Một Thời viết năm 1940 đă được dư luận chung coi như một trong những tác phẩm hay và nổi tiếng nhất của nền văn chương Việt Nam, cũng là một trong những tác phẩm được nhắc tới nhiều nhất, được coi như ngang hàng với Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, Đôi Bạn của Nhất Linh, truyện đă được tác giả Nhà Văn Hiện Đại ca ngợi như sau. Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ. Đó là tập Vang Bóng Một Thời (Tân Dân – Hà Nội 1940). Tập truyện đă làm sống lại cả một thời phong kiến đă qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống, sinh hoạt xă hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó cũng là niềm nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trước những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kỳ của một thời đại đă qua, cái thời ấy nay đă chết rồi, chỉ c̣n để lại một tiếng vang: . . . . Vang Bóng Một Thời. . Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại Hà Nội trong một gia đ́nh nho giáo, con cụ Tú Hải Vân , thời c̣n trẻ ông đă theo gia đ́nh sinh sống tại nhiều tỉnh miền Trung . Năm 1929 tham gia băi khóa bị đuổi học, trốn sang Băng Cốc bị bắt giải về nước và bị bỏ tù, năm 1937 sống bằng nghề viết, năm 1938 sang Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, năm 1945 theo Việt Minh , mất năm 1987 tại Hà Nội. Cũng như ngh́n, vạn người yêu nước khác ông đă tham gia kháng chiến chống Pháp, theo Hoàng Văn Chí trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (De la colonisation au communisme), kháng chiến khởi đầu bằng phong trào yêu nước và kết thúc bằng Cộng Sản, những nhà ái quốc như Nguyễn Tuân đă lỡ theo nên phải theo luôn , ngẫu nhiên rơi vào thế cưỡi cọp, đă leo lên rồi không thể nhẩy xuống được nữa. Các tác phẩm chính của ông viết trước ngày theo kháng chiến Việt Minh gồm: Ngọn Đèn Dầu Lạc viết 1939, Quê Hương 1940, Tàn Đèn Dầu Lạc 1941, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua 1941, Tùy Búy Một, Tùy Bút Hai 1943, Nguyễn 1945, Chùa Đàn 1946. Vang Bóng Một Thời do Tân Dân Hà Nội xuất bản 1940, được coi như tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân, được Thạch Lam khen hay trên báo Ngày Nay và nổi tiếng ngay. Tác giả của nó là con người giang hồ ăn chơi phóng đăng, ông đă diễn tả cuộc đời ăn chơi phóng túng và trụy lạc trong Quê Hương, Một Chuyến Đi, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Ngọn Đèn Dầu Lạc. Nhưng ông lại tỏ ra hoài niệm dĩ văng, tiếc nhớ những nét huy hoàng của một nền văn minh tinh thần, đó lại chính là bề mặt trái của con người trên. Ông Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3 có nói. Những hàng trên viết ngay từ 1938 (trên Tiểu thuyết thứ bẩy) có thể coi là nguồn gốc tậm lư và cảm hứng của Vang Bóng Một Thời về sau. Yêu quá khứ đi t́m trong quá khứ những h́nh ảnh nên thơ nên mộng. Nguyễn Tuân là một nhà văn không thuộc về trường phái nào, văn đoàn nào, ông tự đứng riêng ra một phái cả về văn chương tư tưởng, Vũ Ngọc Phan xếp ông vào loại nhà văn chuyên về tùy bút. Tùy bút được định nghĩa là để tùy ư cho ngọn bút diễn tả một cách rộng răi tự do tâm tư của tác giả. Ông Phạm Thế Ngũ định nghĩa như sau. Duy có điều là kư sự của ông không phải như ở giai đoạn Nam Phong. . . . . mà là đại biểu cho một giai đoạn già dặn . . . . . để tự do, tùy bút, muốn viết ǵ th́ viết, ghi chép ǵ cũng được. Những truyện của Nguyễn Tuân hơn cả với Thạch Lam chẳng có ǵ làm truyện cả; nghĩa là những yếu tố thông lệ gọi là động tác, là thắt là cởi. Chỉ là những mảnh đời hé lộ của cuộc sống xưa, hay là những kể lể dông dài về một cuộc gặp gỡ, những tâm sự lê thê, những cảm tưởng vụn vặt của chính ḿnh. Nhà phê b́nh văn học trong nước Nguyễn Mạnh Đăng định nghĩa như sau. Tùy bút là ǵ? Định nghĩa vừa dễ lại vừa khó. Dễ v́ khái niệm bản thân nó đă tự giải thích,: là phóng bút, tùy bút mà viết chứ sao. . . có thể hiểu một cách đại khái thế này: người viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà ḿnh có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy tưởng của ḿnh một cách thoải mái phóng túng. Nguyễn Tuân với Vang Bóng Một Thời và Thạch Lam với Hà Nội Băm Sáu Phố Phường được coi là hai người đầu tiên xây dựng thể tùy bút, tại miền Nam Việt nam từ sau 1954 đến 1975, các nhà văn tên tuổi nhiều người đă viết tùy bút, nay tại Hải ngoại, thể văn này lại rất thịnh hành được nhiều người ưa chuộng. Vang Bóng Một Thời được coi như cuốn tùy bút đầu tiên của Việt Nam, mặc dù ngoài trang đầu đề là truyện nhưng trên thực tế người ta vẫn coi đây chỉ là tập tùy bút v́ truyện đa số không có kết thúc hoặc gỡ nút đúng theo tinh thần của một truyện, tác phẩm được in ra nhằm vào lúc có cơn gió phục hưng nên đă được độc giả hoan nghênh nồng nhiệt, từ 1940 đến 1945 đă được tái bản ba lần, được tặng giải thưởng Gia Long. Nay trong nước Vang Bóng Một Thời vẫn là một tác phẩm được độc giả vô cùng hâm mộ: năm 1988 nhà xuất bản Văn Học đă tái bản lần thứ sáu với 30.000 cuốn bản giấy đẹp, b́a cứng. Toàn bộ tác phẩm gồm mười một truyện hay bài được xếp theo thứ tự như sau: Chém Treo Ngành, Những Chiếc Ấm Đất, Thả Thơ, Đánh Thơ, Ngôi Mả Cũ, Hương Cuội, Chữ Người Tử Tù, Ném Bút Ch́, Chén Trà Trong Sương Sớm, Một Cảnh Thu Muộn, Báo Oán. Tác phẩm gồm hai loại đề tài chính: tàn bạo, phũ phàng rùng rợn và thanh tao nhẹ nhàng thi vị. Tôi xin đề cập theo thứ tự hai thể loại ấy như sau: Bữa Rượu Máu, Ném Bút Ch́, Chữ Người Tử Tù, Báo Oán, Hương Cuội, Chén Trà Trong Sương Sớm, Những Chiếc Ấm Đất, Một Cảnh Thu Muộn, Ngôi Mả Cũ, Thả Thơ, Đánh Thơ . BỮA RƯỢU MÁU Đây là bài đầu tiên của tác phẩm, Nguyễn Tuân ngụ ư cho là hay nhất nhưng lạ thay nó lại ít được các nhà phê b́nh như Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ . . . ca ngợi. Trong cuốn Nguyễn Tuân, Về Tác Giả Và Tác Phẩm, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội năm 2001, dầy 600 trang khổ lớn, gồm trên 100 bài nói về Nguyễn Tuân, Bữa Rượu Máu cũng không được các nhà phê b́nh trong nước chú ư bằng các truyện khác. Đây là một đề tài tàn bạo, phũ phàng, rùng rợn hoàn toàn trái ngược với tinh thần nhẹ nhàng thanh tao của các nghệ thuật cầm, kỳ, thi, tửu v́ nó là một nghệ thuật giết người, chém người ngọt như chuối vậy. Nguyễn Tuân ẩn núp dưới chiêu bài làm sống lại một nghệ thuật cổ để phơi bầy tội ác ghê tởm, rùng rợn của thực dân Pháp và bọn tay sai bán nước vời loài người. Bát Lê là một tay đao phủ có tiếng, chuyên xử dụng thanh quất, loại kiếm hai lưỡi nay đă về già, mỗi lần có án trảm, ông chỉ ra pháp trường cho có mặt, việc đă có người khác đỡ tay. Nhưng nay quan lớn Đổng lư Quân vụ gọi vào cho biết có mười hai tên tử tù sắp phải bị hành h́nh, quan công sứ (thực dân) muốn được thị kiến. Bát Lê có tài chém đầu rất ngọt, chỉ một nhát lướt qua là đứt cổ nhưng vẫn c̣n dính một làn da. Thế là Bát Lê được phép vào vườn chuối để tập luyện cho thuận tay. Đến ngày hành h́nh, Bát Lê hoa thanh quất, mười hai cái đầu của tội nhân bị chẻ gục xuống, không một giọt máu vấy vào áo hắn, Bát Lê được quan công sứ thưởng mấy cọc bạc đồng bà lăo. So với toàn bộ Vang Bóng Một Thời, Chém Treo Nghành đă được Nguyễn Tuân diễn tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ, trong sáng và trang trọng; từ tả cảnh cho đến lối hành văn đều đă được chăm sóc tận t́nh. Ngay khi mở đầu tác giả đă tạo cho bài một không khí rùng rợn, quái đản qua tiếng hát tẩy oan của tên đao phủ, ngụ ư hắn vô tội. Trời nổi cơn lốc Cảnh càng u sầu Tiếng loa vừa dậy Hồi chuông mớm mau Ta hoa thanh quất Cỏ xanh đổi màu Sống không thù nhau Chết không oán nhau Thừa chịu lệnh cả Dám nghĩ thế nào Người ngồi cho vững Cho ngọt nhát dao Hỡi hồn! Hỡi quỉ không đầu Ngay khi Bát Lê c̣n tập luyện tại vườn chuối, sự diễn tả đă đủ thể hiện sự phũ phàng tàn bạo của tội ác: Bát Lê lại tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu dẫy bên trái, Bát Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân h́nh người qú, chịu tội. Thế rồi vừa hát vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê đă hát hết mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối. Để tăng phần hồi hộp, rùng rợn Nguyễn Tuân đă tả cảnh rất trịnh trọng, cảnh tĩnh cũng như hoạt cảnh. Trước nhà rạp người ta đă chôn sẵn mười hai cái cọc tre bị vồ gỗ đập mạnh xuống toét cả đầu. . . . . . . . . . . . Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất th́ sáng hơn nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi h́nh quái lạ. Những bức tranh mây chó mầu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt. Mọi người chờ đợi một cái ǵ. Tác giả đă vô cùng khéo léo tả chân kỹ kưỡng sự chuẩn bị cho cuộc hành quyết để che mắt bọn kiểm duyệt, bọn thám tử thực dân, ông đă thành công trong sự tố cáo tội ác man rợ của bọn chúng như sau: Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu, qú gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở băi đoạn đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân lúc qú phải để được gót chân đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như thế tử tù sẽ phải rướn ḿnh lên mà nhận lấy lưỡi đao thả mạnh xuống cái cổ căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đă thoát hết khỏi người họ. Những người bị hành h́nh là dư đang của giặc Băi sậy, những nhà ái quốc sa cơ thất thế, bằng nghệ thuật tả chân đường gươm tuyệt diệu của tên đao phủ, Nguyễn Tuân đă thành công trong sự tố cáo hành động bạo ngược của bọn sát nhân, chúng đă nhẫn tâm lấy việc giết người làm tṛ chơi tiêu khiển. Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Rứt mỗi hồi chiêng mớm, th́ một tấm linh hồn lại ĺa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li! Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy ṿng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái âm lơ lờ rờn rợn, quan công sứ chăm chú nh́n Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù múa hát đến đâu th́ những cái đầu tội nhân bị qú kia chẻ gục đến đấy, những tia máu phun kêu ph́ ph́, vọt cao lên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống. Nguyễn Tuân và Thạch Lam những nhà văn Việt Nam đầu tiên xử dụng lối mô tả tàn bạo y như Sholokhov trong tác phẩm vĩ đại Sông Don Thanh B́nh (The Quiet Don) với những đường gươm bửa đôi đầu địch thủ, bằng những nét chấm phá tuyệt diệu tác giả đă tô điểm thêm bản cáo trạng tội ác của bọn sát nhân như sau. Bát Lê làm xong công việc, không nghỉ ngơi, chạy tuốt vào đứng trước nhà rạp. Bấy giờ quan Công Sứ mới nh́n kỹ. Y mặc áo dài trắng, một dải giây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng của y không một giọt máu phun tới, quan Công sứ gật gù hỏi quan Tổng Đốc để nhớ lấy tên họ một người đao phủ có lối chém treo nghành rất ngọt. Ngài thưởng cho Bát Lê mấy cọc bạc đồng bà lăo. Tác giả đă ẩn ḿnh vô cùng khéo léo dưới cách mô tả nghệ thuật hành h́nh để tố cáo tội ác của bọn sát nhân khát máu với nhân loại ngày một cao và nhiều hơn, ông đă qua mặt được cặp mắt cú vọ của bọn kiểm duyệt. Lúc quan Lưu Trú gần cầm mũ áo từ về ṭa sứ, quan Đổng lư Quân vụ c̣n ân cần buộc ông thông ngôn Nam Kỳ dịch cho đủ câu này. -Bẩm quan lớn, chém treo nghành như thế này là phải lựa vào những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhộn nhạo quá, tử tù đông quá, th́ ty chức đă có cách khác. Là chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi qú hướng về một chiều. Đại để nó cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta róc mắt mía. Thuật chém treo nghành của Nguyễn Tuân khiến tôi lại nhớ đến thuật sử sóc siên của bọn Thổ Nhĩ Kỳ khi chúng cai trị Nam Tư hồi thế kỷ thứ 18 trong cuốn tiểu thuyết bất hủ Cầu Sông Drina (Il est un pont sur le Drina) của nhà văn Nam Tư Ivo Andrich viết năm 1945, được giải Nobel văn chương năm 1961 mà ông Phạm Công Thiện đă cho là giải văn chương xứng đáng nhất trong ṿng mười năm qua. Họ trói kẻ tử tù bắt nằm xuống đất rồi lấy một cây cọc vót nhọn đầu bịt sắt đóng từ hậu môn đóng lên. Tên đao phủ là một tay rất thiện nghệ, hắn đóng rất khéo khiến cho mũi nhọn nằm giữa xương sống và các bộ phận trọng yếu như tim, gan, phèo, phổi. . . nó không đụng vào xương sống và các bộ phận ấy để khiến cho tên tử tội phải chết ngay. Hắn đóng từ từ cho cọc lên đến tận cổ mà tội nhân vẫn c̣n sống. Khi ấy chúng đem dựng cọc nơi bờ sông để răn đe nhân dân, những kẻ dám chống lại chúng, nạn nhân phải chịu đau đớn hai ngày sau mới chết. Ivo Andrich cũng như Nguyễn Tuân đă tả chân kỹ lưỡng những nghệ thuật giết người kinh hoàng khủng khiếp ấy để tố cáo với nhân loại tội ác và thú tính của bọn thực dân bạo ngược. Mặc dù phải vượt qua hàng rào kiểm duyệt gai góc của thực dân, Nguyễn Tuân vẫn lém lỉnh đưa vào đoạn kết những lời tiên tri cũng như ước vọng của ông về ngày tàn của chế độ thực dân đại gian đại ác. Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu c̣n dính vào cổ người chết qú kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút cát, bụi lên, xoay ṿng quanh đám tử thi. Bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân. Lối hành văn cổ kính, chịu ảnh hưởng của truyện Tam Quốc, Tây Hán Chí. . . Bố cục sáng sủa, khoa học, tả cảnh linh hoạt, sống động . . khiến cho Chém Treo Ngành trở thành tùy bút nổi bật nhất trong Vang Bóng Một Thời, đă được coi như một trong những áng văn tuyệt diệu nhất của nền văn chương Việt Nam. Tôi thiết nghĩ chúng ta cũng nên phiên dịch tác phẩm ấy ra các tiếng ngoại ngữ để tố cáo tội ác tầy trời của bọn thực dân, để cho cả thế giới thấy cái bộ mặt ghê tởm của chúng, bọn thực dân thường huyênh hoang ta đây yêu chuộng công bằng, bác ái, đi truyền bá văn minh nhưng thực chất chúng chỉ là bọn uống máu người không tanh đă đem cảnh máu chảy thịt rơi ra làm tṛ tiêu khiển y như những tên bạo chúa La Mă ngày xưa vậy. ..... Lần sửa cuối bởi hoatigon208410; 03-12-11 lúc 02:13 AM |
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post: | ||
phale (03-12-11)
|
|
|