![]() |
|
![]() |
#1
|
||||
|
||||
![]()
1. Chuyện hai cậu học trò, nhà buôn và nhà sư
Trên con đường nhỏ, có bốn người đang rảo bước, hai cậu học trò, một nhà buôn và một nhà sư khất thực. Hai cậu học trò bảo nhau: - Hôm nay trên báo Học trò cười có 1 câu đối rất hay. - Cậu đọc cho mình nghe thử ? Cậu kia đọc: - “Da trắng vỗ bì bạch – rừng sâu mưa lâm thâm” Cậu này nghe thấy câu đối hay liền giở sổ ra chép lại, nhà buôn thấy vậy, cười khảy nói: - Có mỗi hai câu ngắn tủn vậy mà cũng không nhớ, ta chỉ nghe một lần là nhớ được ngay, đâu cần phải ghi sổ với sách. Rồi ông ta đọc: - “Da trắng vỗ bì bạch – rừng sâu mưa lâm thâm”. Một cậu học trò nói: - Bác thông minh vậy cho cháu hỏi một câu được không ạ ? Mặt nhà buôn vênh lên, ông ta hiu, hiu tự đắc: - Được, cháu muốn hỏi gì cứ hỏi. - Nhà cháu có hai cái giá sách, một cái đã chất đầy sách ở những ngăn dưới, chỉ còn chổ trống ở những ngăn rất cao bên trên, một cái chỉ chứa ít sách thôi, các ngăn đều có rất nhiều chỗ trống, hôm nay cháu mua thêm một quyển sách mới, vậy bác bảo cháu bỏ sách vào giá nào thì dễ. Nhà buôn nói: - Tất nhiên là cháu cho sách vào giá đang chứa ít sách sẽ dễ hơn rồi. Hai cậu học trò cười khúc khích, nhà buôn lấy làm lạ lắm, một lúc sau, hiểu ra, ông ta nổi cáu: - Tao từng nay tuổi rồi mà chúng mày dám bảo tao ít kiến thức hơn chúng mày à? - Cháu không dám, chắc chắn là bác nhiều kiến thức hơn chúng cháu chứ ạ, chúng cháu làm sao so sánh với bác được - cậu học trò lễ phép. - Hừm …hừm, trẻ ranh chúng mày bạ đâu nói đấy, nói bậy bạ không suy nghĩ trước sau gì cả.. Nhà buôn nói vậy nhưng cũng thấy nguôi giận dần. Cậu học trò lại nói: - Bác cho cháu hỏi thêm một câu ạ: - Hừ ! Không sách vở gì nữa nghe không ! - Dạ, một công ty có hai cái nhà kho, nhà kho 1 chỉ dành để chất loại hàng tốt nhất, còn nhà kho 2 thì có thể cho bất cứ loại hàng nào vào cũng được, cả hàng tốt nhất, hàng thải, loại, cong vênh. Bây giờ có thêm hai lô hàng loại tốt nhất, hai công nhân cùng lúc khuân hàng xếp vào hai nhà kho, vậy công nhân ở nhà kho nào sẽ xong việc trước, và vì sao ạ? - Hừ…hừm…à…à..người công nhân ở nhà kho thứ nhất sẽ xong trước, vì ở nhà kho 1 toàn hàng tốt, sẽ cùng kích cỡ, chỉ việc đặt vào là xong, còn ở nhà kho số 2 thì có cả hàng tốt lẫn hàng loại, cong, vênh, nên phải sắp xếp cẩn thận, nếu không sẽ đổ. - Vậy sớm hôm sau có người đến mua hai lô hàng tốt, hai người công nhân lấy hàng ra khỏi hai nhà kho, người công nhân nào sẽ lấy hàng ra trước ạ? - Ờ … cũng là người công nhân ở nhà kho số 1, vì kho 1 chứa cùng 1 loại hàng nên không mất thời gian lựa chọn, còn công nhân ở nhà kho số 2 phải tìm đúng loại hàng nên mất nhiều thời gian hơn. - Vậy nếu kho chỉ chứa toàn hàng tốt thì lấy ra sẽ nhanh hơn mà không phải “suy nghĩ trước sau gì” hả bác ? - Ờ ờ … hả ! Ông nhà buôn bỗng dưng tái mặt đi, hai cậu học trò cười phá lên, còn nhà sư từ đầu đến cuối không nói một lời, vẻ mặt thanh thản vô cùng. * Lưu ý: Truyện này các bạn không nên tập trung nhiều vào nội dung hỏi đáp giữa hai cậu học trò và nhà buôn, sự hỏi đáp đó là để vui, không có ý nghĩa nhiều, điều tôi muốn nói khi viết truyện này được gửi vào hình ảnh nhà sư. Nhà buôn vì muốn khoe tài nên bị nhục, phải chuốc lấy sự giận dữ, bực tức vào mình. Hai cậu học sinh tuy có đủ thông minh để khiến cho nhà buôn bẽ mặt mà cười vui một chút, nhưng cái vui ấy cũng chỉ là nhất thời. Chỉ có nhà sư là có hành vi đúng đắn nhất. Tất nhiên câu truyện của ba người kia nhà sư nghe thấy hết, nhưng ông không xen vào. Nếu là người bình thường, khi chứng kiến câu truyện, dù không nói vài câu cũng sẽ phải cười cùng hai cậu bé. Còn là người chậm hiểu thì lại không thể có được nét mặt thanh thản. Nhà sư không để ngoại cảnh tác động đến mình, tức là đã tu tập đến độ “Nhất trần bất nhiễm” rồi, đã có được sự thanh thản an lạc trong tâm hồn, và cái này mới là cái trường tồn. |
The Following 6 Users Say Thank You to buivhai For This Useful Post: | ||
Cá chuồn (13-09-10),
CM4Q (12-09-10),
Hạ Phượng (15-09-10),
Hà Lam Thủy (30-10-21),
hoatigon208410 (15-11-10),
Nhím con (12-09-10)
|
#2
|
||||
|
||||
![]()
Hỏi một câu thuần túy văn học nhé (vì đây là 1 diễn đàn văn chương mà), theo bạn, thế nào là một chuyện ngắn, và nó có những tiêu chuẩn gì?
|
The Following User Says Thank You to tranquang For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-11-10)
|
#3
|
||||
|
||||
![]() 2. Câu chuyện về tình bạn Ở làng kia có hai người bạn chơi rất thân với nhau, một anh thì thông minh lanh lợi, anh kía lại khỏe mạnh dẻo dai. Anh thông minh vốn được mọi người nể phục, còn anh khỏe mạnh thì rất trung thực, nên không ai nghi ngờ anh bao giờ. Hai anh đi đâu cũng có nhau, lại do mỗi người có một thế mạnh nên họ làm gì cũng thành công. Thông Minh vốn khéo léo trong xử thế nên sớm lấy được người vợ rất đảm đang, thương chồng hết mực. Còn Khỏe Mạnh vì không biết ăn nói nên tuy tìm hiểu nhiều mà mãi chẳng có cô gái nào đồng ý lấy anh. Anh khỏe mạnh buồn lắm. Về phía anh thông minh, tuy rất muốn giúp bạn, nhưng chuyện tình cảm nếu không để tự nguyện đến với nhau thì không mong có hạnh phúc. Nên dẫu có lòng vì bạn mà Thông Minh cũng đành bó tay. Lần này Khỏe Mạnh đang rất thích một cô gái xinh đẹp ở làng bên. Cô này vốn có nhiều đám ngó nên mỗi lần Khỏe Mạnh đến chơi đều thấy bọn thanh niên tấp nập ra vào, anh thấy bực mình lắm, nghĩ: - “Mình đã để lỡ bao nhiêu mối rồi, mối này mà còn để lỡ thì suốt đời chắc ở không. Phải quyết tâm, mạnh tay nên mới được!”. Anh khỏe mạnh dự định sẽ chặn đường đánh dằn mặt bọn thanh niên, để cho chúng không dám bén mảng đến nhà người anh yêu nữa. Nhưng đám thanh niên rất đông nên tuy tự tin vào sức mạnh của mình, Khỏe Mạnh cũng phải thận trọng. Nếu đánh mà thua bọn chúng thì chính anh sẽ không dám đến nhà cô gái. Anh quyết định rủ Thông Minh cùng hành động. Sáng sớm hôm ấy, Khỏe Mạnh đến nhà Thông Minh để bàn bạc. Vốn là người rất sáng suốt, Thông Minh nhìn ra ngay tính toán của bạn mình là sai lầm. Làm như vậy không khéo cô gái kia sẽ sợ hãi mà không dám nhìn mặt anh khỏe mạnh nữa. Nếu Khỏe Mạnh hành động như vậy mà cô gái kia đồng ý đến với anh thì e rằng cô cũng khó trở thành người vợ tốt của anh. Thông Minh phân tích sự việc cho Khỏe Mạnh. Theo anh, chỉ có dùng tình cảm chân thật đi tìm hiểu thì Khỏe Mạnh mới tìm được người vợ hợp với mình. Vốn đã chịu quá nhiều thất bại trong tình trường, Khỏe Mạnh không còn đủ kiên nhẫn nghe lời Thông Minh nữa. Anh khăng khăng giữ ý kiến của mình và kết luận: - Cậu phải giúp mình, vì tình bạn của hai ta ! Dù không đồng ý với cách giải quyết của bạn, nhưng thấy bạn đã nổi nóng, lại một phần thương bạn, một phần sợ hỏng đi tình cảm sâu nặng giữa hai người, Thông Minh đành gật đầu đồng ý. Tuy vậy, anh vẫn thấy trong lòng không được thoải mái lắm, hành động này vì lý do gì cũng có điều không thỏa đáng. Anh thông minh suy nghĩ suốt cả buổi sáng hôm ấy, đến bữa cơm, vợ dọn cơm ra anh cũng không buồn ăn. Thấy chồng mình hình như có tâm sự, chị vợ gặng hỏi, nhưng anh chẳng nói gì. Anh vốn luôn tự tin với quyết định của mình, hơn nữa anh có quan niệm: “đàn bà xen vào chuyện gì cũng chỉ gây thêm rắc rối”. Mỗi khi có chuyện anh đều lẳng lặng suy nghĩ rồi một mình giải quyết. Những lúc ấy chỉ có rượu may ra mới làm anh mở lời. Biết tính chồng, chị vợ lặng lẽ vào nhà bê bình rượu ra, đổ vào cái bát rồi để xuống trước mặt anh. Anh thông minh cầm bát rượu lên uống một ngụm lớn rồi khà một tiếng, đặt bát xuống tiếp tục suy nghĩ. Đang lúc băn khoăn, bất chợt anh nhìn thấy từ đằng xa có một nhà sư tiến lại. Đó chính là nhà sư thông thái thường hay đi khất thực qua làng. Vốn tôn sùng đạo phật và kính trọng những người tu đạo nên Thông Minh rất chăm chỉ cúng dường tam bảo. Anh đã có duyên gặp gỡ và quen biết nhà sư này. Anh hiểu ông chính là một vị cao tăng đã đắc đạo. Nay đang gặp phải vấn đề khó giải quyết lại nhìn thấy ông, anh mừng lắm, chạy vội ra. - Bạch thầy, xin mời thầy vào nhà con nghỉ chân, cho con được cúng dường thầy bữa cơm trưa nay ạ. Vốn quen với sự cung dưỡng nhiệt thành của anh, nhà sư vui vẻ nói: - Đa tạ thí chủ ! Rồi theo chân anh vào nhà. Anh thông minh tự tay xới cơm vào bình bát cho nhà sư, mặt nở nụ cười rạng rỡ. Chị vợ thấy chồng từ sáng sớm đã có vẻ lo âu, buồn bực, nay lại rạng rỡ cười thì cũng vui lây. Chị nói với nhà sư: - Thưa thầy, chồng con không biết có chuyện gì khó nghĩ mà suốt cả sáng nay anh ấy cứ đứng ngồi không yên, cơm chẳng buồn ăn. Đến bây giờ gặp thầy mới thấy cười đấy ạ. Nhà sư nhìn anh chồng nói: - Thí chủ vốn nổi tiếng thông minh, có chuyện gì có thể khiến thí chủ phải khó nghĩ chứ ? Anh thông minh ngập ngừng: - Thưa thầy, con quả đang gặp phải vấn đề rất khó xử, muốn được xin ý kiến của thầy. - Có chuyện gì thí chủ cứ nói, xem bần tăng có thể giúp được gì không ? Anh thông minh liền kể lại hết mọi việc xảy ra với anh khỏe mạnh, và sự khó xử của mình. Nghe xong nhà sư nói: - Thí chủ chờ một chút, bần tăng dùng xong bữa rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Nói rồi nhà sư cầm đũa, bưng bát lên ăn cơm. Anh thông minh ngạc nhiên lắm. Nhà sư vừa nói muốn được nghe chuyện, hình như có ý muốn giúp anh ngay. Bây giờ nghe xong ông lại bảo ăn cơm trước. Anh chỉ biết nói mỗi câu: “dạ”. Và được mấy miếng cơm, nhà sư bỗng chép miệng than: - Chà cơm khô thật khó nuốt. Rồi nhà sư cầm bát rượu mà anh thông minh vừa uống chưa hết, đổ luôn vào bát cơm của mình, chắc ông tưởng bát nước. Giật mình, anh thông mình vội nói: Ấy chết ! thưa thầy, bát đấy là rượu ạ, không phải bát nước. Nhà sư làm như không nghe thấy gì, ông tiếp tục đưa bát cơm lên miệng. Anh thông minh vội ngăn lại, nói: - Thưa thầy, bát cơm này hỏng rồi, để con xin dâng thầy bát khác. Chỉ chờ có vậy, nhà sư đặt bát xuống hỏi: - Vì sao thí chủ ngăn không để bần tăng ăn bát cơm này ? - Bạch thầy, bát cơm này đã chan rượu. thầy không thể ăn được ! - Vậy bây giờ ta vẫn ăn, mà ta còn mời thí chủ ăn chung bát cơm này với ta, thí chủ có ăn không ? - Bạch thầy, cơm đã hỏng, con không ăn được ạ ! - Bạn của thí chủ từ trước vốn đang ăn một bát cơm trắng ngon, nay lại đổ rượu vào cho hỏng cơm mà ăn. Sao thí chủ không ngăn anh ta lại, mà còn có ý định ngồi ăn chung vậy ? Anh thông minh bây giờ mới hiểu ra nhà sư đang giáo huấn mình, anh vội đáp: - Thưa thầy, con vốn biết việc này là không phải, nên mới băn khoăn. Nhưng từ trước Khỏe Mạnh vốn giúp con nhiệt thành chẳng nề hà. Con chưa từng giúp lại anh ấy được việc gì. Bây giờ anh ấy có việc nhờ, dẫu biết là việc không đúng, mà con không giúp thì áy náy thầy ạ. - Thí chủ quả là có nghĩa khí với bạn. Tuy nhiên, giúp bạn có nhiều cách, mỗi cách đều đem lại kết quả khác nhau. Có cách có lợi cho bạn. Có cách không mang lại lợi ích gì, cũng không gây hại. Còn có cách tuy gọi là giúp bạn nhưng lại có hại cho bạn. Thí chủ muốn chọn cách nào ? - Dạ, con hiểu ý thầy. Tuy nhiên nếu cứ kiên quyết ngăn cản Khỏe Mạnh, con sợ anh ấy hiểu nhầm là con chỉ biết lợi dụng bạn, mà không chịu đồng cam cộng khổ với bạn. Nhà Sư nói: - Đồng cam cộng khổ là gì? Khi bạn ăn bát cơm đã hỏng, mình không cản còn ngồi vào ăn cùng bạn, đó gọi là đồng cam cộng khổ sao ? Anh Thông Minh im lặng không biết đáp thế nào. Nhà sư nói tiếp: Thực ra giúp bạn vốn không cần để ý đến cách hành động, cũng không cần quan tâm bạn có hiểu ta hay không, mà chỉ nên chú ý đến kết quả của hành động. Người bạn tốt thật sự luôn mong muốn làm được điều tốt đẹp cho bạn mình, còn thân mình thì không hề để ý. Nếu thí chủ có thể làm được điều có ích cho bạn, nhưng vì sợ bạn hiểu sai mình mà không làm nữa. Đi làm cái việc mà bản thân biết sẽ gây hại cho bạn, mong bạn thấy cái nhiệt tình của mình. Tức là thí chủ đã đặt bản thân mình cao hơn tình cảm bạn bè rồi. Thí chủ vốn nổi tiếng là người thông minh, vậy sao lại để cho tình cảm làm mình trở thành hồ đồ vậy? Anh thông minh ngẩn người ra suy nghĩ, rồi cất tiếng, giọng quả quyết: - Thưa thầy, con đã hiểu ! Rồi anh xin phép nhà sư, ngẩng cao đầu đi thẳng về phía nhà người bạn. Lần sửa cuối bởi buivhai; 01-06-16 lúc 08:10 PM |
The Following 2 Users Say Thank You to buivhai For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-11-10),
Nhím con (16-09-10)
|
#4
|
||||
|
||||
![]()
3. Câu truyện về Niềm Tin
Có một chàng trai mang một tấm lòng đầy nhiệt huyết và một tâm hồn rất trong sáng hăm hở bước vào đời . Chàng tin chính nghĩa, tin cuộc sống và tin vào mọi người. Chàng trai ấy tên là Niềm Tin. Do sáng dạ, lại chăm chỉ học hành và ưa tìm hiểu, nên Niềm Tin sớm thu nhập được một vốn kiến thức rất phong phú và đa dạng. Bằng những kiến thức vững chắc của mình, Niềm Tin có được sự tín nhiệm của mọi người và được cử giữ một chức quan nhỏ ở huyện. Quan trên của Niềm Tin là Quan Liêu, ông là một viên quan rất hách dịch và cửa quyền. Làm việc dưới trướng của Quan Liêu một thời gian, sự lạc quan và yêu đời của Niềm Tin cứ vơi đi dần. Anh bắt đầu hiểu ra rằng lòng người đôi khi cũng rất đa đoan. Anh rất thất vọng vì khám phá mới này của mình. Một lần, trên tỉnh tổ chức hội nghị tuyên dương và khen thưởng các điển hình tiên tiến, các cá nhân có thành tích xuất sắc, đóng góp lớn cho cộng đồng. Công văn từ tỉnh gửi xuống yêu cầu mỗi huyện phải chọn ra bốn cá nhân ưu tú nhất để đưa lên tỉnh dự hội nghị. Trong bốn người này lại chọn ra một người xuất sắc nhất để tuyên dương đặc biệt trong hội nghị. Niềm Tin được giao nhiệm vụ phải tìm cho ra bốn người có đóng góp nhiều nhất cho huyện nhà. Rất vui với nhiệm vụ này Niềm Tin sốt sắng bắt tay vào việc. Anh nhanh chóng chọn ra được bốn người có thành tích tốt nhất và lập danh sách theo thứ tự thành tích của mỗi người. Đầu tiên là Tự Lực, tiếp đó là Bất Bình, sau đó là Bàng Quang, và cuối cùng là Quý Tử. Tự Lực vốn là một thanh niên mồ côi cả cha lẫn mẹ, từ nhỏ đã phải tự bươn trải để mưu sinh. Bằng tài năng và sự nỗ lực không ngừng, anh sớm thành công, và dùng chính những thành quả mà mình đạt được để giúp những người có cùng cảnh ngộ đi lên. Đóng góp lớn của anh cho cộng đồng là không thể phủ nhận. Bất Bình là một võ sư nổi tiếng từng nhiều lần giành giải quán quân trong các kỳ thi võ, đem rất nhiều vinh quang về cho huyện nhà. Bàng Quang thì nhanh nhạy trong thương trường, có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế của huyện. Người cuối cùng trong danh sách là Quý Tử. Quý Tử chính là con của Quan Liêu. Từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, lớn lên lại được sự nâng đỡ của người cha nên Quý Tử làm gì cũng thành công dễ dàng, tuy nhiên những thành công đó thường chỉ đem lại lợi ích cho cá nhân anh ta nên trong danh sách anh ta được xếp cuối. Lập xong danh sách và bảng kê thành tích của bốn người, Niềm Tin hồ hởi mang lên cho Quan Liêu duyệt. Quan liêu cầm bản danh sách, đọc đi đọc lại rồi lắc đầu nói: - Không ổn, không ổn, chú làm việc thế này thì hỏng bét, thành tích thằng Quý Tử nhiều như vậy phải để nó lên đầu mới đúng. - Dạ, hội nghị lần này là để biểu dương những cá nhân có đóng góp cho cộng đồng ạ. Thành tích của cậu nhà có phần thiên về cá nhân. - Hừ ! Ai bảo chú thế, chú xem lại xem nào. Niềm Tin tiếp tục đưa ra hàng loạt lý do nhưng Quan Liêu nghe mà như không hiểu, cuối cùng vẫn quyết định xếp Quý Tử lên đầu. Vì sự công bằng, Niềm Tin yêu cầu lập một hội đồng để xét duyệt lại danh sách, Quan Liêu đồng ý, tuy nhiên dưới sự tác động của Quan Liêu, gần như cả hội đồng tán thành xếp Quý Tử lên vị trí thứ nhất. Buồn dầu vì đấu tranh cho lẽ phải không được, Niềm Tin không còn muốn làm việc nữa. Bản danh sách bốn người đi dự hội nghị anh không đánh dấu người được tuyên dương đặc biệt, vì cứ định ghi lại áy náy, không ghi nổi. Tuy nhiên đến ngày diễn ra hội nghị, vì nghĩa vụ, anh đành cầm danh sách và dẫn bốn người đi. Niềm Tin chẳng dám hé lộ cho 4 người biết là sẽ có một người được tuyên dương đặc biệt và người đó đã được chỉ định là Quý Tử. Đến hội nghị, khi được đề nghị gửi tên người xuất sắc nhất lên, anh rất khó xử, nhưng cuối cùng đành viết và đưa cho họ tên của Quý Tử. Cả bốn người đều bị bất ngờ, vì thành tích của mỗi người đều rõ ràng, và ai xuất sắc nhất thì tất cả đều biết. Bất Bình phản ứng mạnh mẽ, khiếu nại với Niềm Tin, yêu cầu sửa tên người xuất sắc là Tự Lực. Niềm Tin rất bối rồi, nói: - Mình cũng đồng ý là Tự Lực xuất sắc nhất, nhưng việc chọn lựa là có cả một hội đồng xét duyệt, và hội đồng đã chọn Quý Tử trước rồi. Không ai trong bốn người nghĩ vậy, bởi họ thấy rõ ràng Niềm Tin chỉ vừa viết tên thôi. Ai cũng biết Quý Tử là con của quan, và họ nghĩ có lẽ Niềm Tin làm vậy để lấy lòng quan trên. Quý Tử thì có phần e ngại, Bàng Quang coi đó là chuyện đương nhiên, còn Tự Lực và Bất Bình rất thất vọng và coi thường Niềm Tin lắm. Khi tuyên dương, do biết mình được nâng đỡ chứ chưa xứng đứng trên bục khen thưởng thành tích đặc biệt xuất sắc, lại đã thấy phản ứng mạnh mẽ của Bất Bình nên Quý Tử rất xấu hổ, bước ra ngập ngừng và lúng túng, khác hẳn với vẻ hiên ngang chững chạc của những người được tuyên dương đặc biệt ở các huyện bạn. Mặt khác, do thành tích chỉ thiên về lợi ích của cá nhân nên khi đọc lên chẳng có ai vỗ tay khen Quý Tử. Ở dưới còn có rất nhiều người ồn ào thắc mắc. Bất Bình đang bực sẵn, nghe thấy không kìm được lại lầu bầu: - Xấu hổ chưa ! nếu đưa thành tích của Tự Lực lên thì huyện ta đâu kém gì các huyện khác. Sau lễ tuyên dương, do không hài lòng về việc chọn lựa nên Bất Bình không nhận quà và bỏ về. Mọi người còn lại thấy vậy cũng chẳng ai vui được, mỗi người đi một ngả. Niềm Tin buồn lắm, buồn vì Tự Lực đã không nhận được vinh quang mà anh ta đáng được hưởng. Buồn vì quyết định của Quan Liêu và hội đồng xét duyệt, buồn vì bị mọi người, đặc biệt là Bất Bình hiểu nhầm sâu sắc. Chán nản, Niềm Tin đi lang thang không về nữa. Anh đi không có chủ đích, đến khi dừng lại thì trời đã tối hẳn. Niềm Tin không biết mình đang đứng ở đâu, muốn tìm thuê một phòng để ngủ thì các nhà trọ đều đã đóng cửa. Mệt mỏi, Niềm Tin ngồi xuống bậc thềm của một ngôi nhà để nghỉ, mặt thẫn thờ. Với những sự việc đã xảy ra, anh không còn tin vào chính nghĩa, vào con người nữa rồi, tất những gì anh tin tưởng đã đổ vỡ. Chẳng biết thời gian qua bao lâu, bỗng Niềm Tin giật mình vì trước mặt xuất hiện hai bàn chân trần của ai đó, không rõ đã đi đến bên anh từ lúc nào, ngẩng đầu lên, anh thấy trước mặt mình là một nhà sư khất thực. Nhà sư đã nhìn thấy Niềm Tin từ xa. Bộ dạng kỳ quặc thể hiện sự chán nản đến cao độ của anh quả thật không hợp chút nào với trang phục lịch sự mà anh mặc trên người, bộ trang phục dành cho ngày lễ. - “Có lẽ người thanh niên này đang có chuyện gì đây”. Nhà sư nghĩ vậy nên tiến lại. Thấy Niềm Tin ngẩng đầu lên nhìn, nhà sư cười nhẹ: - Chào thí chủ - Dạ, chào thầy. Nhà sư ngồi xuống bên Niềm Tin rồi hỏi: - Ta thầy hình như thí chủ đang có tâm sự gì thì phải ? Đang rất u uất và cần tâm sự nên Niềm Tin kể cho nhà sư câu truyện của mình, nỗi buồn vì bị hiểu nhầm, sự thất vọng vì cách làm việc của cấp trên và sự băn khoăn khi làm cho cả niềm tin của Bất Bình và Tự Lực đổ vỡ theo. Cuối cùng anh chán nản thốt: - Con đã đấu tranh hết mình cho lẽ phải, vậy mà bây giờ tiếng oan con phải gánh, còn những người thực sự làm sai thì không ai biết. Nghe xong nhà sư ôn tồn nói: - Vấn đề hiểu nhầm không quan trọng, mà quan trọng là mất niềm tin, vì nếu họ không thất vọng về thí chủ thì họ cũng sẽ thất vọng về những người khác. - Nhưng con ức lắm ! - Sao thí chủ không nghĩ rằng đây chính là một cơ hội tốt để tự hoàn thiện mình ? - Sao cơ ạ ? – Niềm Tin ngạc nhiên hỏi. - Ai cũng cần phải trực tiếp gặp bất công mới hiểu được giá trị của công bằng. Sự trưởng thành chân chính của con người phải nhờ vào sự trải nhiệm của bản thân chứ không phải người khác giúp mà có được. Nếu bây giờ thí chủ vì chuyện này mà chán nản buông xuôi thì rất dễ. Nhưng nay thí chủ đã hiểu thấu hơn ai hết giá trị của công bằng. Vậy tại sao thí chủ không lập cho mình một quyết tâm vững chắc là sẽ không bao giờ gây ra bất công cho người khác. - Con không bao giờ làm vậy cả, nhưng việc này đâu phải do con. - Trước đây thí chủ tin vào người khác, niềm tin đó đã đổ vỡ, vì đó chưa phải là niềm tin chân chính. Niềm tin chân chính không phải thứ niềm tin dựa vào người khác, bởi mình không thể điều khiển được suy nghĩ của người. Niềm tin chân chính là thứ niềm tin vững chắc của mình vào bản thân mình, là thứ niềm tin do chính mình tạo ra cho mình. Niềm Tin ngẩn người ra suy nghĩ. Một lúc lâu sau, thấy anh vẫn im lặng, nhà sư nói tiếp: - Đổ vỡ một niềm tin nhỏ lại chính là cơ hội để hình thành cho mình một niềm tin chân chính lớn hơn rất nhiều đó. Càng thấy ghét bất công, mình càng phải kiên quyết không tạo ra nó. Nói rồi nhà sư cười nhẹ, vỗ vỗ vào vai anh. Niềm Tin ngẩng đầu lên, mắt sáng rực: - Cảm ơn thầy đã dạy con, nhưng còn những người khác, con không biết họ có hiểu ra không ? - Nếu họ là những người mạnh mẽ thật sự thì những chuyện như thế này sẽ làm họ càng mạnh hơn lên. Họ cũng như thí chủ đều sẽ hiểu ra thôi, có điều thí chủ vì cơ duyên mà hiểu ra sớm hơn một chút. Nói rồi nhà sư lại cười, tiếng cười lan nhẹ trong đêm. Hết. Câu truyện này tặng cho các bạn đang ôm những hoài bão, những ước mơ tươi đep bước vào đời. Nếu một lúc nào đó các bạn bị đổ vỡ niềm tin vào con người, hãy đừng bi lụy, hãy vứt bỏ thứ niềm tin nhỏ bé đi mà tìm cho mình niềm tin lớn hơn, đẹp hơn không phụ thuộc vào ai cả. Đây là câu truyện tôi viết dựa vào sự thật, khi viết lại băn khoăn muốn giữ tính chân thực nên có mất đi rất nhiều sự lôi cuốn, nhưng tôi tin chuyện sẽ có ích cho các bạn. Lần sửa cuối bởi buivhai; 01-06-16 lúc 08:11 PM |
The Following 2 Users Say Thank You to buivhai For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-11-10),
Nhím con (16-09-10)
|
#5
|
||||
|
||||
![]()
4. Chuyện người đàn bà nói nhiều, người đàn ông hút thuốc và nhà sư
(Truyện đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 743, truyện này khi đăng ban biên tập đổi tên thành "Tha thứ") Có một người đàn bà mắc phải tật nói nhiều, mỗi khi có cơ hội để nói là bà ta nói luôn hồi không thôi. Tuy không có tâm địa gì xấu xa, nhưng do nói dài, nói dai mà những lời nói của bà ta thường trở thành nói dại dù không cố ý. Những người không hiểu đều cho bà ta là người độc địa. Chồng bà ta thì lại nghiện thuốc nặng, lúc vui hay lúc buồn ông đều hút thuốc, không vui không buồn, ông cũng hút thuốc. Vừa hút ông ta vừa nhả khói tùm lum, mặc kệ sự khó chịu của mọi người. Bà vợ thường xuyên than thở về ông chồng chuyên nhả khói thuốc. Còn ông chồng cũng rất bực mình vì bà vợ hay nói nhiều của mình. Mỗi khi vợ bắt đầu nói nhiều về bất cứ chuyện gì, ông ta lại lấy điếu ra ngồi ở giữa nhà, châm lửa hút thuốc, nhả khói mù mịt. Hai vợ chồng vì vậy mà cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Một hôm hai vợ chồng lại cãi nhau, ông chồng đang ở tâm trạng không vui liền cầm ống điếu rượt đánh vợ. Bà vợ hoảng hốt chạy thẳng ra ngoài ngõ, đâm sầm vào một nhà sư khất thực vừa đi tới, bà níu ngay lấy nhà sư: - Thầy ơi, cứu con! Ông chồng đuổi tới nơi, đang định phang bà vợ thì bị nhà sư giơ tay cản lại: - Nhà anh dừng tay lại, có gì hãy bình tĩnh nói chuyện! Tuy đang cơn nóng giận, nhưng thấy nhà sư ngăn cản, ông chồng cũng nghĩ bụng: “Chuyện của hai vợ chồng vốn đã chẳng tốt đẹp gì, bây giờ lại làm ầm ĩ quá để người ta biết thì giấu mặt vào đâu? Nhất là lại ở trước một người tu đạo”. Ông bèn quẳng cái ống điếu đi, hậm hực nói: - Thưa thầy, vợ con nó quá thể lắm! - Chuyện thế nào, các vị hãy kể cho bần tăng được rõ. Bà vợ vội tranh nói trước: - Thưa thầy, chồng con suốt ngày hút thuốc, nhả khói ngập phòng, thật không sao chịu nổi, con mới nói có mấy câu, ông ấy đã đánh con rồi … Vừa nói vừa xấu hổ và tủi thân, bà ta sụt sịt khóc. Ông chồng lên tiếng: - Vợ con nó nói suốt ngày, chuyện gì cũng nói đi nói lại. Con đi làm về đã mệt nhọc, lại còn nghe nó lải nhải bên tai, thầy bảo con còn nhịn làm sao được! Nhà sư ôn tồn bảo: - Hóa ra chuyện vốn chẳng có gì, các vị hãy bình tĩnh lại, nghe bần tăng khuyên giải đôi lời. Đã nguôi cơn nóng giận nên hai vợ chồng cùng im lặng lắng nghe nhà sư nói. Nhà sư mở đầu bằng một câu hỏi: - Xin cho bần tăng được biết, anh đây đã bắt đầu hút thuốc từ thời gian nào? Tuy chẳng hiểu điều này có liên quan gì đến chuyện cãi vã của hai vợ chồng, nhưng ông chồng cũng đáp: - Dạ, từ khi thanh niên, con đã hút thuốc. Nhà sư nhẹ nhàng nói: - Tuổi thanh niên là lứa tuổi sắp trưởng thành, là lúc con trai thường tập làm người lớn. Khi ấy anh hút thuốc, chắc chỉ muốn mình có được dáng vẻ chững chạc của người đàn ông, đây vốn là ý tốt. Còn chị đây hẳn chẳng nói nhiều từ lúc mới sinh ra. Thói quen đó có lẽ vì muốn thể hiện giá trị bản thân, muốn mọi người hiểu mình mà ra vậy. Mà chứng tỏ giá trị của mình thì cũng không có gì sai. Hai vợ chồng cùng nhìn nhau suy nghĩ. Nhà sư nói tiếp: - Bắt đầu thì đều là ý tốt, nhưng hai anh, chị đều không biết tự kìm chế mình. Anh trở thành nghiện thuốc, có lẽ từ lúc nào cũng không biết. Anh để cho điếu thuốc hại mình, lại để nó hại cả người thân mình nữa. Rồi nhà sư nhìn bà vợ: - Còn chị đây thì chưa hiểu được cái đạo lý có ít thì quý, có nhiều thì phung phí. Lời nói dù phải, nhưng nói quá nhiều thì người nghe cũng không để vào tai nữa. Mặt khác, nói nhiều thì dễ nói sai, phải lựa lời mà nói. Càng nghe nhà sư nói, hai vợ chồng càng cảm thấy đúng, thái độ tiếp thu của họ thể hiện rõ ràng trên nét mặt. Thỉnh thoảng chị vợ lại dạ dạ một câu. Thấy vậy, nhà sư tiếp tục: - Có khi chúng ta nhìn vào một người, thấy hành vi của họ thật xấu, mà không ngờ trong mắt họ, hành vi của chúng ta cũng xấu. Đôi khi chúng ta không trằn trọc vì những lỗi lầm của mình, nhưng lại hằn học với lỗi lầm của người khác. Ta chỉ muốn nói với anh chị rằng: “Những hành vi xấu đôi khi bắt nguồn từ động cơ không xấu”. Khi nhìn vào điều xấu, chúng ta hãy thử nghĩ vậy, sẽ có cách giải quyết tốt đẹp hơn. Khi định làm điều gì đó tốt đẹp, chúng ta cũng phải cẩn thận, đừng để kết quả của nó thành ra xấu. Biết tha thứ cho người khác cũng tức là biết bỏ đi cái sân hận trong lòng mình, chính là đúng với câu: “giúp người là giúp mình” vậy. Nói rồi nhà sư mỉm cười quay đi. Bùi Văn Hải http://vannghequandoi.com.vn/Sang-ta...-thu-2739.html |
#6
|
||||
|
||||
![]()
5. Chuyện người thợ làm bánh
(Truyện đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 729 - Phần đọc truyện do nghệ sĩ Việt Hùng thực hiện) http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ch...wzIbsnubA.html Một người thợ làm bánh có bốn người giúp việc, một người chuyên múc nước, một người chuyên nhào bột, một người chuyên nặn bánh và một người chuyên rán bánh. Người rán bánh thường bảo với người thợ: - Anh nặn bánh làm việc rất ẩu, anh ta để vỏ bánh quá mỏng nên khi rán tôi phải hết sức khéo léo bánh mới không bị vỡ. Người nặn bánh lại nói: - Anh nhào bột hay để bột nhão nên rất khó nặn bánh, mà thưa ông chủ, anh rán bánh rất hay ăn vụng ở mẻ bánh đầu tiên. Người nhào bột mách: - Thưa ông, anh nặn bánh thường để tay bẩn khi làm việc, anh rán bánh rất hay nói xấu ông bà chủ, còn thằng múc nước, nó đang tòm tem con gái ông bà đấy ạ ... Anh múc nước thì chẳng nói gì, mỗi khi xong việc anh ta mắc võng nằm đọc sách. Người thợ mỗi lần nghe mách như vậy đều bực lắm. Nhìn vẻ mặt của ba người giúp việc khi đến tố cáo anh thấy hình như họ đều rất trung thực, đáng tin, đáng quý, anh hứa sẽ chấn chỉnh ngay mọi việc. Từ đó anh ta bắt đầu để ý, săm soi mọi việc. Tuy nhiên do khối lượng công việc quá nhiều, nên anh ta không thể theo sát tất cả các công đoạn được, vì vậy anh ta nghi ngờ tất cả. Anh nghĩ: “Thằng rán bánh cái mặt tham thế kia thì chắc chắn là hay ăn vụng rồi, mắt gian mà mỏ nhọn thì việc nó nói xấu vợ chồng mình là có chứ không sai. Còn thằng nặn bánh, thằng này luộm thuộm, việc để tay bẩn là đúng đây. Thằng nhào bột … hừ .. thằng này làm việc bê bết thật, nhưng nó biết ghét thằng nói xấu mình, cũng được. Còn thằng múc nước… giúp việc mà suốt ngày giả vờ sách với vở, không phải để lừa con gái mình thì là làm gì… hừm… lũ chúng mày… hỏng… hỏng! phải quản lý thật chặt bọn này!!!” Anh ta bắt đầu đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn với cả ba người, duy có người nhào bột là được thả lỏng. Một thời gian sau anh thợ làm bánh thấy những lời tố cáo ngày càng nhiều thêm từ ba người giúp việc, anh đi kiểm tra mặt này thì họ lại tố cáo nhau về mặt khác. Mỗi khi thấy họ nói chuyện với ai, anh đều có cảm giác họ đang làm gì gian dối hoặc có thể đang nói xấu anh. Chỉ có người múc nước thì vẫn vậy, xong việc lại bình thản mắc võng nằm đọc sách, mà anh lại thấy ngứa mắt nhất là người này. Do suy nghĩ, nghi ngờ quá nhiều nên anh thợ làm bánh dần cảm thấy mệt mỏi, không buồn ăn, lúc nào cũng cảm giác mọi người đang chống lại mình, đang nói xấu mình, anh uất ức, thấy đau ngực, đau sườn. Cuộc sống của anh lúc này là những chuỗi ngày dài bực dọc. Một hôm, đứng trước cửa nhà, anh thợ làm bánh thấy từ xa có một nhà sư khất thực đang tiến lại. Nhà sư dáng điệu trang nghiêm, bước đi rất thong thả nhưng vững vàng, vẻ mặt thanh thản với đôi mắt hiền hòa như một ông tiên thoát tục. Sinh lòng kính ngưỡng, anh thợ làm bánh đi vào nhà cầm mấy chiếc bánh ra, cung kính đặt vào bình bát cúng dường. Nhà sư không đi ngay mà chăm chú nhìn người thợ làm bánh rồi hỏi: - Thí chủ có phải đang thấy trong người không được khỏe? - Vâng! Anh thợ làm bánh ngạc nhiên nói ấp úng: - Thời gian này quả thực con thấy trong người rất khó chịu, cứ đau ốm luôn… không biết… không biết … thầy… - Bệnh này ta có thể chữa được, nếu thí chủ không ngại thì để ta bắt mạch xem sao. - Vậy mời thầy vào nhà, xin thầy giúp con ạ. Anh thợ làm bánh vui mừng rước nhà sư vào nhà. Nhà sư để bình bát và tay nải xuống bàn, ngồi xuống, nhẹ nhàng đón lấy chén nước mà anh thợ làm bánh vừa rót vội, uống một hớp, xong ông từ từ đặt chén xuống và lấy trong tay nải ra một chiếc khăn mềm, gấp lại làm tư, đặt lên bàn. Ông cầm tay anh thợ, để ngửa cổ tay trên chiếc khăn, rồi đặt ba ngón tay của mình vào các vị trí thốn, quan, xích, trầm ngâm nghe mạch. Chừng 3 phút sau nhà sư nhấc tay lên, nhìn anh thợ, nói: - Thí chủ bị đau và tức ở hai vị trí ngực và sườn, bệnh này chữa ngọn không khó, nhưng gốc bệnh là do tâm nên chữa ngọn rồi lại phát. Nguyên nhân bệnh do uất ức lâu ngày mà gây ra, nếu không giải tỏa được thì bệnh không thể lành, lại có thể sinh thêm các bệnh khác. Anh thợ hết sức ngạc nhiên trước tài năng của nhà sư. Anh kể hết mọi chuyện của gia đình, những phiền muộn mà bốn người giúp việc gây ra, sự nghi ngờ, mệt mỏi và uất ức của mình. Nhà sư im lặng lắng nghe rồi nói: - Như vậy nguyên nhân ban đầu là do sự nghi ngờ của thí chủ, nghi ngờ lâu ngày không được giải tỏa bị dồn nén lại nên sinh ra bực dọc, uất ức mà gây thành bệnh. - Dạ, quả thật con rất nghi ngờ bọn chúng, thằng nào trước mặt con cũng khép nép, vâng lời, nhưng không biết sau lưng con bọn chúng làm bậy bạ những gì, mà chúng nó tố cáo nhau ngày càng nhiều thầy ạ. Nhà sư lặng lẽ suy nghĩ, rồi ông chợt chỉ tay vào lọ đường mà anh làm bánh để ở góc nhà: - Thí chủ hãy mang lọ đường kia lại đây. Anh làm bánh hơi ngạc nhiên nhưng cũng đứng dậy, cầm lọ đường mang đặt lên bàn. Do nhà làm bánh, lúc nào cũng cần đường nên lọ đường chỉ được đậy nắp sơ sài, có đàn kiến bâu quanh miệng lọ, vài con còn chui hẳn vào bên trong, quanh lọ có vài chú ruồi, đậu rồi lại bay. Nhà sư nói: - Thí chủ hãy quan sát lọ đường này, thí chủ có biết vì sao đàn kiến và lũ ruồi bâu quanh lọ không? - Dạ, vì chúng ngửi thấy mùi đường, thích ăn đường nên chúng bâu quanh ạ. - Vậy bây giờ thí chủ làm cách nào để đuổi ruồi và kiến đi? Người thợ làm bánh liền lấy khăn lau thật sạch lọ đường và vặn chặt nắp lại, nhưng chỉ một lát sau lũ ruồi lại bay quanh còn đàn kiến thì tiếp tục leo lên. - Bây giờ thí chủ làm thế nào? – nhà sư hỏi - Dạ, con không biết ạ. Nhà sư đứng dậy, lặng lẽ cầm lọ đường bước ra sân, đổ hết đường đi, lấy nước rửa và lau sạch lọ đường. Quả nhiên, kiến và ruồi không còn bâu vào lọ nữa. Nhà sư bảo anh thợ làm bánh: - Sự tức giận và nghi ngờ của thí chủ cũng giống như đường ở trong lọ, thí chủ đã biết do ruồi và kiến thích mùi đường nên bâu quanh, vậy những người kia chính vì thích nhìn thấy thí chủ tức giận và nghi ngờ người khác nên mới đến tố cáo. Nếu trong thí chủ không còn tồn tại dạ nghi ngờ và lòng tức giận thì sự tố cáo kia cũng như lũ ruồi nhặng, dần bay đi hết thôi. Khi xung quanh không còn đàn kiến nhộn nhạo, lũ ruồi ồn ào, thí chủ sẽ được tĩnh tâm, và trong bốn người làm, ai hơn ai kém, sai, đúng thế nào thí chủ sẽ thấy dễ dàng như soi gương vậy. Nói rồi nhà sư viết một đơn thuốc đưa cho người thợ làm bánh: - Ta viết cho thí chủ thang thuốc này để trị ngọn của bệnh, còn gốc bệnh thì thí chủ phải tự chữa từ tâm mình thôi. Nhà sư từ biệt ra đi, miệng ngâm mấy câu thơ: “Lâu ngày uất ức làm khổ thôi Biết gốc giờ đây chữa được rồi Quyết nhìn hành động hay chân thực Không nghe lời nói ngọt đầu môi Xuyên khung, Thần khúc cùng Chi tử Thương truật lại thêm Hương phụ bồi Mỗi thứ đem cân đều số lượng Sắc lên uống đủ bệnh liền trôi” Người thợ làm bánh từ đó nghe theo lời khuyên của nhà sư khất thực, uống thuốc và bỏ ngoài tai những lời dèm pha, tố cáo lẫn nhau của người làm, bản thân chăm chỉ đi xem xét công việc. Quả nhiên sau một thời gian, thấy ông chủ dửng dưng, thản nhiên khi nghe mình nói tố người khác, ba anh giúp việc có tật xấu bỗng giật mình, có cảm giác hình như ông chủ biết tất cả những việc xấu của mình, nên không dám dèm pha nhau nữa mà bắt đầu chú tâm vào công việc. Bệnh của anh thợ làm bánh cũng do đó mà khỏi hẳn. Bùi Văn Hải http://vannghequandoi.com.vn/Tho-San...banh-3941.html |
#7
|
||||
|
||||
![]()
6 Quà tặng từ trái tim
(Truyện đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 760) Trời về khuya, gió thổi mỗi lúc một mạnh, ù ù từng cơn, từng cơn, mang theo cái lạnh buốt đến ghê người. Con phố nhỏ vắng tanh. Dọc hai bên hè phố là hai hàng cây bây giờ đã trơ trụi lá. Những thân cây gầy guộc khô khốc đang cố gắng oằn mình, run rẩy chống lại cơn giận dữ điên cuồng của gió đông. Nhà nhà đã khép cửa chắn gió. Chẳng có ai muốn bước ra đường giữa một đêm mùa đông lạnh giá như thế này. Vài tia sáng nhỏ len qua những khe cửa ra ngoài, hòa vào với ánh sáng của đèn đường đang leo lắt trong cái lạnh. Cả không gian như một sân khấu lớn mà những diễn viên phụ đều nép mình, mặc cho một diễn viên chính là gió đông ngông cuồng biểu diễn. Giữa khung cảnh đó, một thân hình nhỏ nhắn xuất hiện ở cuối phố. Một thằng bé ! Một thằng bé lang thang với cái bọc nhỏ khoác trên vai. Mệt nhọc lê từng bước, từng bước, người nó co dúm vì giá lạnh. Lẫn trong tiếng thét gào của gió, giờ đây có cả tiếng hai hàm răng nó va lập cập vào nhau, tiếng rên hừ hừ đứt quãng. Lê đến cạnh cây đèn đường sáng nhất, nó dừng lại, lẩy bẩy gỡ cái bọc trên vai xuống, thả bịch vào chân cột đèn, rồi soay mình dựa lưng vào thân cột từ từ ngồi xuống. Mệt! Đói ! Nó đã bỏ nhà đi hơn hai năm ròng. Ở nhà nó khổ quá! Bố mất năm nó 6 tuổi, bốn năm sau mẹ nó đi bước nữa với một người đàn ông đứng tuổi ở trong làng. Ông ta yêu mẹ nó nhưng không thương nó. Mẹ nó thì thương nó vô cùng, nó biết vậy. Nó cũng thương mẹ nó lắm nên không thể chịu được khi nhìn mẹ và người đàn ông kia cãi nhau vì mình. Nó bỏ nhà ra đi. Hai năm. Nó đã quen với cuộc sống ăn xin ngủ bờ ngủ bụi. Đã tự đúc kết được cho mình những kinh nhiệm cần có của một thằng bé lang thang. Nó trở nên vô cảm trước mọi ánh mắt khinh thường nhìn vào, và cũng chẳng xúc động gì trước sự thương hại nếu có của mọi người dành cho mình. Nó căm ghét sự thương hại, nhưng nó còn nhớ, còn thương lắm ánh mắt hiền từ ấm áp của người mẹ thân yêu mỗi khi mẹ nhìn nó. Ánh mắt ấy là sức mạnh giúp nó vượt qua tất cả. Ngồi nghỉ một lúc, nó mở bọc ra. Đó là cái bọc lớn bằng ny lông, bên trong để tất cả “bảo bối” của nó. Trong đó quý nhất là tấm ảnh của mẹ mà nó cầm theo khi bỏ nhà ra đi. Lúc này nó lấy ra một cái áo mặc vào người. Nó vốn chỉ có hai cái áo mà thôi. Bình thường chẳng bao giờ nó mặc cả hai cái cùng một lúc, vì phải giữ để mà thay. Nhưng hôm nay lạnh quá, nó đã muốn lấy ra mặc thêm từ sớm rồi nhưng không dám. Nó nghĩ: “nếu một thằng bé ăn xin mà có đến hai cái áo mặc trên người thì chẳng ai thèm bỏ tiền ra cho”. Nó đã nhịn mãi, bây giờ là lúc nó hưởng thôi. Ấm áp hơn rồi nó mới bỏ ảnh của mẹ ra, nhìn vào ảnh thầm gọi: “Mẹ ơi! con đói quá … mẹ ơi !”. Nó thường làm vậy những lúc ở một mình, bất kể vui hay buồn, nó đều nói chuyện với bức ảnh. Cả tối nay chẳng có ai cho nó cái gì, hầu hết mọi người đều ở trong nhà, ai phải đi công việc cũng vội vội vàng vàng, đâu có thời gian nhìn đến nó, rét quá mà! Hôm trước nó xin được nhiều nhiều thì đã bị mấy thằng du côn trấn sạch. Lần nào cũng vậy cả, không có bè đảng khổ thế. Nhưng nó biết mấy thằng theo bè đảng thằng nào cũng nghiện, nó chẳng dại. Hồi còn ở nhà nó đã nhìn thấy anh thanh niên cạnh nhà chết vì dùng quá liều ma túy. Người anh giật đùng đùng, co quắp, miệng sùi ra đầy bọt, nó sợ mãi. Nhìn tấm ảnh một lúc nó cất ảnh đi và bắt đầu ngắm con phố. Con phố dưới ánh đèn mờ đục ở trong mắt nó thật đẹp. Nó luôn chọn những con phố sáng đèn như thế này để ngủ vì vừa ít muỗi, lại vừa không bị thằng nào dụ dỗ, bắt nạt, hay dành chỗ như trong công viên. Nhưng có cái lợi thì cũng có mặt thiệt thòi, nó luôn phải đợi người ta đi ngủ rồi mới dám đến trước nhà họ ngủ, hôm sau lại phải dậy sớm để chuồn. Hai cái áo rồi, người nó vẫn run bần bật, lạnh quá, hôm nay lạnh quá. Đói thì nó chịu cũng quen rồi, nhưng lạnh như thế này thì .. lạnh quá ! Vừa co rúm lại vì lạnh nó vừa nhìn bầu trời. Bầu trời là người thân thứ hai ngoài bức ảnh của mẹ. Bất kể đi tới đâu, bầu trời vẫn theo nó. Trên bầu trời có bao nhiêu là sao đẹp, những vì sao này cũng theo nó. Nó biết vậy vì đã để ý các ngôi sao rồi, lúc nào chúng cũng giữ nguyên vị trí ở trên đầu nó. Đang mải ngắm sao bỗng nó giật thót mình, trước mặt nó là một bóng người cao lớn. Theo phản xạ đã hình thành từ trước, nó vùng bỏ chạy. Sau lưng nó vang lên một giọng nói hiền hòa, chậm, nhẹ: - Đừng sợ, cháu bé! Nó vẫn guồng chân phóng một mạch rõ xa, rồi núp vào sau một gốc cây bên hè nhìn lại. Bình thường thì nó chẳng dám, nhưng vì không nghe thấy tiếng chân đuổi theo, cái bọc lại chưa kịp cầm nên nó mới bạo thế. Nhìn rõ người vừa đến, nó thở nhẹ ra. Một nhà sư khất thực tay cầm bình bát đang đứng bên cột đèn, ngay cạnh cái bọc của nó. “Đồng nghiệp đây mà” - nó biết thừa. Nó vẫn thường có ý cạnh tranh với mấy nhà sư này, nhưng cũng biết họ chẳng làm hại ai. Nó bước ra khỏi gốc cây, quay lại cột đèn. - Ông ạ ! Nó chào nhà sư. Nó vẫn thường thấy người ta gọi các nhà sư này là thầy, nhưng vì chẳng có nhà sư nào dạy nó nên nó vẫn chỉ gọi là ông sư thôi. Đôi khi nó nghĩ: “Mấy ông này dạy lắm, đi đâu cũng có học trò, mà nhiều học trò vậy sao cũng phải đi xin ăn ?”. Nhưng nó cũng chưa bao giờ nghĩ lâu về chuyện này cả, với nó thì no bụng quan trọng hơn hết thảy. Nhà sư mỉm cười với nó, không nói gì. Nó cũng không nói gì nữa, ngồi lại xuống chân cột đèn. Trong không gian bây giờ chỉ còn có tiếng gió thổi ào ào và tiếng bụng nó sôi ục ục vang lên. Nhà sư ngồi xuống cạnh nó, ông hỏi: - Cháu ăn gì chưa ? Nó không còn sức để đáp. Vừa rồi chẳng biết sức lực ở đâu ra, chứ bây giờ thấy nhũn cả người. Nó lắc đầu một cách khó khăn. Nhà sư lấy từ trong tay nải ra hai cái bánh mỳ, chẳng nói gì ông đưa cho nó một cái, còn một cái thì đưa lên miệng ăn. Đón lấy cái bánh, nó gặm ngay, đói quá rồi ! Chẳng mấy chốc cái bánh đã hết veo. Nó quẹt miệng rồi xoa xoa tay vào nhau, từng đám gét bẩn theo tay nó rơi lả tả xuống đất. Thấy nó đã ăn xong, nhà sư lấy ra một bình nước đưa cho nó. Đang khát, nó cầm ngay lấy cái bình - nhưng nó bỗng ngẩn ra, không dám uống. Bây giờ nó mới chợt nghĩ: “người mình vừa bẩn vừa hôi, sao ông này dám ngồi gần mình thế nhỉ. Lâu lắm có ai ngồi gần mình thế này đâu !”. Nó biết nhiều người cho nó tiền chỉ vì muốn nó mau biến xa khỏi họ cho đỡ kinh. Nó lặng lẽ quan sát nhà sư, còn nhà sư thì không để ý, tiếp tục ăn bánh mỳ. “Ông ta sạch lắm mà” - nó nghĩ. Nó nghĩ vậy vì vốn đã tự nhủ trong lòng là chắc nhà sư này cũng quen ở bẩn rồi nên không sợ nó. “Nhìn ông ta sạch sẽ như vậy, mà không sợ mình hôi! Bây giờ mình mà chạm môi vào cái bình này thì ông ta có dám uống không nhỉ ?” - Vừa nghĩ nó vừa đưa bình kên miệng tu. Uống đã rồi nó đưa cái bình lại cho nhà sư. Mắt nó không nhìn vào ông nhưng hồi hộp lắm, lặng lẽ chờ đợi. Một giây với nó lúc này cũng thật dài. Nó băn khoăn và hồi hộp vậy cũng phải. Đã từ lâu rồi, cái tốt đẹp nhất mà nó nhận được là lòng thương hại của người đời. Nó biết rằng nó thảm hại lắm trong con mắt mọi người. Có lẽ với họ nó giống như một con thú đáng thương hơn là con người. Vì vậy nó căm thù lòng thương hại. Nhưng giây phút này, với nhà sư nó cảm thấy một điều gì thật là lạ. Hình như ông coi nó cũng cẳng khác gì ông, hình như ông coi nó … là người! Nhà sư chẳng hề hay biết những suy nghĩ đang quay cuồng trong đầu thằng bé, ông bình thản ăn nốt chiếc bánh và… uống nước. Thằng bé sững cả người ! Lúc này nhà sư cũng quay sang thằng bé, thấy bộ dạng nó ông ngạc nhiên lắm, hỏi: - Cháu sao thế ? Thấy nó vẫn cứ ngẩn người ra, nhà sư lại hỏi, giọng lo lắng: - Cháu làm sao vậy ? Lúc này nó mới như bừng tỉnh, mắt nhìn sang nhà sư. Từ cổ họng nó những tiếng hức… hức vang lên, ngực nó phập phồng, phập phồng, rồi lệ trào ra trên khóe mắt. Nhà sư vội ôm nó vào lòng, vỗ vỗ lên đầu hỏi: - Cháu ngoan nào! Sao cháu lại khóc? Nó không nói được lời nào, chỉ có tiếng khóc nghẹn ngào càng lúc càng to lên. Lâu lắm rồi nó mới khóc. Nó tưởng rằng nó không còn biết khóc nữa, vậy mà bây giờ nó khóc dễ dàng, ngon ơ! Cứ vậy mãi rồi nó cũng nín. Lúc ấy nhà sư mới hỏi tiếp: - Mấy hôm nay cháu xin được ít lắm phải không? Vừa đưa tay gạt nước mắt thằng bé vừa gật đầu. Nhà sư đắn đo một chút rồi nói: - Chùa của ta là chùa Linh Tự, cách đây không xa. Ta muốn đưa cháu lên chùa cho đỡ khổ, nhưng bây giờ ta còn có việc phải đi, vậy ta viết cho cháu một bức thư, sáng mai cháu cứ hỏi đường rồi lên chùa, đưa thư cho các thầy trong chùa và ở đấy đợi ta, được không? Thằng bé lặng lẽ cúi đầu, nó chẳng biết nói gì, nhưng bây giờ nhà sư bảo gì nó cũng muốn nghe. Nó không biết nhà sư bận gì mà phải đi ngay giữa đêm khuya thế này, nhưng lời của ông là đúng rồi, nó chẳng thắc mắc. Nhà sư lấy trong bọc ra cây bút và tập giấy, lặng lẽ viết một lá thư rồi gấp lại, đưa cho thằng bé. Ông gỡ chiếc khắn len trên cổ mình quàng vào cho nó, xoa xoa cái đầu rối bù, nói: - Cháu cầm lấy, sáng mai nhớ lên chùa, ta đi đây. Bóng nhà sư xa dần rồi khuất hẳn mà thằng bé vẫn thẫn thờ, chợt nó hít một hơi thật đầy vào lồng ngực, ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm. Gió lạnh thổi thật mạnh, nhưng ánh sao đằng kia sáng quá. Thằng bé chăm chú nhìn vào ánh sáng trắng của ngôi sao ở phía xa tít tắp mà quên hẳn đi cái ánh sáng mờ đục phát ra từ ngọn đèn đường bên cạnh. Ngày mai nó sẽ hỏi đường lên chùa! Bùi Văn Hải http://vannghequandoi.com.vn/Van-xuo...-tim-1268.html |
#8
|
||||
|
||||
![]()
7. Tâm thanh tịnh
Một ngoại đạo hỏi Tỳ kheo: - Thưa thầy, con nghe các thầy nói: “thực hành phật pháp phải buông xả tham ái, bỏ mọi cảm xúc yêu, ghét”, nếu thế tâm các thầy trơ trơ như gỗ đá, vậy có gì hay đâu? Tỳ kheo nghe xong liền dẫn ngoại đạo tới một hồ nước, chỉ tay xuống hồ hỏi: - Ông thấy hồ nước có đẹp không? Dưới hồ lúc này có một đàn thiên nga đang bơi lội tung tăng, chúng dỉa lông, nô đùa, đạp nước, làm nước hồ vẩn đục và mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Ngoại đạo ngắm nhìn hồi lâu rồi mới trả lời: - Đẹp ạ! Nhà sư hỏi tiếp: - Điều gì làm hồ đẹp? - Con thấy đàn thiên nga đạp sóng, nước hồ gợn lên lăn tăn rất thơ mộng, rất đẹp. - Theo ông nếu không có đàn thiên nga, mặt hồ không còn lăn tăn sóng thì hồ còn đẹp không? Ngoại đạo nghĩ một lúc rồi trả lời: - Lúc đó chắc hồ hiu quạnh vắng lặng lắm, theo con sẽ không đẹp. Tỳ kheo nghe xong liền hét to mấy tiếng, đàn thiên nga giật mình vỗ cánh bay đi hết. Một lúc sau mặt hồ lặng sóng, nước trong dần, rồi trở lên trong vắt. Tỳ kheo hỏi tiếp: - Đàn thiên nga đã bay rồi, nước hồ đã không còn gợn sóng, lúc này ông thấy hồ còn đẹp không? Ngoại đạo ngắm nhìn hồ nước. Lúc này đàn thiên nga không còn, nhưng nhìn hồ nước trong ngần, ngoại đạo lại thấy ẩn chứa một vẻ đẹp tĩnh lặng trong lắng vô cùng kỳ diệu. Ngoại đạo chỉ biết thốt lên: - Đẹp! Tỳ kheo hỏi: - Điều gì làm hồ đẹp? Ngoại đạo ngẫm nghĩ một hồi rồi ngập ngừng trả lời: - Theo con là sự trong lắng ạ. Lúc này Tỳ kheo mới thong thả nói: - Khi hồ gợn sóng, nước vẩn đục người ta không thấy được vẻ đẹp trong lắng tĩnh lặng của hồ, vì vậy họ chú ý vào những thứ khác, và cho là nó đẹp. Nghĩ rằng nếu thiếu nó thì hồ không đẹp, tuy nhiên sự thật không phải vậy. Tâm cũng như hồ nước vậy, khi tâm động, cảm xúc yêu ghét nổi lên người ta sẽ không biết được sự tuyệt diệu của tâm thanh tịnh. Họ cho rằng tâm thanh tịnh không có gì hay, nhưng sự thật không phải vậy. Tuy nhiên nếu không thanh tịnh được tâm ý họ sẽ không bao giờ thấu được sự thật này. Bùi Văn Hải |
#9
|
||||
|
||||
![]()
Truyện 8: Ăn chay cũng không phải từ bi. Ăn thế nào đúng với Phật giáo Nguyên Thủy
Có gia đình nhà kia cả hai vợ chồng cùng theo đạo phật, tuy nhiên mỗi người lại hành pháp một kiểu khác nhau. Anh chồng hàng ngày hay trì chú, đọc kinh, niệm phật, nhưng lại thường xuyên nhậu nhẹt. Chị vợ thì chăm chỉ ăn chay, chú tâm cầu nguyện, mong cứu người, giúp ta. Mỗi khi thấy chồng nhậu nhẹt, chị vợ đều khuyên nhủ đủ điều, nặng có, nhẹ có, tuy nhiên mỗi lần nghe vợ khuyên, anh chồng lại ngâm nga: “Cổ thi Phật Tổ để một phong, Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng, Người nay tu miệng, lòng không sửa. Bần tăng lòng sửa, miệng thì không”. Ngâm xong anh chồng phán: - Đấy, em thấy Tế Công nói chưa, tu là sửa lòng chứ đâu phải sửa miệng, anh là anh hành theo Tế Công. Nói rồi anh ta cười hệch hệch. Chị vợ thấy thế thì cũng chẳng biết phải can ngăn thế nào, đành chú tâm cầu nguyện, mong tam bảo gia hộ độ trì cho mọi việc được êm xuôi. Trong nhóm bạn nhậu của anh chồng cũng có nhiều người vì chuyện ăn nhậu mà gia đình lục đục, vì vậy mỗi khi thấy có tín hiệu dông tố sắp nổi lên ở đâu là anh chồng nhà đó lập tức được giục về. Tuy cũng có ý thức như vậy nhưng với cánh đàn ông thì chuyện ăn nhậu khó mà bỏ hẳn. Một hôm trong nhóm bạn nhậu có một anh vợ bị bệnh nặng phải nhập viện, chị vợ hay tin liền dẫn con gái đi thăm. Hai mẹ con lên thăm đúng lúc người bệnh được đưa ra xe để chuyển viện, chị vợ thấy vậy tất tưởi kéo tay con chạy theo. Đang chạy, bỗng nghe đứa bé hỏi: - Mẹ ơi, như vậy có tính là báo ứng không? Chị vợ nghe vậy ngẩn người ra, chị nghĩ: “Đành rằng việc mấy ông chồng nhậu nhẹt là xấu, nhưng gia đinh họ lại phải chịu báo ứng như thế thì cũng thật chẳng hay chút nào. Gia đình mình thì được tam bảo gia hộ, nhưng các gia đình khác thì sao? Cứ để mặc họ chịu báo ứng thì thật đáng thương”. Nghĩ mãi chẳng biết làm sao để giúp, chị vợ liền đi hỏi Tỳ Kheo. Sau khi kể hết câu chuyện cho Tỳ Kheo nghe, chị vợ hỏi: - Thưa thầy, chồng con ăn thịt, uống rượu, như vậy có sao không? liệu có thể đắc quả như Tế Công rượu thịt không? Tỳ kheo trả lời: - Việc ăn thịt thì Đức Phật vốn không cấm. Bản thân Đức Phật cũng không ăn chay. Bởi ăn chay và ăn mặn đều là nguyên nhân của sát sinh. Một con lợn chết có thể làm mười mâm cỗ cho hàng chục người ăn. Nhưng khi người nông dân trồng lúa, cày ruộng sẽ làm chết hàng ngàn con sâu, con run. Khi lúa chín, để bảo vệ lúa lại phải diệt bao nhiêu chuột, ốc bươu vàng v.v.v, phải phun thuốc trừ sâu, trừ rầy, thêm hàng vạn con sâu, con rầy chết nữa mới có được mấy bát cơm cho một người ăn. Sinh mạng chúng sinh là bình đẳng, vì vậy một con sâu sinh mạng cũng đáng trân trọng như một con lợn, bởi thế ăn chay không hề từ bi hơn ăn mặn. Cho nên: Tu chớ sửa mồm, phải luyện tâm Nghĩ ăn -> hướng thiện -> ắt sai lầm Thịt: hai gà chết -> đơm đầy cỗ Cơm: vạn sâu toi -> xới vơi mâm Đức Phật bác chay sao đạt đạo ? Đề Bà chê mặn lại sa trầm ! Tùy duyên thọ thực, không coi nặng Chân chính Tỳ Kheo, chẳng phải hâm Chúng sinh khi hết nợ duyên kiếp này thì chuyển sinh kiếp khác, đó là bình thường. Chúng sinh chuyển sinh rồi, cái thể xác của nó chẳng liên quan gì nữa, người nào còn ôm lấy cái nỗi đau đã qua của chúng là ngu muội. Việc chúng sinh bị giết chết trong quá trình làm ra thực phẩm cho con người là do nghiệp báo đã gây từ trước. Nghiệp báo của chúng sinh nào đã gây chúng sinh đó phải chịu, không thể tránh được. Chỉ có thể tránh tạo nghiệp thôi. Bởi quá khứ đã qua, không thể thay đổi. Chỉ có thể dùng hành động hôm nay mà thay đổi tương lai. Để tránh người hành pháp gây nghiệp xấu và để phát triển tâm từ bi Đức Phật đã dạy ăn theo “tam tịnh nhục”. Đó là không nghe thấy con vật kêu khi bị giết, không nhìn thấy con vật bị giết, con vật không vì mình mà bị giết. Không nghe, không nhìn thấy con vật bị giết thì tâm không động vì cái chết của nó, nó không vì mình mà bị giết thì mình không phải nguyên nhân gây nghiệp xấu, không phải chịu nghiệp xấu, vì vậy ba trường hợp đó người dùng được phép sử dụng thịt mà vẫn thanh tịnh vô tội. Nhiều người thường nhầm, cho rằng mua thịt mổ sẵn bán ngoài chợ cũng là nguyên nhân gây nghiệp. Thực ra thịt hay các thực phẩm khác bán ngoài chợ thì người bán vì nhu cầu kinh tế của bản thân họ, họ mới bán, vì vậy bản thân người bán mới là nguyên nhân gây nghiệp. Nếu cư sĩ đến nhà bạn chơi, để đãi cư sĩ người bạn cư sĩ giết thịt động vật, trường hợp này cư sĩ không được ăn. Khi ăn cũng phải quán theo “tứ thanh tịnh giới”, coi thức ăn chỉ là dinh dưỡng, không chấp vào nó, như vậy mới không nhiễm trần. Khi xưa Đề Bà Đạt Đa đã đề nghị tăng đoàn phải ăn chay, tuy nhiên do nhìn thấu bản chất ăn chay không phải là cách làm giảm nghiệp sát sinh nên Đức Phật đã bác bỏ đề nghị này. Sau khi Phật nhập niết bàn có nhánh rẽ Bắc Tông chủ chương ăn chay, cho rằng ăn chay từ bi hơn ăn mặn, đó là do hiểu không thấu đáo nên đi lạc vào đường của Đề Bà Đạt Đa. Bởi vậy: Ăn gì cũng được chớ lưu tâm Tỉnh táo cho mau kẻo bước lầm Rau cứ cuốn gà, ô nhiễm dạ Thịt không nghĩ lợn, thanh tao mâm Quẩn quanh chay mặn, tham thêm nặng Vướng vít ruột gan bệnh lại trầm Tu ý chưa nên, suy mồm miệng Đó là si quá, trở thành hâm Ngừng một chút, Tỳ kheo tiếp tục: Về ăn thịt Đức Phật không cấm, tuy nhiên uống rượu thì lại không được. Bởi người hành pháp luôn phải chú trọng thiền định. Đức Phật đã dạy trong kinh pháp cú rằng: Tu thiền trí tuệ sinh Bỏ thiền trí tuệ diệt … Để tu thiền, trước hết phải đạt định. Giống như mặt hồ nước, khi phẳng lặng thì vật gì chiếu rọi vào cũng thấy đúng hình tướng, khi gợn sóng thì chiếu vật gì vào cũng biến dạng. Để dễ hiểu hơn cho người mới thực hành thiền, cư sĩ có thể liên tưởng tới một hạt giống đang bị cuốn soay theo chiều gió, chưa bám vào mặt đất. Để có thể sinh sôi trước tiên phải làm cho gió không nổi lên nữa, hạt giống rơi xuống đất, bám vào đất, cố định rồi mới có thể nảy nở và sinh sôi. Dân gian thường nói “an cư mới lạc nghiệp”, nghĩa cũng giống như vậy. Rượu có tính nóng, uống vào cơ thể giống như một căn nhà đang mát mẻ mà ta châm lửa đốt nó lên, căn nhà sẽ nóng rực, áp suất thay đổi, khói lửa ngút trời, tàn tro bay tán loạn mịt mù. Bởi vậy rượu là chất kích thích, làm loạn tâm, uống rượu vào tâm không tịnh. Cũng bởi vậy mà trong ngũ giới có cấm uống rượu. Việc chồng của cư sĩ đưa chuyện Tế Công ra bao biện là do không hiểu rõ bản chất, bị tà pháp đưa đi nhầm đường. Nếu tìm hiểu kỹ hơn thì sẽ hiểu con đường của Tế Công, cũng như nhánh rẽ Bắc Tông nói chung đều là sai lạc, trái với những điều phật dạy trong kinh nguyên thủy. Kinh bắc tông là kinh giả được ngụy tạo, có dựa vào kinh nguyên thủy, nhưng lại hướng người học tới nẻo tà buông lung phóng dật, hoặc hướng người học sa vào cầu xin lệ thuộc trái với con đường tự thân tinh tấn, nỗ lực giải thoát chân chính mà Đức Phật dạy. Để hiểu cách làm giả kinh này cư sĩ có thể tham khảo bí quyết nói dối của Vi Tiểu Bảo trong tác phẩm Lộc Đỉnh Ký của nhà văn Kim Dung. Trong đó có đúc kết lại bí quyết nói dối của Vi Tiểu Bảo là dựa một phần vào sự thật, nhưng chỗ quan trọng nhất thì biến tướng đi. Đây cũng chính là cách nhánh rẽ Bắc Tông ngụy tạo kinh giả. Đầu tiên đưa một vài điều hay dễ hiểu mà phật dạy ra cho người đọc thấy đúng và khâm phục, sau đó đến chỗ quan trọng nhất thì biến tướng ý nghĩa sang hướng khác làm người học lạc đường. Phật dạy: Dù đọc tụng nhiều kinh Tâm buông lung cẩu thả Như kẻ chăn bò thuê Khó hưởng sa môn quả Hình ảnh Tế Công là một hình ảnh đại diện cho lối sống buông lung, cẩu thả, tuy nhiên lại được Bắc Tông thêm thắt vào nhiều truyền thuyết kỳ ảo, đề cao lên làm cho người sau loạn đường tu. Đây là một âm mưu vô cùng thâm độc nhằm phá hoại việc hành chánh pháp của phật tử, vì vậy không nên học theo mà sa vào tà đạo. Nghe Tỳ Kheo nói xong, chị vợ hỏi: - Vậy việc vợ người uống rượu bị quả báo do việc uống rượu của chồng thì làm sao để giúp. Tuy gia đình con nhờ tam bảo gia hộ mà không sao, nhưng thấy nhà họ bị như vậy thật không thể yên tâm được. Tỳ Kheo trả lời: Thực ra việc bị bệnh của người vợ hoàn toàn là do người vợ. Người vợ đó khi nhìn thấy chồng nhậu nhẹt có thể đã để sân hận nổi lên mà không xả bỏ được, khi sân hận nổi lên thì tâm bất tịnh, vì vậy phải gánh những điều khổ não. Phật dạy: Tâm dẫn đầu các pháp Tâm làm chủ tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm niệm bất tịnh Khổ não liền theo sau Như xe theo bò vậy Cũng có thể do nghiệp kiếp trước của người vợ nên nay phải chịu. Còn về phần cư sĩ, do có biết phật pháp, biết dằn cơn phẫn nộ, dẹp một phần sân hận nên không gặp chuyện xấu. Phật dạy rằng: Ai dằn cơn phẫn nộ Như hãm xe đang lăn Vị ấy đánh xe thật Người khác phụ cương phanh. Việc không gặp chuyện xấu đó hoàn toàn do kết quả của việc hành pháp của cư sĩ, không phải do chư phật gia hộ. Bởi Đức phật đã khẳng định rõ con đường đạo phật là con đường tự thân nỗ lực giải thoát, không nương nhờ tha lực: Mẹ cha hay bà con Không làm gì được cả Chính nhờ tâm nguyện lành Đưa ta lên cao cả. Cầu xin là dựa dẫm, là tự trói mình vào thế lực khác, không phải giải thoát. Điều này giống như là vay nợ vậy, vay nợ thì phải trả cả vốn lẫn lãi cho chủ nợ, buộc mình vào với chủ nợ. Vì vậy cầu xin không phải là con đường giải thoát chân chính mà phật dạy. Cầu xin chính là con đường sai lạc mà nhánh rẽ bắc tông dựng lên để đưa người học phật đi sai đường. Phật dạy trong Kinh pháp cú rằng: Cả đời nay đời sau Không vọng cầu thôi thúc Cư sĩ muốn giúp người kia thì nên tìm dịp phân tích đúng sai cho họ tự thực hành, như vậy mới là cách giúp tốt nhất, các cách khác chỉ là chữa bệnh ở ngọn, không chữa gốc. Phật dạy: Chính ta bảo vệ ta Chính ta nương tựa ta … Nhiễm tịnh do ta cả Không ai thanh tịnh ai Bùi Văn Hải |
#10
|
||||
|
||||
![]()
Truyện 9: Ngã, vô thường, vô ngã
Một người mới tìm hiểu phật pháp, đọc tới kinh vô ngã tướng thấy có nhiều điều quá khó hiểu, đã nghĩ mãi mà vẫn không thông, anh ta đành đi hỏi Tỳ Kheo: - Thưa thầy, con đọc trong Kinh vô ngã tướng thấy Đức Phật nhắc tới ngã, vô ngã, con chưa hiểu thế nào là ngã, thế nào là vô ngã: Tỳ Kheo trả lời: - Ở Ấn Độ xưa kia có một tôn giáo tối cổ, xây dựng giáo lý dựa trên kinh Vệ Đà (Vệ đà nghĩa là Thông hiểu), gọi là Vệ Đà giáo. Trên cơ sở của Vệ Đà giáo, khoảng 800 năm trước tây lịch đã hình thành một giáo phái mới gọi là Bà La Môn giáo. Bà La Môn giáo dạy rằng có cái bản ngã, tức là một cái nguyên bản tự nhiên của ta (tự ngã), trường tồn, bất biến, cốt tủy, và vững chắc ở trong ta. Khi Phật giác ngộ, ngài thấy rằng không hề có ngã, bởi vậy ngài đã dạy kinh vô ngã tướng. “Vô ngã” tức là “không có ngã”. Trong kinh Pháp cú, ở phẩm 5 – Phẩm Ngu si, Đức Phật cũng dạy rằng: “Con ta tài sản ta Kẻ ngu mãi lo xa Chính ta còn không có Tài sản con đâu ra”. Người kia nghe xong, đọc lại kinh vô ngã tướng, thấy vẫn không hiểu bèn hỏi tiếp: - Thưa thầy, trong kinh Đức Phật dạy rằng tất cả các sắc, thọ, tưởng, hành, thức cần phải quán với chánh trí huệ rằng: “Cái nầy không phải của ta, cái nầy không phải là ta, cái nầy không phải là tự ngã của ta", con không hiểu chỗ này. Ngũ uẩn là 5 yếu tố tạo thành con người, tại sao Đức Phật lại dạy rằng đó không phải của ta? Tỳ Kheo hỏi lại: - Cái gì là của ông thì ông sẽ làm chủ nó, có toàn quyền đối với nó, muốn nó như thế nào nó sẽ phải như thế, ngoài ông ra không ai, không điều gì có thể làm nó thay đổi, có đúng không? - Đúng ạ. - Vậy khuôn mặt ông, ông có bao giờ coi nó là của ông không? - Khuôn mặt con tất nhiên là của con. - Bây giờ ông soi khuôn mặt vào gương, nhìn thấy rất trẻ đẹp, nhưng 20 năm sau ông soi vào gương, nó sẽ nhăn nheo dúm dó, dù ông có muốn hay không cũng không thể khác được, có phải không? - Phải ạ. - Vậy rõ ràng ông không làm chủ được khuôn mặt, bởi dẫu ông không muốn nó thay đổi thì nó vẫn cứ thay đổi. Thứ ông không làm chủ được mà ông lại coi là của ông, vậy thì có hợp lý không? - À, con đã hiểu, thật đơn giản. Tỳ Kheo thong thả nói: Hôm nay làm được một điều tốt, ông thấy vui trong lòng, ông coi niềm vui đó là của ông. Nhưng một thời gian sau niềm vui ấy sẽ biến mất, dù ông có muốn nó còn mãi thì nó cũng sẽ mất đi. Mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, đó là quy luật vô thường. Bởi quy luật vô thường nên không thể có thứ gì trường tồn bất biến như bản ngã mà Bà La Môn giáo đã dạy, bởi vậy mà Đức Phật dạy rằng vô ngã (không có ngã). Đã không có ngã thì tất nhiên cũng chẳng có cái gì là tự ngã của ta cả. Trong kinh Tăng nhất A Hàm Đức Phật cũng khẳng định: “không có sắc nào hằng còn tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi; lại cũng không có thọ, tưởng, hành, thức hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi”. Người kia nghe xong liền hỏi tiếp: - Như Thầy vừa giải thích thì chẳng có cái gì là tự nhiên, trường tồn bất biến cả, vậy sao con nghe nói rằng bản tâm vốn thanh tịnh, cho dù thế nào thì cái bản tâm thanh tịnh ấy cũng không biến mất đi? Tỳ Kheo nói: Đó là điều sai lạc do nhánh rẽ Bắc Tông xuyên tạc nhằm hướng người học đi ngược lại với chân lý Đức Phật đã dạy. Đức Phật dạy vô ngã vốn để người học hiểu rằng không có một cái gì là tự nhiên, nguyên bản, trường tồn, bất biến của ta, vì vậy đừng nên chấp thủ, đừng nên níu giữ bất cứ thứ gì, hãy buông xả tham ái. Tuy nhiên sau khi Đức Phật nhập niết bàn, nhánh rẽ Bắc Tông, với khởi nguồn là những đệ tử không thực hành được chánh pháp, tích trữ của cải, đã bị trục xuất khỏi tăng đoàn lại tụ hợp lại viết ra một hệ thống kinh giả, xuyên tạc điều phật dạy. Những chân lý phật dạy bị nhánh này xuyên tạc nhiều vô kể, vấn đề bản tâm thanh tịnh cũng là một trong những điều nhánh này xuyên tạc ra. Phật dạy vô ngã cho người hành pháp buông xả tham ái, nhánh rẽ Bắc Tông để xuyên tạc điều Phật dạy đã gian xảo dựng ra một cái “Bản tâm thanh tịnh”, lừa người học tin vào. Tuy từ ngữ ở đây thay đổi nhưng bản chất vẫn như nhau. “Bản tâm thanh tịnh” mà nhánh rẽ sai lạc Bắc Tông đặt ra thực chất chính là “Bản ngã” của Bà La Môn khi xưa, thứ mà Phật đã khẳng định không có. Thứ không có đó giờ đây Bắc Tông xuyên tạc thành có, chỉ có điều khéo léo thay đổi từ ngữ để người học không nhận ra. Trong kinh pháp cú Đức Phật dạy: Tâm dẫn đầu các pháp Tâm làm chủ tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm niệm bất tịnh Khổ não liền theo sau Như xe theo bò vậy Tâm dẫn đầu các pháp Tâm làm chủ tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm niệm thanh tịnh An lạc liền theo sau Như bóng chẳng dời hình. Qua hai đoạn kinh trên chúng ta thấy rõ rằng không phải bản tính của tâm vốn thanh tịnh như bắc tông xuyên tạc. Nó có thể thanh tịnh, có thể bất tịnh, và thanh tịnh hay bất tịnh là do ý điều. Nếu tin theo điều Bắc Tông dạy rằng bản tính của tâm là thanh tịnh người học sẽ sinh tâm lý chủ quan, yên tâm rằng tâm mình thanh tịnh rồi nên không chú ý điều phục tâm mà mải mê đi tìm cái tâm thanh tịnh giả, sa vào đường tà. Phật dạy trong pháp cú: Người điều phục tâm rồi Hẳn thoát vòng ma buộc Nếu thiếu sáng suốt mà đi tin vào cái “bản tâm thanh tịnh” giả do bắc tông đặt ra, không chú trọng điều tâm thì người học sẽ không thể thoát khỏi sự trói buộc của tà ma. Người kia nghe xong nói: - Thì ra là vậy, con đã hiểu, vậy còn câu “không phải ta” thì sao ạ? Tỳ kheo trả lời: - Hôm nay ông coi cái thân thể kia, với những mặt, mũi, chân tay đó là ông, ai đánh vào cánh tay đó thì ông thấy đau, ông nghĩ là đánh ông. Nhưng lỡ ngày mai ông bị tai nạn phải bỏ mất một cánh tay, lúc đó cánh tay mà ông từng coi là tay ông đó không còn nằm trong thân ông nữa. Có ai đánh vào nó ông cũng chẳng cảm thấy gì. Nhìn xa hơn. Kiếp này ông coi cái thân đó là ông, đến lúc chuyển sinh sang kiếp khác ông sẽ có thân hình khác, lúc đó cái thân hình mà ông từng coi là ông này chẳng liên quan gì tới ông cả. Bởi vậy thân xác ngũ uẩn chỉ như cái áo thôi, dùng hỏng thì bỏ đi, chẳng phải ta. Bùi Văn Hải |
![]() |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|
![]() |
![]() |