NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Thơ > Thơ Quán
Nạp lại trang này Chuyện Đông - Chuyện Tây (An Chi)

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

Trả lời
  #11  
Cũ 15-12-10, 11:17 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

10 (KTNN 97, ngày 01-12-1992)
Tại sao Colomb có công t́m ra châu Mỹ mà tên ông lại không được dùng để gọi châu này? Tên nước Colombia cóliên quan ǵ đến tên của Colomb hay không?

AN CHI: Chính Christophe Colomb đă gọi châu Mỹ là Tây ấn Độ (Indes occidentales) v́ đă nhầm tưởng rằng đó là nước ấn Độ. Do cách đặt tên này của Colomb mà thổ dân da đỏ châu Mỹ đă được gọi là Indien (tiếng Pháp), Indian (tiếng Anh), nghĩa là người Ấn Độ. Sau khi biết rơ sự thật, người ta mới dần dần gọi châu Mỹ bằng cái tên Amerique (tiếng Pháp), America (tiếng Anh) như hiện nay. Đúng là trong tên nước Colombia có tên của Colomb. Ông đă đến miền đất này năm 1502 nhưng trước đó th́ Alonso de Hojeda đă phát hiện ra nó từ 1499. Sau khi hoàn thành việc chinh phục đất này vào năm 1539 th́ Gonzalo Jiménez de Quesada đă gọi nó là Nueva Granada; măi về sau nó mới được gọi là Colombia.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #12  
Cũ 15-12-10, 11:58 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

11. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tam tộc trong "tru di tam tộc" là những tộc nào?

AN CHI: Hai tiếng tam tộc có ít nhất là bốn cách hiểu mà Từ nguyên (một bộ từ điển tiếng Hán ra mắt năm 1915) đă cho như sau:
1. Cha mẹ, anh em, vợ con là tam tộc (Phụ mẫu, huynh đệ, thê tử vi tam tộc).
2. Họ cha, họ mẹ, họ vợ là tam tộc (Phụ tộc, mẫu tộc, thê tộc vi tam tộc).
3. Cha, con, cháu (= con của con) là tam tộc (Phụ, tử, tôn vi tam tộc).
4. Anh em của cha, anh em của ḿnh, anh em của con là tam tộc (Phụ côn đệ, kỷ côn đệ, tử côn đệ vi tam tộc).

V́ có nhiều cách hiểu như trên cho nên ngay vụ án Nguyễn Trăi cách đây 555 năm (1442) cũng được người thời nay hiểu khác nhau. Cao Huy Giá dịch Đại Việt sử kư toàn thư đă viết như sau:"Ngày 16 (tháng 8 năm Nhâm Tuất - AC), giết hành khiển Nguyễn Trăi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời" (t.III, Hà Nội, 1972, ti.131). Ba đời đương nhiên chỉ có thể là đời cha, đời con và đời cháu (ứng với nghĩa 3 của Từ nguyên) mà thôi. Nhưng Phan Huy Lê th́ lạiviết: "(…) Nguyễn Trăi bị ghen ghét gièm pha, có lần bị hạ ngục và cuối cùng bị tru di ba họ" (Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trăi (tập kỷ yếu), Hà Nội, 1982, tr.75). Ba họ, theo cách hiểu thông thường là họ cha, họ mẹ và họ vợ (ứng với nghĩa 2 của Từ nguyên), đương nhiên phải nhiều và nặng hơn ba đời v́ ba đời chỉ thuộc có một họ mà thôi.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #13  
Cũ 15-12-10, 12:05 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

12- (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao lại nói "ruột đau chín chiều'? Đó là những chiều nào, hướng nào? Hay đó là chín buổi chiều?

AN CHI: Chữ chiều ở đây chính là chữ mà Húnh-Tịnh Paulus Của viết ch́u và giảng là "chỗ uất khúc, vạy ṿ", (Đại Nam quấc âm tự vị, tập I, Sài G̣n, 1895,tr. 145). Đây chính là cái nghĩa gốc đă cho ra nghĩa thông dụng hiện đại của chiều trong chiều hướng, đường một chiều, v.v. Ruột đau chín chiều là dịch ư của mấy tiếng Hán cửu hồi trường nghĩa là "chín (lần) quặn ruột". Giản Văn Đế nhà Lương có viết: "Bi dao dạ hề, cửu hồi trường" (Đêm buồn dài dặc hề, chín lần ruột quặn). Tư Mă Thiên cũng viết: "Trường nhất nhật nhi cửu hồi" (Một ngày mà ruột quặn chín lần). Cái nét nghĩa "uất khúc, vạy ṿ" của từ ch́u, mà Húnh-tịnh Paulus Của đă ghi, rất ăn khớp với cái nghĩa của tiếng hồi là "quanh", là "quặn". Vậy chín chiều là "bản dịch" rất sát của cửu hồi (cửu = chín, hồi = chiều, nghĩa là quặn) nhưng do cấu trúc của nó về mặt thuần túy h́nh thức rất giống với cấu trúc của "(đường) một chiều hoặc" (một sớm) một chiều nên mới dẫn đến hai cách hiểu nhầm đă được ghi nhận trong câu hỏi. Cuối cùng, cũng phải nhắc lại rằng nếu theo đúng chính tả hiện nay th́ chữ ch́u của Húnh-tịnh Paulus Của phải được viết là chiều (Những chữ chiều trong chiều theo, chiều ḷng, trăm chiều, v.v. đều được ông nhất loạt viết thành ch́u).

Lần sửa cuối bởi phale; 15-12-10 lúc 12:10 PM
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #14  
Cũ 15-12-10, 02:48 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

13. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao có người lại cho rằng câu "Mũi dại lái phải chịu đ̣n" đúng ra phải là "Mũi vạy lái phải chịu đ̣n"?

AN CHI: H́nh thức gốc và đúng là Mũi vạy lái phải chịu đ̣n. Câu tục ngữ này bắt nguồn từ đặc điểm của nghề ghe thuyền. Mũi vạy là mũi lệch, mũi không đi đúng hướng cần thiết, có thể do nước xoáy hoặc nước xiết. Trong điều kiện này người cầm lái đương nhiên phải vất vả và phải vững tay v́ anh ta là người chịu đ̣n. Chịu đ̣n ngon lành th́ thuyền sẽ ngon lành vượt qua ḍng nước xiết hoặc cơn nước xoáy. Chịu đ̣n kém cỏi th́ thuyền sẽ chông chênh, thậm chí có thể bị lật. Vậy chịu đ̣n là ǵ? Là dùng sức của ḿnh mà gh́ cây đ̣n lái cho vững, không để cho cái bánh lái bị ḍng nước làm chao đảo, quặt quẹo gây nguy hiểm cho con thuyền. Câu tục ngữ muốn nói đến vai tṛ và tráchnhiệm của người chỉ huy trong t́nh thế khó khăn, nguy hiểm. Từ nguyên dân gian đă biến nó thành "Mũi dại lái phải chịu đ̣n" đưa đến cách hiểu hiện nay rằng dại là từ trái nghĩa với khôn c̣n chịu đ̣n là bị đánh bằng roi vọt. Tuy nhiên, cái nghĩa ví von của câu này th́ lại không khác lắm so với cái nghĩa của câu gốc.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #15  
Cũ 15-12-10, 02:50 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

14. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Trong câu "đầu cua tai nheo" th́ "tai nheo" là ǵ? Ư cả câu là ǵ?

AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng câu đó như sau: "Chỉ những chuyện chắp nhặt, không đâu vào đâu”. Tai là một từ Việt gốc Hán đọc theo âm Hán Việt, có nghĩa là (cái) mang cá. Đây là một từ cổ, xưa vẫn được dùng với tính cách là một từ độc lập, chẳng hạn như trong câu: "Lô cư cá vức bốn tai" (Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Hà Nội, 1985, tr.201 - Nhà chú giải đă không giảng chữ tai trong câu này). Không bàn đến chuyện có thật con cá vức có bốn tai, nghĩa là bốn mang, hay không, ở đây chúng tôi chỉ muốn dẫn chứng về cái nghĩa mà ḿnh đă nêu. Chữ tai, Hán tự viết là 鰓, được Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur giảng là "ouiles de poisson" c̣n Mathews' Chinese-english Dictionary cũng giảng là "the gills of a fish". Vậy tai theo là mang cá nheo. Mang cá nheo mà đi với đầu con cua th́ rơ ràng là chuyện chắp vá chẳng đâu vào đâu!
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #16  
Cũ 15-12-10, 02:51 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

15- (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Rắn có phủ được mèo hay không? Nếu không, tại sao một số nơi ở miền Bắc lại có lưu hành câu"Rắn phủ l. mèo"?

AN CHI: Về chuyện "rắn phủ mèo", trong Chân trời khoa học (của báo Khoa học phổ thông) tháng11.1990, kỹ sư Nguyễn Quốc Thắng đă giải thích rơ ràng như sau: "Rắn thuộc lớp ḅ sát c̣n mèo thuộc lớp động vật có vú, hai lớp này rất xa nhau về mặt tiến hóa. Theo nguyên tắc của sinh vật học, 2 loài khác nhau của cùng một giống đă rất khó giao phối với nhau huống hồ ở đây rắn và mèo có cấu tạo cơ quan sinh dục hoàn toàn khác nhau, số lượng nhiễm sắc thể trong tế bào cũng khác nhau, do đó khẳng định chúng không thể giao phốivới nhau được" (tr.56).

Tất nhiên là có nhiều người quả quyết rằng chính mắt họ đă nh́n thấy rắn phủ mèo. Nhưng sự thật th́ hoặc là họ đă nh́n gà hóa cuốc hoặc là điều này có nhiều phần chắc chắn hơn - họ đă "tung tin vịt một cách vô tội vạ mà thôi. C̣n "rắn phủ l. mèo" chỉ là một biến dạng của thành ngữ dán bùa l. mèo, một phần hẳn là cũng có do người ta vẫn bị ám ảnh bởi cái chuyện "rắn phủ mèo". L. mèo là cái đầu hồi nhà, tức là cái phần h́nh tam giác bên hông nhà mà đỉnh là nơi hai mái nhà giáp nhau. Ngày xưa khi thợ mộc cất nhà xong, họ thường dán một lá bùa vào cái l. mèo nhà theo tín ngưỡng, mà có khi cũng chỉ đơn giản là theo thói quen nghề nghiệp. Câu dán bùa l. mèo bắt nguồn từ thực tế này; về sau nó đă bị từ nguyên dân gian bóp méo nên mới thành rắn phủ l. mèo.
Trả lời với trích dẫn
  #17  
Cũ 15-12-10, 02:52 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

16. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Tờ "Bát tự niên canh" có phải là tờ đăng kư kết hôn ngày xưa hay không? Có phải "bát tự" có nghĩa là tám tờ c̣n "niên canh" là có giá trị trong một năm hay không?

AN CHI: Nói cho đúng cú pháp tiếng Hán th́ đó là niên canh bát tự, có nghĩa là tám chữ thuộc về tuổi tác. Đó là tám chữ CAN CHI (thí dụ: Mậu Tư, Kỷ Sửu, Canh Dần, Ất Mùi, v.v…) gồm có hai chữ chỉ giờ, hai chữ chỉ ngày, hai chữ chỉ tháng và hai chữ chỉ năm mà một con người đă ra đời. Tờ niên canh bát tự là tờ ghi giờ, ngày, tháng và năm sinh theo âm lịch của chàng trai hoặc cô gái để trao cho nhà gái hoặc nhà trai đi coi thầy xem tuổi hai bên có hạp nhau hay không. Hễ hạp tuổi với nhau th́ mới bàn tính đến chuyện hôn nhân chính thức. Vậy đó không phải là tờ đăng kư kết hôn. Vả lại, chẳng cứ khi tính chuyện hôn nhân mới có khai niên canh bát tự. Chỉ cần đi xem tử vi để biết chuyện bổn mạng th́ cũng đă phải khai tám chữ cho thầy rồi (không có tám chữ th́ thầy làm sao lên bảng được).
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #18  
Cũ 15-12-10, 02:53 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

17. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Hai tiếng cù là trong "dầu cù là" xuất xứ từ đâu? Có phải tên một loại cây nào không?

AN CHI: Có người đă liên hệ hai tiếng cù là này với hai tiếng Cù Là là tên mà người xưa ở miệt dưới đă dùng để gọi nước Miến Điện. Số là trước đây có một loại dầu cù là mang nhăn hiệu Mac Phsu, sản xuất tại Miến Điện, được ông già bà cả trong Nam ưa chuộng. Người ta cho rằng v́ thứ đầu này được sản xuất tại nước Cù Là (=Miến Điện) nên nó mới được gọi là dầu cù là (=dầu sản xuất tại nước Cù Là). Sau khi hai tiếng cù là trở thành thông dụng trong phương ngữ Nam Bộ th́ ngữ danh từ dầu cù là được dùng rộng răi để chỉ tất cả các loại dầu cao, bất kể chúng được sản xuất tại nước nào, đương nhiên là kể cả tại nước Tàu. C̣n chính người Tàu th́ lại gọi dầu cù là là vạn kim du (tiếng Quảng Đông: màn cắm y du) bắt nguồn từ nhăn hiệu của một thứ dầu cù là là hiệu Vạn Kim. Hiện chúng tôi chưa t́m được tên của một loại cây nào gọi là cây "cù là".
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #19  
Cũ 15-12-10, 02:55 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

18. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Trong bài 'Hoàng hậu Hiếu Văn, làng Cổ Trai và đất Minh Linh" đăng trên Cửa Việt số 15, tháng 6-1992, Tố Am Nguyễn Toại đă dựa vào thư tịch của Trung Quốc để khẳng định rằng Mạc Đăng Dung không phải là người Việt mà là người Đăn từ Trung Quốc lưu lạc sang. Xin hỏi người phụ trách mục"Chuyện Đông chuyện Tây" nghĩ sao về điều khẳng định này?

AN CHI: Người đầu tiên phát hiện ra rằng Mạc Đăng Dung thuộc sắc dân Đăn Man là Trần Quốc Vượng tại Hội nghị khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm tổ chức ở Hải Pḥng tháng 2.1985. Cứ liệu của ông là một số điều ghi chép trong Minh sử. Bảy năm sau, Tố Am NguyễnToại lại tiếp tục khẳng định giống như Trần Quốc Vượng. Ngoài Minh sử ra, ông c̣n nêu tên sách Đông Hoăn huyện chí của Trần Bá Đào đời Thanh. Chúng tôi cho rằng chẳng qua Trần Bá Đào cũng chỉ viết theo Minh sử mà thôi và rằng những điều mà sách này đă chép về thành phần dân tộc của Mạc Đăng Dung là hoàn toàn không thể tin tưởng được.

Chỉ riêng một việc người Đại Minh "biết quá rơ" về lai lịch của Mạc Đăng Dung trong khi chính người Đại Việt th́ lại hoàn toàn mù tịt về điều đó, chỉ riêng mộtviệc đó thôi, cũng đă là điều hoàn toàn đáng ngờ rồi. Huống hồ chế độ tuyển cử và chế độ bảo cứ quan chức của nước ta vào thời Lê thật chặt chẽ và chu đáo, th́ làm sao một tên cha căng chú kiết - nếu quả ông ta là người Đăn Man - như Mạc Đăng Dung lại có thể len lỏi vào làm đô chỉ huy sứ từ năm 1508 để lên ngôi hoàng đế 19 năm sau đó?

Theo truyền thuyết th́ Mạc Đăng Dung xuất than từ nghề đánh cá - c̣n chúng tôi th́ cho rằng bấy giờ ông ta là một Khương Thượng chờ thời - nên Minh sử mới dựa vào đó mà ghi chép một cách hồ đồ rằng ông là người Đăn Man, v́ Đăn Man là một sắc dân chuyên sống lưu động trên ghe thuyền để làm nghề đánh cá và có khi là cả nghề cướp biển nữa. Hoặc cũng có thể Minh sử đă cố ư ghi chép như thế để gián tiếp nhắn nhủ một cách trịch thượng rằng một tên Đăn Man cũng đủ khả năng để làm vua nước Đại Việt như thường. Dù thế nào mặc ḷng, chúng tôi cho rằng người Việt Nam không thể đặt ḷng tin tuyệt đối của ḿnh vào sách Tàu được, nhất là sách Tàu mà lại viết về những vấn đề lịch sử tế nhịcủa Việt Nam.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #20  
Cũ 15-12-10, 02:56 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.804
Thanks: 45.829
Thanked 83.829 Times in 21.719 Posts
Mặc định

19. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Tiếng Anh đă có từ Christmas để chỉ lễ Giáng sinh, lại c̣n có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này.

AN CHI: Yule là h́nh thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại geol, với biến thể geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà tiếng Phần Lan láng giềng đă mượn và phát âm thành joulu. Theo Eric Partridge, h́nh thái cổ đại geol bắt nguồn từ một h́nh thái tiền thân là geol, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại c̣n có danh từ geola để chỉ tháng December (tháng Chạp dương lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. C̣n geol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng geola, tức là ngày Giáng sinh.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
Trả lời

Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 10:47 PM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.