|
#1
|
|||
|
|||
Quy định sử dụng chứng cứ ghi âm
Theo điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự, tài liệu nghe được sẽ được coi là chứng cứ nếu bạn xuất tŕnh với ṭa án văn bản xuất xứ hoặc văn bản liên quan tới việc thu âm, thu h́nh.
Điều 81, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về chứng cứ như sau: "Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những ǵ có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Ṭa án hoặc do Ṭa án thu thập được theo tŕnh tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Ṭa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những t́nh tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự". Căn cứ quy định tại Điều 82, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011), băng ghi âm là tài liệu nghe được và được coi là một nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 83 về xác định chứng cứ, băng ghi âm được coi là một chứng cứ khi thỏa măn điều kiện sau đây: Các tài liệu nghe được, nh́n được được coi là chứng cứ nếu được xuất tŕnh kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu h́nh đó. Như vậy, đoạn băng ghi âm (lén) giữa bạn và đối tác làm ăn được coi là chứng cứ khi bạn xuất tŕnh được kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của đoạn băng ghi âm hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc ghi âm. Ví dụ: biên bản làm việc (có chữ kư đầy đủ của 2 bên) cùng thời điểm ghi âm hoặc văn bản xác nhận bạn và đối tác có gặp mặt, có lịch làm việc cùng nhau….; đồng thời đối tác phải thừa nhận giọng nói trong băng ghi âm là của họ hoặc có kết luận của cơ quan giám định xác nhận giọng nói trong đoạn băng ghi âm là của đối tác. Trường hợp không đáp ứng được các điều kiện đó, đoạn băng ghi âm của bạn chỉ được xem là tài liệu liên quan đến vụ án, có giá trị tham khảo chứ không thể có giá trị chứng minh trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Công ty luật Song Thanh Theo VNE |
|
|