NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Văn Học > Truyện Sưu Tầm > Tiểu Thuyết
Nạp lại trang này Trở Về Từ Cơi Sáng - Giám Mục Charles Leadbeater (Dịch giả: Nguyên Phong)

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

Trả lời
  #1  
Cũ 28-10-11, 09:13 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Sau khi giă từ người quân nhân đó, ông Jules và tôi tiếp tục đi nữa. Vừa ra đến đường chính, tôi nh́n thấy một xe chở lính Đức đi ngang. Tôi giật ḿnh kêu lớn:

- Cậu ơi! Lính Đức ḱa!

Cậu Jules mỉm cười:

- Phải rồi chúng ta đang ở tại nước Đức nhưng cháu đừng lo, họ không trông thấy chúng ta đâu. Cháu quên rằng chúng ta đâu c̣n thể xác nữa.

Chúng tôi thấy một ông già gầy g̣, quần áo nhàu nát, đầu đội nón nỉ, vẻ mặt đau khổ đang đứng trước một căn nhà. Cậu Jules nói:

- Đó là Lebowitz, một thương gia giàu có đă qua đời từ mấy năm nay nhưng không siêu thoát v́ c̣n quyến luyến tài sản, sự nghiệp.

Ông già ngước cặp mắt lờ đờ nh́n cậu Jules rồi nói một cách buồn bă:

- Thưa ông, căn nhà nầy do chính tôi xây cất, chính tôi đă lựa chọn từng ḥn gạch, từng khúc gỗ. Hăy nh́n cái cửa bằng gỗ sồi kia, chính tay tôi đă chọn từ bên Đan Mạch, c̣n chiếc cửa sổ bằng kính màu nữa, nó đă được hoàn tất bởi những thợ giỏi nhất miền Florence... Căn nhà nầy của tôi và tôi không thể bỏ nó được.

Cậu Jules nh́n ông già bằng cặp mắt thương hại rồi nói với tôi:

- Năm trước, chính quyền Đức ra lệnh cho người Do Thái phải rời bỏ khu nầy để tập trung vào một khu biệt lập. Ông Lebowitz Không chịu nên bị họ đánh trọng thương. Tuy mang thương tích trầm trọng nhưng ông nhất định không vào bệnh viện điều trị mà cứ bám riết căn nhà nên vài hôm sau bị nhóm SS giết chết. Từ đó ông cứ quanh quẩn bên căn nhà nầy. Tôi bèn hỏi:

- Như vậy ông ấy sẽ ở đây đến bao giờ?

- Ông ta sẽ tiếp tục ở t́nh trạng nầy cho đến khi nào ḷng quyến luyến kia tiêu tan hết. Có thể là một vài năm, chục năm hay có khi lâu hơn thế nữa.

Cậu Jules nói với ông già:

- Nầy ông bạn, ông bạn đă chết rồi, đă rời bỏ thế giới nầy rồi th́ c̣n quyến luyến căn nhà đó làm chi nữa! Hiện nay căn nhà đó đă thuộc về người khác rồi...

Ông lăo khăng khăng lắc đầu:

- Không... Không... đây là nhà của tôi, sống tôi ở với nó, chết tôi cũng ở với nó. Không ai có thể buộc tôi rơi bỏ nó được.

Ngay lúc đó có một nhóm người từ đâu bước tới mở cửa bbước vào nhà. Ông Lebowitz Xông ra cản lại nhưng không được. Ông vừa xô đẩy họ vừa quát lớn:

- Quân ăn cướp! Đồ sát nhân! Bọn ngươi hăy cút khỏi nhà của ta!

Dĩ nhiên là những người đó đâu hay biết, họ vẫn thản nhiên bước vào mặc cho ông già la hét om ṣm. Cậu Jules thở dài:

- Một ngày nào đó ông ta sẽ hiểu và sẽ hối tiếc cho sự điên rồ nầy.

- Phải chăng người chết nào cũng thế?

Cậu Jules lắc đầu:

- Không hẳn như thế. Sau khi chết, người ta bước vào một giai đoạn chuyển tiếp (transition period), khi các điều kiện vật chất mà họ thường bám víu vào đang từ từ tan ră và một thế giới mới lạ bắt đầu hiện rơ dần. Cái thế giới của ánh sáng, nhiều người gọi đây là "cơi sáng" cũng không sai. Đây không phải là thứ ánh sáng như là ánh sáng mặt trời, mà là một thứ ánh sáng rọi khắp cũng mọi nơi, không một cái ǵ có thể che khuất được nó. Một người có tâm trạng xấu xa, hèn kém th́ không dám nh́n thứ ánh sáng nầy và thường trasnh né nó, nhưng một người hiền lành thánh thiện th́ thoải mái hơn v́ họ biết chấp nhận sự thật. Dù sao chăng nữa khi từ giă xác thân, ai cũng thấy bầu ánh sáng nầy và nó soi rơ tâm thức họ, cho họ thấy rơ các diễn tiến vừa xảy ra trong cuộc đời vừa qua. Họ sẽ thấy ḿnh thành công chỗ nào, đă học hỏi được những ǵ. Họ sẽ thấy lại những cảnh đổ máu do chính họ gây nên hay những đau khổ mà họ đă gây cho người khác. Họ cũng ư thức được các hành vi nhân đức, hy sinh, quả cảm của ḿnh và rút tỉa kinh nghiệm học hỏi. Dần dần họ ư thức rằng các hành động trong quá khứ đă đưa đẩy họ đến hoàn cảnh trong cuộc sống của họ trong kiếp nầy và hành động của họ trong kiếp nầy sẽ quyết định số kiếp tương lai của họ. Sau khi đă duyệt xét lại tất cả mọi hành động cua ḿnh, họ sẽ ó những quyết định riêng, dù đó là quyết định ǵ chăng nữa đó cũng la bước đầu quan trọng của sự tự biết ḿnh. Chính sự tự biết ḿnh nầy là khởi điểm cần thiết cho sự tiến hóa của con người.

Một người hiền lành nhân ái, biết sống thuận theo thiên ư khi qua đời sẽ thấy một biển ánh sang bao bọc quanh họ. Lớp ánh sáng nầy thâm nhập vào người họ khiến họ cảm thấy lâng lâng sung sướng dường như được gia tăng thêm sức mạnh. Thật ra khi đó các nguyên tử nặng trược trong thể vía của họ đang tan ră nên họ thấy trẻ trung hơn, thoải mái hơn, b́nh an hơn và không c̣n sợ sệt lo lắng nữa. Chính sự không sợ hăi lo lắng nầy giúp họ tiến dần vào nguồn ánh sáng, ḥa hợp được với các tư tưởng thanh cao tốt lành và đem nguồn tư tưởng an lành đó gieo rắc cho những người thân đang than khóc, đau buồn để an ủi họ. Tuy nhiên, người chết như vậy ít khi nào lưu lại cơi trần lâu, v́ một khi nhăn quan của họ đă mở rộng, đă thấy một thế giới khác tốt đẹp hơn, huy hoàng hơn, an lành thoải mái hơn th́ đâu c̣n ai muốn trở vầ cái thế giới đầy phiền muộn lo lắng ngày trước làm ǵ. Tuỳ theo sự tiến hóa và khả năng phát triển mà họ được dẫn dắt, học hỏi chân lư một cách rơ ràng. Họ sẽ không c̣n ngờ vực điều ǵ nữa, những giác quan mới của họ được thức động và một gian đoạn sống mới sẽ bắt đầu.

Một người b́nh thường, đời sống không có ǵ đặc biệt, không làm điều ǵ quá xấu hay điều thiện đáng kể th́ khi từ trần sẽ không được như thế. Mặc dù cũng nh́n thấy ánh sáng huy hoàng của Thượng Đế nhưng đa số lại do dự, rụt rè, không ư thức rằng họ có thể ḥa nhập vào đó để tiến lên cơi trên mà cứ quanh quẩn ở trong các cảnh giới quen thuộc vói họ. Một người khi c̣n sống không biết chăm lo phát triển về tinh thần mà chỉ lo những chuyện vẩn vơ tầm thường, sống không có mục đích rơ rệt, th́ sẽ thấy thời gian bên nầy trôi qua rất chậm, ngày giờ dài đăng đẳng, bởi v́ những chuyện giải trí bằng vật chất xa hoa kia không thể thực hiện được nữa. Họ sẽ t́m cách quanh quẩn bên những môi trường quen thuộc nhưng rất đau khổ v́ không thể tiếp xúc với người thân hay thỏa măn các dục vọng được nữa. Họ sống vất vưởng trong một bầu không khí ảm đạm, buồn chán không thể siêu thoát được và luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết hay tâm trạng lúc chết. Nếu được một người nào đó giúp đỡ hướng dẫn th́ họ có thể từ bỏ sự lưu luyến nầy để tiến lên cơi trên, nếu không họ có thể sống một cách bất động trong hoàn cảnh nầy rất lâu.

- Như vậy người ta sống tại đây lâu mau như thế nào?

- Thời gian lưu tại đây tùy theo các nguyên tử vật chất tích tụ trong thể vía của họ. Nếu các nguyên tử vật chất tiêu biểu bằng sự ham muốn, đam mê, cảm xúc và tập quán của xác thân thu hút những nguyên tử của vật chất tương ứng. Tâm thức của con người chẳng qua chỉ lànhững rung động của những nguyên tử và sự rung động nầy tương ứng với những cảnh giới khác nhau. Một người hoàn toàn sống buông thả, mặc cho dục tính lôi cuốn, không phát triển chút nào về trí thức hay tinh thần th́ sẽ thu hút các nguyên tử nặng trước, có sức rung động khít khao, rất khó tan ră, do đó họ sẽ phải trăi qua thời gian rất lâu tại những cảnh giới ô trược, xấu xa. Trái lại, một người đă chủ trị được dục vọng, ít ham muốn th́ thể vía trong sạch, thanh nhẹ, không cần phải tinh luyện ǵ nữa, phần nặng trược sẽ mau tan ră và họ có thể tiến bước lên những cơi giới cao hơn. Cậu Jules đặt tay lên vai tôi một cách thân ái.

- Cháu Steve, cậu đă chỉ cho cháu thấy một vài khía cạnh của đời sống bên kia cửa tử. Một số người tưởng rằng chết là hết, là sự vĩnh viễn chia ĺa và bây giờ cháu thấy rơ đó là một sự sai lầm rất lớn. Chúng ta là con của Thượng Đế, được tạo ra từ ngài nên dĩ nhiên là không bao giờ chúng ta có thể chết được. Kiếp sống của chúng ta trên thes gian nầy thật ra chỉ là một phần nhỏ của một đời sống lớn lao, cao cả hơn. Xuyên qua những kiếp sống, chúng ta học hỏi và tiến hóa để trở về với nguồn gốc, với Thượng Đế. Mục đích của đời người là hướng thượng và mỗi kiếp sống phải là một bước tiến trở về nguồn. Nếu con người có thể hiểu được các định luật bất biến của vũ trụ hay luật trời th́ họ sẽ biết rằng chẳng có một hung thần hay ác quỷ nào tạo ra các nỗi khổ đau cả mà chính là con người thiếu hiểu biết đă vi phạm các định luật nầy. Hiểu được luật trời, biết tuân theo luật trời, biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau th́ con người có thể tránh được bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu phiền năo.

Trong lúc ông nói, vầng hào quang bao phủ quanh ông phát ra những tia sáng chói lọi, lấp lóe như kim cương. Cậu Jules mỉm cười:

- Sắp đến lúc cháu trở lại cơi trần và Marjorie cũng muốn nói với cháu vài lời từ biệt nên cậu chỉ vắn tắt thôi. Cháu nên nhớ những điều cháu được chứng kiến và học hỏi nơi đây không phải là một giấc mộng hăo huyền mà là sự thật. Điều cháu học hỏi không phải là một đặc ân nào đâu nhưng chính nhờ đức hạnh của cháu. Cháu và cậu đă làm việc với nhau từ lâu, từ nhiều kiếp sống trong quá khứ, hiện nay cháu không nhớ được bao nhiêu nhưng sẽ có lúc cháu biết được những điều cháu đă làm cũng như những hạnh nguyện của cháu. Yù thức được điều nầy, nhiệm vụ của cháu sẽ c̣n quan trọng hơn trước rất nhiều. Chúng ta tạm thơi chia tay ở đây, trong một thời gian không lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau và sexlafm việc chung với nhau.

Cậu Jules vừa dứt lời th́ tôi đă thấy Marjorie từ xa đi đến. Cô lướt đi nhẹ nhàng như một người khiêu vũ. Quanh cô có một bầu ánh sáng chói lọi khiến tôi không khỏi ngây ngất. Marjorie liến thoắng:

- Nầy anh Steve, anh hiểu điều cậu Jules nói rồi chứ?

- Đại khái anh cũng hiểu được đôi ba điều nhưng cậu Jules nói là anh sắp phải trở về... Như vật làm sao anh có thể gặp lại cậu Jules hay em đây?

- Anh đừng lo. Em sẽ đến gặp anh mỗi khi anh ngủ. Nếu cần anh cứ tập trung tư tưởng trước khi anh ngủ để nghĩ đến em th́ em sẽ đến gặp em ngay. Thôi, đă đến lúc anh phải trở về rồi...

Tự nhiên tôi thấy mệt mỏi một cách lạ lùng, ngực tôi đau nhói và hơi thở trở nên khó khăn khiến tôi đưa tay ôm lấy ngực. Tai tôi c̣n nghe văng vẳng tiếng Marjorie:

- Tạm biệt anh Steve, chúng ta sẽ gặp lại nhau...

Khi tỉnh dậy, tôi biết ḿnh đă hôn mê gần một ngày. Cô y tá trực kể rằng tưởng tôi đă chết, người ta đă đem tôi xuống nhà xác để tẩm lieejm nhưng may thay tôi tỉnh dậy kêu la om ṣm. Bác sĩ khám nghiệm, xác nhận tôi c̣n sống và cho chuyển lên pḥng hồi sinh. Cô y tá kể lại rằng tại sao tôi không có hào quang. Tưởng tôi c̣n mê sảng nên cô nhẹ nhàng hỏi tôi muốn nói hào quang nào. Tôi trả lời rằng tại sao cô ta không toát ra hào quang giống như Marjorie. Nghi rằng tôi muốn t́m một người tên Marjorie nên cô trả lời rừng cô là Louise Clayton, và ở đây không có ai tên là Marjorie hết, phải chăng tôi muốn t́m một người tên là Marjorie. Tuy nhiên tôi lại nói rằng Marjorie đă chế từ lâu rồi nhưng tôi đă gặp lại cô ta, quanh người cô ta toát ra hào quang và lúc nào cũng lướt đi như khiêu vũ vậy. Cô y tá cho rằng tôi đă nói mê nhưng tôi nhấn mạnh tôi không mê sảng chút nào cả. Tôi gặp cậu Jules và Marjorie mặc dù cả hai đă chết từ lâu. Tôi c̣n thấy Hạ sĩ AnDrew Shaw bị trúng đạn ở trán trên chiến trường Âu châu, gặp Thượng sĩ Lawrence Sorgen và trung úy Robert Stevenson, cả hai đều tử trận hôm đó. Thấy vậy người y sĩ trực ra lệnh cho cô y tá trích cho tôi một liều thuốc ngủ.

Hai hôm sau, khi tôi hoàn toàn tỉnh táo th́ Louise Clayton bước vào:

- Hôm trước trong lúc mê sảng ông nói rằng ông thấy Andrew Shaw, Lawrence Sorgen và Robert Stevenson bị trúng đạn và tử trận ở Châu âu...

- Đúng thế.

Louise Clayton im lặng nh́n tôi và đưa ra một bản báo cáo mới nhất của bộ Quốc Pḥng thông báo tên những quân nhân tử trận và dĩ nhiên có cả ba người nầy. Việc một người bị hôn mê bất tỉnh tại North Carolina biết được những sự kiện xảy ra trên chiến trường Châu âu quả là một việc kỳ lạ. Tôi bèn kể lại những diễn tiến một cách chi tiết từ khi tôi bị ngất đi cho Louse nghe. Mặc dù cô y tá nầy không lấy ǵ làm tin tưởng cho lắm nhưng cô cũng không thể giải thích v́ sao tôi lại biết tên ba người quân nhân đă từ trần kia. Thật ra lúc đó trong thâm tâm tôi cũng không lấy ǵ làm chắc chắn, phải chăng tôi đă tưởng tượng hay mê ngủ? Không hiểu v́ sao tự nhiên tôi lại nảy ra một ư nghĩ lạ lùng:

- Nầy cô Clayton, xin cô hăy đợi đến sáng ngày mai rồi tôi sẽ nói chuyện với cô rơ hơn về việc nầy. Tôi biết cô không tin và tôi cũng không chắc là tôi đă nói đúng nhưng tôi nghĩ nếu tôi không tưởng tượng ra việc nầy th́ ngày mai chúng ta có thể nh́n nó dưới một khía cạnh khác.

Ngày hôm sau tôi rủ Louise ra ngồi ở chiếc ghế bên ngoài sân bệnh viện. Tôi nói:

- Nầy cô Louise, hôm đó khi vừa tỉnh dậy tôi có nói với cô về hào quang chi đó. Dĩ nhiên cô nghĩ rằng tôi đă nói mê sảng nhưng khi lên pḥng bà y tá trưởng để phúc tŕnh về bệnh t́nh của tôi, cô kể lại chuyện nầy cho bà đó nghe. Lúc đó v́ đang xem một hồ sơ bệnh lư nên bà y tá trưởng không hề ngước mắt lên nh́n cô mà chỉ nói: "Chắc ông đó c̣n mê sảng chứ làm ǵ có ai có hào quang". Sau đó cô rời pḥng trở về, trên hành lang cô gặp một quân nhân ngă trẹo chân ở sân tập nên cô bước phụ giúp việc băng bó cho anh ta. Liệu tôi nói có đúng không? Louise Clayton hoảng hốt không sao trả lời được:

- Ông Buckley, tại sao ông biết được chuyện đó? Khi ấy tôi đă chích cho ông một liều thuốc ngủ và ông đă ngủ li b́ kia mà!

- Đúng thế, tôi không biết ǵ về chuyện đó cả, nhưng hôm qua khi chúng ta đang nói chuyện vói nhau th́ cô tỏ ra không tin. Phần tôi cũng thế, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về chuyện nầy và không biết rằng tôi đă mê hay tỉnh đây. Tôi nhớ lại lời dặn của Marjoire nên đêm qua trước khi đi ngủ tôi đă tập trung khi nghĩ đến cô nầy. Tôi nghĩ rằng điều tôi đă kinh nghiệm thật mơ hồ, không có bằng chứng va chắc nói ra cũng không có ai tin, không chừng người ta c̣n cho tôi là loạn trí. Tuy nhiên sáng nay th́ tôi chắc rằng tôi không mê nữa, tôi đă gặp lại Marjoire trong giấc ngủ và cô ta đă dặn tôi kể lại điều nầy cho cô nghe.

Louise Clayton im lặng một lúc rồi nói:

- Marjoire c̣n nói ǵ nữa?

- Marjoire nói rằng được cô chăm nom săn sóc là một việc rất quư. Đây không phải là một việc ngẫu nhiên đâu mà có sự thu xếp để cô săn sóc tôi. Cô là một người có ḷng từ ái, làm việc thoải mái, chân thành và có những rung động thanh cao, rất tốt cho việc phục hồi sức khỏe của các bệnh nhân. Từ nhỏ cô thích âm nhạc và muốn trở nên một nhạc sĩ dương cầm, nhưng lúc chiến tranh xảy ra, cô t́nh nguyện trở nên một y tá để góp phần vào việc chăm sóc, an ủi các thương bệnh binh... Marjoire nói rằng cô sẽ giúp tôi rất nhiều nếu cô tin rằng điều tôi kể không phải là do tưởng tượng.

Louise Clayton giật ḿnh. Cô suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Theo như ông nói th́ Marjoire có một nhiệm vụ ở cơi bên kia?

- Đúng thế. Marjoire được giao phó nhiệm vụ giúp đỡ những người vừa từ trần c̣n đang hoang mang, hốt hoảng. Cô ấy giúp họ b́nh tĩnh, thoải mái để chấp nhận sự thật là họ đă bước qua thế giới khác, rồi khuyên họ hăy xả bỏ những ràng buoojc với coi nầy để siêu thoát.

- Thế c̣n nhiệm vụ của ông?

- Cậu Jules nói rằng nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ những người sống v́ những người đă chết không giúp được người sống, chỉ những người c̣n sống mới có thể khuyên bảo được người sống mà thôi.

- Như vậy ông sẽ làm ǵ?

- Tôi sẽ giúp những người sống hiểu biết về thế giới bên kia, biết rằng chết không phải là hết như mọi người thường nghĩ. Kiếp sống của chúng ta thật ra chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi của một tiến tŕnh rất dài. Mục đích của cuộc đời không phải là tranh dành, chém giết để đoạt lấy một địa vị, tài sản nhưng để học hỏi về thương yêu. Chúng ta được tạo ra trong t́nh thương của đấng sáng tạo và bản chất thật sự của chúng ta là thương yêu nhưng v́ không ư thức được điều nầy nên càng ngày chúng ta càng hành động trái với mục đích được tạo ra từ ban đầu. Cũng v́ thế cuộc đời thường có những biến động để nhắc nhở chúng ta rằng cai mà chúng ta tưởng là những giá trị lớn lao thật ra chỉ là những bọt nước hời hợt, chóng thành chóng hoại. Sự chết là một giai đoạn cần thiết trong tiến tŕnh của sự sống để con người duyệt xét lại những việc làm của ḿnh, rút kinh nghiệm để học hỏi, rồi chuẩn bị cho sự tái sinh. Sở dĩ chúng ta không thấy được cơi chết v́ giác quan thể xác của chúng ta rất giới hạn, nếu biết nâng cao tâm thức, khai mở được những giác quan của thể vía, v́ chúng ta có thể tiếp xúc được với cái thế giới bên kia cửa tử nầy. Thật ra các giác quan thể vía vẫn hoạt động âm thầm nhưng v́ chúng ta đă quen sử dụng các giac quan của thể xác nên chúng ta ít chú ư đến các giác quan kia. Tuy nhiên khi giác quan của thể xác tạm thời yên nghỉ, như lúc chúng ta ngủ chẳng hạn, th́ các giác quan của thể vía sẽ hoạt động mạnh mẽ hơn. Nó có thể đi khắp đó đây, giao thiệp, tiếp xúc và học hỏi trong thế giới riêng của nó. Dĩ nhiên khi thức dậy người ta không nhớ ǵ hết và cây cầu tâm thức nối giữa thể vía và thể xác chưa được khai mở nên ta chỉ có các ấn tượng mơ hồ, không rơ rệt. Nhờ cậu Jules nhắc nhở, tôi được biết trong tiền kiếp tôi đă từng tập luyện và khai mở được cây cầu tâm thức nầy, nhưng v́ tôi đă không ư thức ǵ đến nó cho đến khi quả ḿn nổ, gây chấn động đến những trung tâm huyền bí trong cơ thể tôi và thức động khả năng nầy. Qua sự chỉ bảo và hướng dẫn của cậu Jules, tôi có thể tiếp xúc với cơi giới vô h́nh trong giấc ngủ và khi tỉnh dậy vẫn nhớ được mọi sự một cách rơ rệt vi cây cầu tâm thức đă được khai mở.

- Nhưng làm sao người ta có thể tin được điều nầy khi họ không thể nh́n thấy hay tiếp xúc được với cơi giới bên kia.
Trả lời với trích dẫn
  #2  
Cũ 28-10-11, 09:14 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

- Sở dĩ mọi người không thấy được ơi giới nầy v́ họ chỉ quen sử dụng các giác quan thông thường của thể xác, vốn cấu tạo bằng nguyên tử của cơi vật chất, không đồng chất với cơi giới bên kia. Tuy nhiên chúng ta không nh́n được, sờ được, nghe được ngửi được hay nếm được th́ không hiện hữu. Biết bao nhiêu thứ vẫn hiện hữu mà các giác quan nầy đâu có thấy đâu. Chúng ta đâu có nh́n thấy không khí mà không khí vẫn hiện hữu. Khoa học đă chứng minh có những sinh vật rất nhỏ bé như vi trùng nhưng nếu không có kính hiển vi th́ đâu ai nh́n thấy chúng. Tóm lại, nếu chấp nhận rằng sự hiểu biết dựa trên ngũ quan của chúng ta c̣n thiếu xót th́ con người sẽ khiêm tốn hơn và có thể học hỏi được nhiều điều mới lạ.

- Anh đă học hỏi được những ǵ?

- Sự học hỏi của tôi c̣n nhiều thiếu sót nhưng đại khái thoạt đầu tôi thấy cơi giới bên kia nhưng không có ǵ khác biệt so với cơi mà chúng ta đang sống. Theo lời Jules th́ đây cũng là cảnh giới đối phần (mirror image) của cơi trần, do đó người chết vẫn có thể thấy rơ tất cả mọi sự xảy ra chung quanh họ như nhà cửa, đườn gxas, bạn bè, thân quyến. Ty nhiên tất cả những thứ nầy đều là ảo ảnh v́ cái mà họ thấy chỉ là h́nh ảnh chứ không phải là thực, do đó tuy có thể cảm thấy mọi sự vật nhưng vẫn không thể liên lạc hay tiếp xúc được với những người thân. Dĩ nhiên họ vô cùng khổ sở hay đau đớn trong một thời gian, tùy theo t́nh cảm nhiều hay ít, nhưng dần dần họ sẽ dứt bỏ được các ràng buộc nầy để biết rơ hơn về sự liên hệ giữa họ và những người thân đó. Một khi đă hiểu được nguyên nhân sâu xa của những liên hệ nầy th́ họ sẽ ư thức rơ rệt hơn các định luật bất biến của vũ trụ, từ đó sự học hỏi thực sự bắt đầu...

- Nhưng... nhưng c̣n địa ngục?

- Đó là một tin tưởng sai lầm đă tạo ra nhiều nỗi lo sự một cách vô ích, nếu một kẻ ác xuống địa ngục bị quỷ sứ hành hạ, thiêu đốt thân thể, đánh đập tan xương nát thịt th́ xin hỏi khi chết thịt xương đă thối nát rồi, c̣n đâu mà hành hạ?

- Như vậy những kẻ hung ác không phải xuống địa ngục hay sao?

- Các thuyết về sự hiện hữu của một nơi gọi là địa ngục đă gây nhiều tai hại v́ khi nói đến địa ngục, người ta thường nghĩ rằng đó là một thế giới ở giữa ḷng trái đất với một nhóm các quỷ sứ hết sức dữ dằn, chuyên trừng trị những kẻ phạm tội. Thật ra chẳng có ai trừng phạt ai hết v́ địa ngục hay thiên đ àng chỉ là một trạng thái của tâm thức. Nếu biết sống một cách thoải mái, yêu thương th́ thế giới nầy vốn là thiên đ àng rồi, c̣n ngược lại nếu cứ sống với những khổ đau oán hận th́ nơi đây có khác chi là địa ngục!

Từ đó Louise Clayton thường hay đến gặp tôi để nghe về những kinh nghiệm học hỏi của tôi ở cơi bên kia. T́nh thân ái giữa chúng tôi bắt đầu nẩy nở. Tuy không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu được t́nh cảm của nhau cho đến khi thời gian điều trị chấm dứt, tôi trở lại quân trường và được đưa ra mặt trận Âu châu. Vào lúc đó trận chiến đă tàn, quân đội Đồng Minh đă giải phóng được nhiều nước Âu châu và đang trên đường tiến về Bá Linh. Đơn vị của tôi trú đóng tại nước Pháp, giữ nhiệm vụ tiếp tế cho đơn vị khác. Tuy công việc hàng ngày rất bận rộn nhưng tôi vẫn áp dụng phương pháp của cậu Jules đi an ủi những người vừa từ trần. Hôm đó chúng tôi đi ngang qua một quán rượu, cậu Joles chỉ một đám người đang chen chúc quanh đó.

- Cháu thấy không, đó là vong linh những kẻ nghiện ngập rượu. Khi c̣n sống họ nghiện rượu nên khi chết dục vọng đó vẫn tiếp tục chi phối khiến họ vô cùng đau khổ. Khi c̣n thể xác, uống rượu nhiều quá cơ thể không chịu nổi sẽ lăn ra ngủ, dục vọng tạm thời ngưng hoạt động. Khi chết, dục vọng được tự do biểu lộ, không c̣n thể xác kiềm chế nữ, nó nung nấu tâm can kẻ nghiện khiến lúc nào y cũng thèm khát đến phát điên phát cuồng. Do đó những vong linh nầy thường lân la quanh các trà đ́nh, tửu quán để thưởng thức mùi rượu, nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn sự ham muốn đó nên dục vọng càng ngày càng gia tăng dữ dội khiến vong linh hết sức khổ sở.

Tôi thấy một số binh sĩ đang uống rượu trong quán, có người uống nhiều quá, nôn mửa đầy xuống đất. Các vong linh nghiện rượu xô đẩy nhau chạy đến cúi sát xuống mặt đất để được hít những chất rượu thối tha nầy. Họ say mê hít hơi rượu một cách đắm đuối mà trên thế gian chưa thấy ai thưởng thức mùi vị rượu như thế. Thực ra họ không thể ngửi thấy mùi vị ǵ v́ đâu c̣n các giác quan thể xác nữa, nhưng cái ư nghĩ được thưởng thức rượu quá mạnh, đă xui khiến họ hành động như thế. Chỉ nh́n hành động điên cuồng đó mà tôi đă thấy rợn cả người. Cậu Jules chỉ cho tôi thấy một số vong linh khác đang cố gắng nhập vào xác những người say rượu để thưởng thức một vài dư vị của khoái xác thân. Những người say rượu hay sử dụng ma túy thường dễ bị các vong linh nhập vào. Sự nhập xác nầy tuy chỉ có tính cách tạm thời trong chốc lát nhưng nó cũng gây nhiều hậu quả tai hại cho người bị nhập. Càng bị nhập xác, những người nầy càng dễ bị mất tự chủ, và càng mất tự chủ họ càng dễ bị xui khiến làm điều xằng bậy. Theo sự hiểu biết của tôi, khi sự sống th́nh ĺnh chấm dứt như trường hợp chết bất đắc kỳ tử th́ người chết khó có thể siêu thoát được v́ dục vọng và sinh lực c̣n quá mạnh mẽ. Một cái chết bất ngờ luôn luôn tạo ra những chấn động, tán loạn tâm thần khiến cho người chết hết sức hoang mang và đau khổ. Đôi khi họ trở nên thù hằn, oán hận và chính tâm trạng lúc chết nầy sẽ khiến nên họ trở nên một động lực hết sức nguy hiểm, có thể xúi giục người sống làm những việc hết sức ghê gớm như giết người, hành hạ, hiếp đáp người khác,v.v.. Đa số những vụ sát nhân thường xảy ra khi hung thủ mất tự chủ v́ rượu, ma túy hoặc vi quá giận dữ. Những kẻ nghiện rượu, ma túy, tính khí nóng giận bất thường dễ trở nên nạn nhân của những động lực bất hảo nầy.

Đôi khi các vong linh cũng t́m cách xâm chiếm thể xác của những kẻ yếu bóng vía, những người nhạy cảm, hay những trẻ em yếu ớt nhưng trường hợp nầy chỉ có tính cách nhất thời v́ bản ngă con người thường rất mạnh, không dễ ǵ có thể đuổi nó đi để cướp lấy thể xác được. Thường th́ các vong linh lúc quá thèm muốn, bị dục vọng nung nấu, t́m cách chiếm cứ xác thân của một con thú nào đó v́ bản năng con thú thường yếu hơn sự đ̣i hỏi điên cuồng của một vong linh. Các loài thú kém tiến hóa như heo, cừu, dê, trâu, ḅ dễ trở thành nạn nhân hơn là các loài thú khôn ngoan hơn như chó, mèo, khỉ, ngựa vốn có ư chí kháng cự mạnh mẽ. Sự xâm nhập xác thú nầy có thể trọn vẹn hoặc có khi chỉ trong giây lát nhưng nhờ cơ thể con thú làm trung gian mà vong linh gần gũi được với cơi trần, cảm nhận được mọi sự qua giác quan của con thú thú và thỏa măn được một ít dục vọng như ăn uống, đ̣i hỏi xác thịt th́ vong linh cũng cảm thấy đau đớn, khổ sở và khi con thú bị mổ thịt th́ vong ling sẽ hoảng hốt, đau đớn, tuyệt vọng và trạng thái nầy sẽ ảnh hửong rất mạnh đến đời sống sau nầy của vong linh. Ngoài ra th́ nhập xác thú sẽ tiêm nhiễm vào thể vía của vong linh nên sau nầy dù có đầu thai lại thành người, nó cũng có khuôn mặt, h́nh dáng của con thú đó, hoặc tính t́nh hung bạo, tàn ác hay ngu si đần độn như con thú kia. Trong trường hợp tuyệt đối hơn, vong linh liên kết chặt chẽ với cái vía của con thú đó đă nhập, hễ con thú đi đâu th́ vong linh đi theo đó, giống như một tù nhân của xác thú. Điều nầy có thể giải thích được trường hợp của những kẻ hung dữ, nhiều dục vọng sẽ đầu thai trở lại thành vật.

V́ tâm trạng khi chết có thể ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống về sau nên cậu Jules và Marjorie phải làm việc rất nhiều để giúp đỡ, cảnh tỉnh và an ủi các vong linh. Phần tôi được giao trọgn trách giúp đỡ thân nhân của người chết hoàn tất một tâm nguyện nào đó mà họ chưa làm xong, nhờ thế họ có thể cởi bỏ các ràng buộc với cơi trần để siêu thoát. Dĩ nhiên sự hoạt động của tôi chỉ giới hạn trong lúc ngủ nên việc làm nầy không hiệu quả nhiều so với công việc của cậu Jules hay Marjorie, nhưng tôi rất thích công việc nầy. Khi muốn đi đâu hay gặp ai, tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trước khi ngủ th́ sẽ đến gặp người đó ngay, nhưng tôi không dám sử dụng năng khiếu nầy để gặp Louise Clayton v́ như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh. Cậu Jules đă dặn tôi rất kỹ rằng một người hiểu biết các định luật thiên nhiên không bao giờ làm một việc ǵ đó có tính cách ích kỷ hay riêng tư cho các nhân ḿnh. V́ biết thế, chúng tôi chỉ tiếp xúc với nhau qua thư từ hoặc thỉnh thoảng bằng điện thoại. Sau mấy tháng liên lạc, cảm t́nh của tôi dành cho Louise ngáy càng sâu đậm hơn nên một hôm tôi đă ngỏ lời cầu hôn và cô nhận lời. Chúng tôi dự định sau khi giải ngũ sẽ làm đám cưới.

Thời gian tuần tự trôi, cuộc chiến chấm dứt, quân đội Đồng Minh giải phóng được toàn cơi Châu âu nhưng chúng tôi vẫn chưa được giải ngũ v́ c̣n những khó khăn, rất cần sự hiện diện của một lực lượng quân đội tại đây. Tuy công việc bận rộn nhưng tôi vẫn liên lạc với cậu Jules để học hỏi thêm. Tôi thấy ḿnh thật may mắn v́ đă được giao phó một nhiệm vụ cao đẹp và được d́u dắt để học hổi thêm những kiến thức mới mẻ. Chính nhờ những kiến thức mới mẻ nầy mà đời sống của tôi được nâng lên một b́nh diện rộng lớn hơn, cao cả, tốt đẹp hơn, và từ đó tôi thấy rơ sự tiến hóa trong chương tŕnh vĩ đại mà Thượng Đế đă sắp đặt.

Nếu quan sát một cách kỹ lưỡng và có ư thức người ta sẽ thấy tất cả mọi sinh vật đều có một mối tương quan đặc biệt, điều nầy có thể coi như một thứ t́nh huynh đệ đại đồng v́ vạn vật đều có cùng một nguồn gốc mà ra. Đây không phải là một thứ lư thuyết suông mà là một nguyên lư hiện diện khắp nơi trong vũ trụ. Nên hiểu rằng vũ trụ là một toàn thể mà trong đó tất cả mọi thành phần đều liên quan mật thiết đến nỗi khi một phần tử trong đó biến đổi th́ toàn thể vũ trụ cũng biến đổi theo. Giống như một cái kính vạn hoa (Kaleisdoscope) thay đổi khi một phần tử trong đó thay đổi th́ vũ trụ cũng thế, nó luôn luôn thay đổi để giữ một trạng thái quân b́nh tuyệt đối. Dĩ nhiên trong một thế giới như thế, sự cô lập hay khia rẽ không thể hiện hữu v́ không một cá nhân nào hay một thực thể nào có thể tránh thoát được sự hợp nhất của toàn thể. Sự hợp nhất nầy vượt lên mọi sự khác biệt v́ nó được xây dựng trên căn bản ḥa hợp để giữ sự quân b́nh mà trong đó mọi loài đều tiến hóa dựa theocác định luật bất biến. Trong vạn vật, có một thực tại duy nhất chuyển sinh lực giúp tất cả mọi loài tăng trưởng, nẩy nở, phát triển và sinh sản, đó là sự sống duy nhất sinh hóa muôn loài. Xuyên qua tiến tŕnh sống nầy, cái duy nhất đó phân tán thành vô số tinh chất và h́nh thể khác nhau, và do sự liên quan vô số nầy, các phần tử kết hợp lại với nhau để tạo thành vô số các đơn vị điều ḥa và quân b́nh. Các nguyên tử (căn bản vật chất) được cấu tạo theo nguyên lư đó và rồi phân tử, các tế bào, các cơ quan, và các cơ thể cũng được tổ chức tương tự. Khắp vũ trụ, mọi thành phần đều có khuynh hướng kết hợp để tạo thành các phần tử tốt đẹp quân b́nh và yếu tố chính để bảo tồn sự quân b́nh nầy là t́nh thương. Luật vũ trụ không chấp nhận sự chống đối hay đi ngược lại các mănh lực kết hợp đó v́ nó làm mất đi sự quân b́nh, gây ra các xáo trộn. Để tạo lập lại sự quân b́nh đó, một phản lực phải được tạo ra để tái lập, đó là căn bản của luật nhân quả. Sự chống đối giữa người và người hay giữa người và các sinh vật khác đều là sự đi ngược luật vũ trụ và dĩ nhiên phải chịu hậu quả tùy theo nguyên nhâ đă gây ra nó.

Tại sao con người chống đối, thù hằn nhau? Phải chăng v́ có sự khác biệt giữa màu da, chính kiến, tư tưởng hay tín ngưỡng? Nhưng nếu sự sống là duy nhất th́ tại sao con người lại khác nhau, kẻ thông minh người ngu dại, người hiền lành kẻ hung dữ, hay có những người sinh ra mang màu da khác nhau? Nếu ta có thể hiểu rằng bản chất thực sự của con người vốn không khác nhau nhưng v́ khoác lấy một cái vỏ vật chất để kinh nghiệm thế giới hiện tượng nên sự khác biệt mới có. Chính sự khác biệt nầy tạo ra môi trường để sự học hỏi có thể xảy ra, thúc đẩy sự tiến hóa và nhờ thế vũ trụ mới mang sắc thái "động" thay v́ "tĩnh". V́ tất cả đều phát xuất từ một nguồn sống duy nhất và cái nguồn sống nầy luôn luôn hiện diện khắp nơi, khắp các cơi giới dù h́nh thể đời sống mỗi loài có khác nhau, tất cả vẫn đều liên quan chặt chẽ với nhau trong một tiến tŕnh đời sống. Trong tiến tŕnh đời sống nầy, các sinh vật phải luân hồi trong nhiều kiếp, khi sinh ra ở nơi nầy lúc ở nơi khác, có khi mang thể xác phái nam, khi lại mang thân phái nữ, lúc có màu da nầy khi mang màu da khác nhưng tất cả sự khác biệt đó đều là những mội trường để học hỏi và kinh nghiệm sự yêu thương. Nói cách khác, toàn thể nhân loại kẻ trước người sau, đang dần bước trong một cuộc hành tŕnh rất dài. V́ sự hiểu biết và học hỏi khác nhau nên họ có những tin tưởng, thành kiến và suy luận khác nhau nhưng đây chỉ là yếu tố phụ và ở bên trong họ đều là một: Đó là sự sống duy nhất đang tiến dần đến trạng thái toàn diện, một trạng thái yêu thương bao la vô bờ bến. Cho đến khi đạt đến trạng thái nầy cuộc hành tŕnh của thực thể cá nhân sex chấm dứt v́ khi đó họ đă ḥa hợp vào cái nguồn sáng bao la, thiêng liêng bất tận. Đó chính là sự trở về nhà mà các kinh sách tôn giáo thường diễn tả.

Một hôm tôi có việcphải đi công tác xa hơn một tuần lễ, khi trở về căn cứ tôi nhận được một bức thư ngắn của Louise Clayton có nội dung như sau: "Anh Steve, em đă t́m được việc làm ở một nơi xa, xin anh đừng viết thư cho em về North Carolina nữa. Em đă suy nghĩ nhiều về cuộc hôn nhân của chúng ta và thấy rằng chúng ta quyết định một cách hấp tấp. Chúng ta chức có th́ giờ t́m hiểuu nhau nhiều, vậy em nghĩ chúng ta nên dừng lại tại đây th́ hơn. Kính chúc anh mọi sự may mắn"

Đọc xong bức thư ngắn nầy tôi thấy thế giới dường như sụp đổ mộng đẹp đang xây dựng bấy lâu bỗng chốc tiêu tan. Tại sao Louise lại thay đổi ư kiến đột ngột như vậy? Phải chăng cô đă gặp một người nào học thức hơn hay có tương lai hơn? Louise không thể như thế được, cô là người mẫu mực, dịu dàng và có lư tưởng nên không thể quên lời hứa một cách dễ dàng như vậy được. Phải chăng có chuyện ǵ bất thường xảy ra? Phong thư không đề địa chỉ hồi âm nên tôi không thể nào liên lạc với Louise. Suốt ngày hôm đó tôi như người mất trí. Tôi đă điện thoại về North Carolina nhưng người ta cho biết Louise Clayton đă dọn đi và không để lại địa chỉ. Đêm hôm đó tôi cố gắng lắm mới không nghĩ đến Louise. Tôi biết ḿnh có thể tiếp xúc với Louise nhưng tôi cũng biết làm như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh. Một người phụng sự không được phép dùng quyền năng của ḿnh vào những công việc riêng nghĩ là vào những mục đích ích kỷ. Sau cùng tôi nghĩ đến Majorie và quyết định t́m gặp cô nầy. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau nên chỉ cần tập trung tư tưởng một lúc là tôi thấy Marjorie xuất hiện trong một vùng ánh sáng chói lọi. Cô vui vẻ nói:

- Nầy anh Steve, thật là sung sướng biết bao v́ em có nhiều chuyện kể cho anh nghe. Anh phải mừng cho em v́ em vừa được giao phó nhiệm vụ mới việc nầy khó khăn hơn. Từ nay em nhận lănh trách nhiệm an ủi những tre em vừa từ trần. Ôi chúng dễ thương làm sao! Lúc đầu chúng bơ vơ lạc lơng và rất sợ hăi, nhưng được em hết sức dỗ dành, chúng hết sợ c̣n gọi em bằng mẹ nữa...

- Marjorie liến thoắng nói như không thèm chú ư đến tâm trạng ngổn ngang lo âu, thất vọng của tôi. Cô tiếp tục:

- Anh phải đến gặp mấy đứa bé nầy, chúng dễ thương lắm. Nh́n chung cứ nh́n thấy bông hoa hé nở dưới nắng mai vậy... Ô hay! Anh lo lắng ǵ mà có vẻ khó chịu vậy?

Tôi đau khổ hỏi:

- Dạo nầy em có gặp Louise Clayton không? - Không. Em chỉ gặp cô ấy khi săn sóc anh ở bệnh viện thôi. Công việc của em ở bên nầy rất bận rộn nên em không trở lại cơi trần làm ǵ. Anh và Louise cùng ở cơi trần, gặp nhau dễ dàng, sao anh không đến thăm cô ấy?

Marjorie lặng nh́n tôi một lúc và chợt hiểu. Cô quàng tay vào tay tôi:

- Anh Steve, em hiểu sự đau khổ của anh nhưng đáng lẽ ra anh không nên hỏi em như vậy. Chúng ta gặp nhau để làm việc chung chứ không phải để nói chuyện có tính cách cá nhân. Nếu anh hỏi cậu Jules như vậy th́ cậu ấy sẽ nghĩ sao về anh?

- Marjorie nói bằng một giọng nghiêm trang khiến tôi giật ḿnh như tỉnh mộng. Phải, tôi đă nghĩ về ḿnh nhiều quá. Các nỗi lo lắng nhỏ nhặt, ích kỷ đă làm tôi suưt quên đi trách nhiệm được giao phó. Thật là xấu hổ khi Marjorie hoàn toàn quên ḿnh để giúp đỡ những đứa bé vừa từ trần trong khi tôi chỉ bận tâm đến việc mất người yêu. Tôi tập trung tư tưởng để tự trấn tĩng rồi nói:

- Nầy Marjorie, anh sẽ đến thăm mấy đứa bé mà em săn sóc. Anh cũng thích chơi với trẻ con và nếu em cho phép anh cũng sẽ hướng dẫn cho chúng...

Khi tỉnh dậy, tôi ư thức rơ khả năng tự chủ của tôi chưa được vững cho lắm. Một việc bất ngờ đă làm cho tôi bối rối như vậy th́ làm sao tôi có thể kham được những việc lớn lao hơn. May thay Marjorie đă nhắc nhở cho tôi biết, từ đó tôi chuyên tâm vào việc phụng sự những người vừa từ trần, giúp họ hoàn tất các việc chưa xong hoặc an ủi thân nhân họ.

Ba tháng sau tôi được giải ngũ trở về Hoa kỳ. Tôi có đến North Carolina t́m Louise nhưng không gặp, những người trong bệnh viện cũng không biết cô dọn đi đâu. Vào lúc chiến tranh vừa chấm dứt, số người giải ngũ di chuyển khắp nơi rất nhiều, việc t́m kiếm một người như Louise rất khó nếu không nói là gần như không có hy vọng. Tôi trở về New York sống với gia đ́nh và t́m được việc làm trong một hăng buôn. Ngoài công việc sinh kế hằng ngày, tôi để hết tâm trí vào việc phụng sự những người vừa từ trần trong lúc ngủ. Hôm đó tôi gặp một vong linh tên là Buster, ông nầy nói:

- Nhờ ông giúp cho tôi. Cách đây mấy năm tôi có ngoại t́nh và có một đứa con rơi. Chúng tôi quyết định giấu nhẹm chuyện nầy nên gửi nó vào một viện mồ côi ở Montana. Đó là viện mồ côi dành cho trẻ em khiếm thị v́ đứa bé bị mù bẩm sinh. Mẹ đứa bé đă dọn đi xa và lập gia đ́nh nên cũng không muốn nh́n nhận nó nữa. Phần tôi sống trong ăn năn, hối hận măi cho đến lúc chết. Trước khi từ trần tôi có viết một bức thư và kể lại chuyện nầy để xin lỗi nhà tôi v́ khi c̣n sống tôi không có can đảm thú nhận. Điều bất ngờ là không những nhà tôi đă tha thứ cho tôi mà c̣n muốn mang đứa bé về nuôi nữa. Tiếc thay v́ tôi không đẻ lại chi tiết nên nhà tôi không biết đâu mà t́m. Phiền ông lliên lạc với nhà tôi để mang cháu về dùm, hồ sơ tại cô nhi viện có ghi rơ chi tiết và có lưu lại một bức thư riêng của tôi tại đó.

- Bà Buster quả là một phụ nữ không những giàu sang mà c̣n giàu ḷng trắc ẩn. Sau khi nghe tôi tŕnh bày, bà yêu cầu tôi cùng đi với bà và vị luật sư riêng đến Montana t́m đứa nhỏ. Tất cả mọi chi tiết đều xảy ra đúng như lời ông Buster kể. Chúng tôi t́m được cháu Cheryl dễ dàng. Vị luật sư xem xét giấy tờ và xác nhận Cheryl chính là con ông Buster. Thật ra điều nầy cũng bằng thừa v́ cháu trông giống ông Buster như đúc. Vừa nh́n thấy Chery, bà Buster đă cảm động ôm chầm lấy nó, và có lẽ v́ linh tính sao đó, nó cũng quyến luyến bà buster không rời. Thủ tục nhận lănh đứa nhỏ tại cô nhi viện diễn ra một cách tốt đẹp và nhanh chóng. Trong khi chờ đợi ṭa án tiểu bang chấp thuận, đứa nhỏ được phép về sống với bà Buster. Cô bé Chery thu tập quần áo theo mẹ nuôi nhưng cô chợt kêu lên:

- Trước khi đi con phải vào từ giă cô giáo dạy nhạc của con đă.

Chúng tôi theo cô bé bước vào lớp học. Một nhóm trẻ đang quây quần chung quanh cây dương cầm để tập hát. Tự nhiên mắt tôi hoa lên. Cô giáo dạy âm nhạc kia đâu ai xa lạ mà chính là Louise Clayton, người mà tôi vẫn có ư định t́m kiếm bấy lâu nay.

Tại sao Louise Clayton lại làm việc tại đây? Th́ ra trong thời gian phục vụ tại bệnh viện, cô mắc bệnh ở mắt, thị giác dần dần suy kém và theo thời gian sẽ bị mù. Biết thế và không muốn cho tôi có một gánh nặng là cưới một cô gái mù, Louise viết thư từ hôn rồi dọn đến tận tiểu bang Montana, nơi mà Louise tin rằng không bao giờ tôi có thể t́m thấy được. Cô xin được việc làm tại viện mồ côi dành cho cac trẻ em khiếm thị. Biết được lư do nầy, tôi càng thấy yêu Louise hơn, mọi sự phiền muộn tan theo mây khói. Tôi lặp lại lời cầu hôn một lần nữa và lần nầy Louise chấp nhận một cách hoan hỉ.

Câu chuyện chấm dứt khi Steve và Louise kết hôn. Tác giả, ông Tucker đă kết luận: "Câu chuyện của Steve là một câu chuyện t́nh hay là một câu chuyện về thế giới bên kia cửa tử? Có lẽ cả hai v́ người ta không thể phân chia nó được bởi t́nh thương bắt nguồn từ Thượng Đế và Thượng Đế chính là t́nh thương. Đối với những ai biết sống thuận thao thiên ư th́ vũ trụ nầy chỉ có một điều quan trọng mà thôi: Đó là t́nh thương. Phụ sự người khác là ǵ nếu không phải là ḷng thương yêu, một thứ t́nh cảm êm dịu, vị tha, cao cả và mầu nhiệm. Tất cả những ai đă bước qua cơi sáng ắt phải nhận biết đó là một cơi của t́nh thương rực rỡ, huy hoàng. Điều đáng tiếc là tâm trạng con người khi chết thường quá sợ hăi, đầy quyến luyến và chỉ muốn bám víu vào các quan niệm sai lầm chứ không biết xả đi mọi ham muốn, dục lạc để thực sự kinh nghiệm những ân phước tràn đầy nơi cơi đó. Chính nơi cơi trần đầy xác trộn, bất an của chúng ta hiện nay cũng tràn đầy những tia sáng của t́nh thương nhưng tiếc thay chúng ta quá bận rộn với những ích kỷ nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày mà quên đi sự màu nhiệm tuyệt với của cuộc sống. Phải chăng những sự đau khổ của chúng ta chẳng qua là sự nhớ nhung t́nh thương đó và có lẽ chính v́ sự đau khổ mà người ta mới phát triển t́nh thương hay học yêu thương?"

Trong trang cuối, tác giả đă kể lại cuộc gặp gỡ giữa ông và vợ chồng Steve Buckley, v́ lư do ǵ mà ông xin phép được kể lại những điều ông nghe kể. Ông kết luận: "Rồi một ngày kia, t́nh thương yêu sẽ tràn ngập vũ trụ khi nhân loại ư thức được t́nh thương của Đấng sáng tạo và biết rằng t́nh thương đó không phải là một điều xa xôi diệu vợi, phải nhọc công tốn sức mới có. Thật ra nó vẫn sẵn có trong mọi chúng ta, v́ chúng ta được tạo ra trong t́nh thương và bản chất của chúng ta chính là t́nh thương".
Trả lời với trích dẫn
  #3  
Cũ 28-10-11, 09:18 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Chương 4


Áp Lực Vật Chất Đối Với Những Người Vừa Từ Trần

Trong những lần trước, chúng ta đă t́m hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đă chết rồi hồi sinh (Near death experience).

Trong phần nầy chúng ta sẽ t́m hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần.

Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống măi mà cũng không no. Có lẽ điều nầy ám chỉ những vong linh c̣n nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia th́ đay là một cơi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cơi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cơi trần như dục vọng, sự quyến luyến, ḷng ham ăn uống hay đ̣i hỏi xác thịt.

V́ trước sau ai cũng phải đến đó nên sự hiểu biết về cơi giới nầy là một điều rất cần thiết. Nếu khi du lịch qua xứ lạnh, người ta chuẩn bị y phục ấm để khỏi bị lạnh th́ sự chuẩn bị để qua cơi nầy cũng đ̣i hỏi một sự chuẩn bị cẩn thận. Dĩ nhiên sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất không phải dễ v́ trong mấy chục năm sống ở cơi trần, người ta đă trầm ḿnh trong dục lạc, muốn cở bỏ đâu phải trong một thời gian ngắn như vài ngày hay vài tháng mà được. Thông thường vào lúc tuổi già bóng xế, các thú vui vật chất sẽ giảm bớt đi nhiều. Khi răng long, rụot yếu th́ tự nhiên con người không ham thích ăn uống nhiều như khi c̣n trẻ nữa. Cũng như thế, khi sức khỏe suy yếu bệnh tật, con người sẽ không c̣n thèm muốn các thú vui vật chất như trước và sự suy giảm tự nhiên nầy sẽ giúp người ta giải thoát lần lần khỏi các áp lực vật chất. Tuy nhiên chết là điều không ai có thể biết trước được nên người ta không thể chờ đợi đến khi già mới bắt đầu lo mà phải biết chuẩn bị ngay từ bây giờ. Cuốn Tử Thư Tây Tạng đă ghi nhận: "Đời sống ở cơi trần và cảnh giới bên kia cửa tử có thể so sánh với đời sống của con tằm trong vỏ kén tối tăm và con bướm trong không gian rộng răi. Muốn sống thảnh thơi tự do, con bướm phải biết vất bỏ cái kén để bay lên không trung. Cũng như thế, muốn được thảnh thơi ở cảnh giới bên kia cửa tử, vong linh phải biết xả bỏ các dục vọng vật chất, các khoái cảm xác thân. C̣n giữ những gánh nặng nầy th́ có khác ǵ con bướm khi thoát xác tằm nhưng vẫn mang vỏ kén trên lưng, làm sao có thể bay bổng cho được". Theo cuốn sách nầy, những người chết quá trẻ, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử, thường đau khổ rất nhiều. Sở dĩ họ khổ v́ chưa già, chưa bệnh tật, nên các dục vọng vẫn c̣n mạnh, tạo áp lực khiến họ không thể siêu thoát. Nói một cách khác, họ chưa hề chuẩn bị để giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nên cứ quanh quẩn ở cơi trần, sống trong trạng thái u mê đau khổ. Bị ám ảnh bởi cái chết và tâm trạng lúc từ trần nên thần trí họ không thể sáng suốt để vượt ra khỏi các áp lực nầy. Sự thèm khát mà không được thỏa măn, đói mà không thể ăn, khát mà không thể uống, bị dục vọng hành hạ khổ sở có khác ǵ một cảnh âm ti địa ngục đâu! Chỉ khi nào các áp lực vật chất nầy tiêu tan hết th́ vong linh mới có thể siêu thoát được. Tóm lại hạnh phúc của con người ở thế giới bên kia cửa tử tùy thuộc rất nhiều về sự giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nầy. Cuốn Revelations của nhóm Les Amis de Chamfleury đă ghi nhận rất nhiều trường hợp về những áp lực vật chất mà danh từ Phật giáo gọi là "Cận tử nghiệp", chúng tôi xin trích dịch một trường hợp tiêu biểu như sau:

Bác sĩ Otto Kunz Làm việc tại bệnh viện thành phố Annecy, Thụy Sĩ. Ông bà Kunz Có một người con trai duy nhất tên là Jo đanh theo học đại học Geneve năm thứ hai. Vào tháng 4 năm 1952, cô thư kư của bác sĩ Kunz Nhận được thư của một người tên là Bernard Piquet viết cho bác sĩ nhưng v́ bất cẩn cô xếp lầm bức thư nầy vào một chồng hồ sơ bệnh lư dày cộm trên bàn thư bị thất lạc. Hai tuần sau đó, cậu con trai của bác sĩ đi bơi và chết đuối trong hồ Geneve. Đến cuối tháng sau khi dở hồn sơ bệnh lư, bác sĩ Kunz T́m thấy bức thư thất lạc, nội dung báo trước cái chết của cậu con trai Jo và yêu cầu bác sĩ tiếp xúc với người viết thư. Đại khái bức thư như sau: "Thưa bác sĩ, tôi được giao phó một công việc rất khó khăn mà tôi không biết phải xử trí ra sao. Việc nầy đă gây cho tôi nhiều bối rối nên tôi mạo muội viết thư nầy cho bác sĩ mặc dù chúng ta chưa hề quen biết. Tôi thấy trước tại ngịa địa thành phố Annecy một ngôi mộ mới của một cậu con trai tên là Jo Kunz, con của bác sĩ. Cậu vừa thi xong kỳ thi năm thứ hai đại học rồi đi tắm và bị chết đuối. Đây không phải là lần thứ nhất tôi biết trước được những việc sẽ xảy ra nhưng tôi không bao giờ can thiệp vào những việc nầy. Tuy nhiên lần nầy tôi nhận được lời yêu cầu phải thông báo tin nầy cho bác sĩ trước khi sự việc xảy ra nên tôi rất ngần ngại v́ sợ bác sĩ cho rằng tôi đang toan tính việc ǵ chăng! Tôi suy nghĩ rất kỹ và sau cùng quyết định viết thư nầy để xin bác sĩ liên lạc vói tôi qua địa chỉ và số điện thoại sau....".

Là người hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, bác sĩ Kunz Rất ngạc nhiên v́ lá thư đến trước khi chuyện xảy ra nên ông vội điện thoại cho ông Bernard Piquet. Trong cuộc tiếp xúc, bác sĩ Kunz Được biết ông Piquet không những là một người có địa vị trong xă hội mà c̣n là một nhà thần limh học chuyên nghiên cứu về cơi giới bên kia cửa tử. Oâng Piquet cho biết có rất nhiều vong linh sống vất vưởng, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, v́ c̣n quá nhiều quyến luyến với cỗi trần nên không thể siêu thoát. Nhiệm vụ của ông là liên lạc, giúp đỡ và hướng dẫn những vong linh nầy để họ có thể thích hợp với đời sống ở cơi bên kia. Bác sĩ Kunz Không tin tưởng ở những điều mơ hồ viển vông mà ông Piquet nói nhưng nể ông nầy là người có địa vị trong xă hội nên chỉ nói vỏn vẹn:

- Thưa ông Piquet, những điều ông nói hay lắm, nhưng ông có thể giúp đỡ tôi điều ǵ? Ông muốn xin chúng tôi điều ǵ chăng?

- Bác sĩ đừng hiểu lầm. Tôi không muốn xin xỏ một điều ǵ cả, nhưng cậu Jo, con của bác sĩ, đang cần sự giúp đỡ của bác sĩ v́ cậu đang vô cùng đau khổ.

Nghĩ ông Piquet có ư xấu, bác sĩ nổi giận:

- Ông muốn ǵ th́ cứ nói thẳng ra, con tôi đă chết rồi, xin đừng gợio lại những điều đau đớn đó nữa. Làm sao tôi có thể giúp đỡ con tôi được?

Ông Piquet b́nh tĩnh trả lời:

- Thưa bác sĩ, tuy đă chết nhưng cậu Jo không siêu thoát v́ đang bị ám ảnh bởi tâm trạng khủng hoảng lúc chết, do đó cậu rất đau khổ. Tôi cố sức đỡ giúp cậu nhưng vô hiệu. Có lẽ chỉ bác sĩ mới có thể giúp đỡ được cậu Jo mà thôi v́ ngày thường cậu rất phục bác sĩ.

- Tại sao ông biết điều đó?

- Đó là việc của tôi. Tôi vẫn thường liên lạc vớ thế giới bên kia cửa tử...

- Ông liên lạc bằng cách nào?

- Chúng tôi có nhiều phương tiện không thể kể hết được, nhưng cách giản dị nhất là qua trung gian của một đồng tử (Medium).

Bác sĩ Kunz Rất khó chịu v́ ông không tin những tṛ cầu hồn, cầu cơ, hay tiếp xúc qua đồng tử nên ông lạnh lung nói thêm và câu rồi chấm dứt buổi nói chuyện. Chiều hôm đó ông kể cho vợ nghe. Bà Kunz Vô cùng xúc động nên thúc dục ông phải tiếp xúc lại với ông Piquet:

- Chuyện nầy lạ lắm. Làm sao một người như ông Piquet lại biết trước cái chết của jo được? Nếu cô thư kư Gina không xếp lầm bức thư vào hồ sơ bệnh lư và nếu anh không mở hồ sơ ra coi lại th́ chuyện nầy sẽ ra sao? Biết đâu ông Piquet chẳng nói thật, ḿnh cứ tiếp xúc xem ông ta muốn ǵ và nếu ông ta bày tṛ bịp bợm th́ ta cứ việc gọi cảnh sát.

Lúc đầu bác sĩ Kunz Không nghe, nhưng v́ bà vợ thúc giục măi nên ông đ ành nhờ ông Piquet t́m cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử. Bác sĩ Kunz Chấp thuận với điều kiện buổi tiếp xúc phải được tổ chức tại trường đại học y khoa Geneve, dưới sự chứng kiến của một nhóm bác sĩ bạn thân của ông. Không những thế, buổi tiếp xúc c̣n được thu vào băng để làm tài liệu kiểm chứng. Ông Piquet nhận lời và buổi cầu hồn được tổ chức vào cuối tuần lễ đó. Một người đồng tử (Medium) được đưa đến và ông Piquet hướng dẫn buổi tiếp xúc dưới sự kiểm soát gắt gao của một hội đồng bác sĩ y khoa.

Lần thứ nhất cậu Jo nhập vào đồng tử, cô nầy ú ớ không sao nói được, cứ khua tay khua chân lia lịa một lúc rồi thôi. Ông Piquet cho biết cậu Jo không tỉnh táo và đang xúc động mạnh nên không nói được ǵ. Ông đề nghị mọi người hăy cầu nguyện để sự rung động nầy có thể ảnh hưởng đến thần trí cậu Jo khiến cậu tỉnh táo hơn. Sau khi chờ cho mọi người cầu nguyện xong, ông Piquet yêu cầu cậu Jo trở lại. Lần nầy cô đồng ú ớ một lúc như người bị sặc nước, cứ lấy tay chỉ vào cổ họng như muốn nói mà không sao nói được. Tay chân cứ giẫy giụa như người đang bị chết đuối một lúc rồi thôi. Bác sĩ Kunz Bán tính bán nghi không biết có nên tin hay không. Xem cử chỉ của cô đồng, ông thấy có cái ǵ quen thuộc mà không sao tả được. Ông Piquet giải tán buổi cầu hồn và hẹn sẽ tiếp tục ở một hôm khác. Trong khi chờ đợi, ông yêu cầu ông Kunz Tổ chức một buổi lễ cầu nguyện cho cậu Jo tại thánh đường địa phương. Buổi cầu nguyện diễn ra rất long trọng và trang nghiêm dưới sự chủ lễ của vị giám mục và có rất đong bạn bè của Jo. Vài hôm sau, một buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Geneve. Lần nầy cậu Jo nhập vào đồng tử nhưng cũng như lần trước, cô nầy ú ớ không nói được mà cứ chỉ tay vào cổ họng. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:

- Xin Thượng Đế toàn năng hăy giúp chúng con nghe được tiếng nói của Jo. Đó là điều an ủi lớn đối với chúng con. Chúng con yếu đuối thấp hèn, không thể là ǵ hơn được mà chỉ biết quỳ mọp dưới chân ngài để cầu xin. Gia đ́nh bác sĩ đă mất cậu Jo yêu quư, xin ngài cho phép họ tiếp xúc được với Jo trong chốc lát. Cầu xin ngài làm thế nào cho nỗi đau khổ của chúng con đưa chúng con đến gần ngài. Chúng con không phiền muộn hay trách móc v́ biết đó là ư ngài. Chúng con chỉ xin ngài hăy chăm lo cho linh hồn của Jo. Chúng con hy vọng và tin tưởng ở ḷng thương yêu cao cả của ngài. Xin ngài hăy d́u dắt và hướng dẫn chúng con...

Ông quay ra phía những người quan sát gần đó:

- Nầy các bạn, các bạn phải cầu nguyện một cách chân thành. Cậu Jo cần nhận được những rung động thanh cao, dồi dào của t́nh thương phát xuất từ trái tim của quư vị. Chỉ có t́nh thương mới có thể đưa linh hồn cậu thoát khỏi các áp lực vật chất mà thôi.

Những người ngồi quan sát bàn tán không biết có nên tin những lời ông Piquet hay không. Chỉ riêng bà Kunz Nước mắt đầm đ́a khóc lớn:

- Nầy Jo, nếu quả thật là con th́ hăy cho mẹ biết mẹ sẽ giúp con.

Tự nhiên cô đồng ngồi yên một lúc rồi thốt lên một câu ngắn:

- Khổ quá, khổ quá...

Cả hai ông bà Kunz Đều giật ḿnh v́ giọng cô đồng nói y hệt như giọng cậu Jo. Bà Kunz Xúc động khóc ầm lên nhưng ông Piquet cản lại:

- Xin quư vị hăy b́nh tĩnh, đừng làm cậu Jo thêm đau khổ. Quư vị hăy cầu nguyện chân thành v́ chỉ có sự chân thành mới có thể giúp được Jo trong lúc nầy mà thôi. Xin quư hăy tự xét ḷng ḿnh xem có thanh khiết hay không, v́ chỉ có sự thanh khiết mới có thể rung động và ảnh hưởng đến thần trí đang đau khổ của Jo. Chúng ta nên yên lặng và nghĩ đến Thượng Đế v́ chỉ có ngài mới có thể giúp được chúng ta trong lúc nầy. Tuy một vài người trong quư vị có ḷng thương Jo nhưng vẫn chưa đủ mà cần có sự ḥa hợp của nhiều người để tạo ra được một mănh lực vươn lên cơi trên cảnh tỉnh Jo. Quư vị đừng nghĩ rằng Jo đă chết. Cậu không hề chết như quư vị nghĩ đâu mà chỉ đi qua một cơi giới khác mà thôi. Quư vị có thể chuyển đến cho Jo những tư tưởng thân ái, những t́nh cảm chân thành v́ chỉ những thứ nầy mới làm cho Jo thoát được t́nh trạng u mê hiện nay. Càng than khóc quư vị càng làm Jo thêm đau khổ và càng đau khổ, thần trí Jo càng u mê, quyến luyến, hoảng hốt, không ích lợi ǵ cả.

Mọi người cố gắng cầu nguyện nhưng cô đồng ngồi im mà không trả lời. Sau cùng ông Piquet giải tán buổi cầu hồn. Ngay sau đó hội đồng bác sĩ họp nhau bàn tán, đa số cho rằng ông Piquet đă lừa gạt họ v́ họ chưa thấy có một bằng chứng nào là cậu Jo đă trở lại. Bác sĩ Kunz Tỏ ra siêu ḷng trước lập luận của bạn bè nhưng bà Kunz Quả quyết rằng giọng của cô đồng đúng là giọng nói của Jo và bà muốn tiếp tục thêm một lần nữa. Bác sĩ Kunz Cho ông Piquet biết ư định. Ông nầy trả lời:

- Tôi không thể giúp thêm ǵ v́ người duy nhất có thể làm việc nầy chính là bác sĩ. Tôi đề nghị bác sĩ hăy chủ tọa buổi hướng dẫn kỳ tới.

Hai tuần lễ sau, buổi cầu hồn lại được tổ chức. Lần nầy chính bác sĩ Kunz Hướng dẫn và cậu Jo trở về nhập xác đồng tử. Cô đồng cứ nấc lên như người bị sặc nước. Bác sĩ Kunz Lên tiếng:

- Hăy cố gắng lên Jo. Ba biết con bị sặc nước nhưng hiện nay con xác thân của con không c̣n nữa. Cái xác hiện con đang sử dụng chỉ là xác của một người khác cho con mượn. Cái xác nầy không hề hề hấn ǵ và con có thể nói năng dễ dàng. Quanh đây đều là những người thân yêu, ai cũng thương con và ai cũng muốn nghe con nói lên vài lời...

Tự nhiên đồng tử ngưng lại, cố gắng thốt lên một câu:

- Nhưng con không nói được.

Ông Kunz Vội lên tiếng:

- Con hăy can đảm lên, nói cho ba biết có vật ǵ đang ở trong cổ họng của con?

Cậu Jo cố gắng cử động cái lưỡi. Từ trước đến giờ cậu cứ ú ớ như không nói được, nhưng bây giờ th́ cậu cố gắng cử động lưỡi liên tiếp như muốn nhả một vật ǵ ra.

Ông Kunz Tiếp tục:

- Con thân yêu, hiện nay con không bị ngộp nước nữa đâu. Cái thể xác trước kia của con đă bị hư hại và được đem đi chôn cất rồi. Con hăy quan sát kỹ xem, bây giờ con không ở thẻ xác cũ nữa mà ở một thể mới, tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Con hăy thoát ra sự chi phối của thể xác cũ. Con hăy cầu nguyện, hăy quên đi tai nạn thương tâm vừa qua, cha mẹ và người quanh đây sẽ giúp con. Con hăy thở đều cho thoải mái. Con đă ra khỏi hồ nước, con thấy không? Chung quanh con toàn là ánh sáng đẹp đẽ, con thấy thân thể nhẹ nhàng không? Con hăy can đảm lên...

Cậu Jo vẫn khua tay múa chân như người đang bơi. Ông Kunz Nói tiếp:

- Con không c̣n ở dưới nước nữa mà đang ở trong trường đại học. Con hăy thở một hơi thật dài. Tất cả những thứ trong cổ họng con đă thoát ra ngoài cả rồi, cứ b́nh tĩnh thở đều, không có ǵ ngăn cản con hết...

Cậu Jo đưa tay sờ ngực và cố gắng nói nhưng vẫn chưa nói được, sau cùng cậu khóc tấm tức. Ông Kunz Tiếp tục:

- Con cứ khóc đi, không sao hết. Khóc cho trút hết nỗi đau khổ rồi con sẽ thấy thoải mái hơn.

Cậu Jo khóc một lúc rồi đưa tay ôm cổ. Ông Kunz Vội hướng dẫn:

- Nầy Jo, hiện nay con không c̣n ở dưới nước nữa. Con đang ngồi gần cha mẹ và con hăy b́nh tĩnh. Con đă được vướt lên khỏi hồ nước rồi...

Cậu Jo bật lên một câu:

- Cha mẹ ơi rong rêu bám đầy vào miệng con ghê gớm quá!

- Con cứ b́nh tĩnh, mọi việc đă qua rồi. Hiện nay con đang ở bên cha mẹ, không có ǵ có thể làm hại con nữa đâu.

Này Jo, ngày trước con hát hay lắm, con hăy hát một bài cho cha mẹ nghe đi.

Cậu Jo bật cười thành tiếng, hát một bản nhạc thịnh hành rồi thăng. Lúc đó ông Piquet mới lên tiếng giải thích:

- Cháu Jo từ trần quá sớm, cháu c̣n quyến luyến cha mẹ, tiếc cuộc đời c̣n đẹp nên không muốn từ bỏ cơi trần. Do đó cháu cứ bám víu vào thể xác nên thần trí bị u mê. Cái áp lực vật chất nầy rất kinh khủng cho những ai muốn bám víu vào cơi trần nên người chết cứ bị ám ảnh bởi hoàn cảnh khi chết. Dĩ nhiên họ rất đau khổ. Vấn đề là phải biết hướng dẫn cho cháu biết chấp nhận sự chết để được siêu thoát. Muốn như thế, cháu cần phải hiểu biết về đời sống ở cơi bên kia, loại bỏ những quyến luyến th́ mới có thể tiêu diêu tự tại được. Các ông bà nên biết có rất nhiều người chết vẫn ở trong trạng thái lúc chết từ năm nầy qua năm nọ mà không siêu thoát. Họ không sống ở cơi trần, không sống ơ cơi chết mà cứ ở giữa hai cơi. Chính cái hoàn cảnh không sống mà cũng không chết nầy làm họ u mê đau khổ. Muốn giúp họ chỉ có một cách duy nhất là cầu nguyện thật chân thành để sự thương yêu của quư vị tạo ra một mănh lực soi sáng tâm tư đang hồ đồ của người vừa mới chết. Các sự than khóc, kêu gọi ồn ào chỉ làm tâm tư người chết đă bối rối lại c̣n hoang mang thêm, không ích lợi ǵ hết. Do đó một đám tang phải được cử hành trong sự chân thành cùng cầu nguyện. Quư vị nên biết cơi giới bên kia cửa tử không phải là một cảnh thiên đ àng hay địa ngục như người ta thường diễn tả, mà là một cảnh giới rất sáng, một thứ ánh sáng tràn đầy yêu thương của đấng sáng tạo. Tại đây người ta có dịp hồi quang phản chiếu, ư thức thực của ḿnh để quyết định cho đời sống ở kiếp sau. Đời sống bên nầy rất yên lành, thoải mái v́ chỉ có các tư tưởng rung động thanh cao, không hề bị ô nhiễm bởi các dục vọng vật chất. Muốn thích hợp với đời sống, con người cần biết loại bỏ các ràng buộc vật chất như ḷng tham lam, ích kỷ. Chác Jo hiện nay vẫn c̣n bị ám ảnh nhiều bởi tâm trạng lúc chết nhưng tôi tin cháu sẽ hiểu biết và siêu thoát.

Sau buổi tiếp xúc, các bác sĩ trong hội đồng Y khoa đă họp nhau bàn thảo về trường hợp nầy. Đa số tỏ ra nghi ngờ v́ họ chưa thấy một bằng chứng rơ rệt nào rằng người nhập xác đồng chính là cậu Jo. Bác sĩ Kunz Cũng bối rối không biết có nên tiếp tục nữa không nhưng bà Kunz Th́ hoàn toàn tin tưởng, bà nói:

- Nghe tiếng nói tôi biết đó chính là Jo, không ai có lối nói như vậy ngoài Jo. Hơn nữa, bài hát đó vẫn là bài Jo thường hát, người ngoài không thể biết được. Các ông nghi ngờ ông Piquet đă đánh lừa chúng ta, nhưng ông ta làm thế để làm ǵ? Cho đến nay, ông Piquet chưa hề đ̣i hỏi hay lợi dụng chúng ta một điều ǵ.

Sau một hồi bàn tán sôi động nhưng không hề đi đến một kết luận nào, hội đồng bác sĩ quyết định cho tiếp tục buổi cầu hồn để thu thập thêm dữ kiện. Bác sĩ ben thông báo cho ông Piquet. Ông nầy yêu cầu mọi người hăy chân thành cầu nguyện cho Jo trong hai tuần lễ trước khi tiếp tục. Hai tuần sau, buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Geneve. Cũng như lần trước, bác sĩ Kunz Hướng dẫn và Jo trở lại, vẫn ú ớ không nói được và khua tay múa chân liên hồi. Ông Kunz Lên tiếng:

- Nầy, Jo con hăy ngồi yên đừng lắc lư nữa. Làm thế chỉ mệt thêm mà thôi. Con đă ra khỏi cái xác thân cũ, cái xác đó hư rồi không dùng được nữa, hiện nay con đă có một xác thân khác. Con hăy tĩnh táo và nghe lời cha mẹ nói đây. Chúng ta hăy cùng nhau cầu nguyện. Con c̣n nhớ những câu mà chúng ta thường cầu nguyện trước bữa ăn gia đ́nh không?
Trả lời với trích dẫn
  #4  
Cũ 28-10-11, 09:21 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Cậu Jo gật đầu là lên tiếng cầu nguyện cùng với mọi người nhưng sau đó cậu lại chỉ tay vào cổ như bị sặc nước. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:

- Hỡi Thượng Đế kính yêu, hỡi đấng Đại Từ Phụ toàn năng, chúng con xin quỳ mọp dưới chân ngài để xin ngài giúp cho cháu Jo thoát khỏi các áp lực vật chất. Chúng con xin thành tâm phụng sự ngài, xin ngài tha thứ cho chúng con những tội lỗi mà chúng con đă phạm, xin ngài chỉ bảo cho chúng con một con đường sáng. Nầy Jo, cậu hăy đọc cùng tôi lời cầu nguyện sau: Xin đức Cha tha thứ cho tội lỗi của chúng con, xin đức Cha chỉ bảo cho con một con đường sáng, xin đức Cha giúp con tiến đến gần ngài, con nguyện cương quyết rời bỏ thể xác vật chất nầy để tiến lên cơi sáng của đức Cha. Con nguyện sẽ phụng sự ngài và tiến lên đời sống tâm linh tốt đẹp, con quyết tiến lên cơi sáng...
Khi ông Piquet thốt lên lời cầu nguyện th́ cậu Jo lắng tai nghe một cách chăm chú, không c̣n ú ớ như trước rồi bỗng nhiên cậu cất tiếng đọc theo một cách chân thành. Khi vừa đọc đến câu cuối: "Con quyết tiến lên cơi sáng..." th́ cậu bất ngờ reo lên:

- Ô nh́n ḱa! Ánh sáng! Ánh sáng đẹp quá... Cha mẹ ơi, ánh sáng đẹp quá... Con đă ra khỏi đường hầm tối tăm rồi, trước mặt con toàn là ánh sáng...

Mọi người nín thở theo dơi. Bà Kunz Cảm động khóc thút thít. Cậu Jo reo lớn mừng rỡ:

- Cha mẹ ơi, ánh sáng ở đây đẹp tuyệt vời! Con thấy nhẹ nhơm làm sao... Con có thể bay bổng lên được. Thích quá! Thích quá! Phải rồi, con không c̣n ở dưới nữa mà đă bước vào cơi sáng... Ở đây ánh sáng đẹp tuyệt vời. Cha mẹ ơi, con sung sướng quá, con đă được giải thoát rồi...

Ông Kunz Mừng rỡ kêu lớn:

- Phải lấy Jo con ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi. Suốt mấy tháng nay con không thể nói được nhưng bây giờ con đă nói được rơ ràng rồi.

Ông Piquet ra hiệu cho mọi người cùng quỳ xuống chấp tay cầu nguyện:

- Hỡi đấng Đại Từ Phụ, chúng con cám ơn ngài đă giúp cho cháu Jo. Chúng con yếu đuối không thể làm ǵ hơn là xin quỳ mọp dưới chân ngài và xin ngài chăm nom cho phần hồn của cháu Jo. Chúng con tin tưởng nơi ḷng bác ái cao cả của ngài...

Cậu Jo nói lớn:

- Cha mẹ ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi, tại đây con rất thoải mái an lành, xin cha mẹ đừng lo lắng ǵ nhiều về con.

Nói xong, Jo cười một cách sung sướng rồi thăng.

Mặc dù buổi cầu có kết quả tốt đẹp nhưng đa số mọi người vẫn không tin tưởng cho lắm. Một số bác sĩ đă nghi ngờ rằng đó chỉ là một màn kịch được đạo diễn bởi ông Piquet mặc dù họ không biết ông nầy làm thế với mục đích ǵ. Cuộc bàn căi trở nên sôi nổi hơn khi bác sĩ Kunz Có ư nghiêng về phía ông Piquet và tỏ ư chê trách các bạn đồng nghiệp đă quá khắt khe với những dữ kiện thu thập được. Sau cùng mọi người đồng ư sẽ tổ chức buổi nói chuyện với Jo thêm một lần nữa. Hai tuần lễ sau Jo trở lại, lần nầy cậu tỉnh táo hơn và đă nói như sau:

- Cha mẹ ơi, khi xưa con chỉ biết nghĩ đến đời sống vật chất. Con nghĩ đến tương lai huy hoàng sau khi tốt nghiệp đại học. Con nghĩ đến những tiện nghi của đời sống như có một chiếc xe hơi, một căn nhà riêng, và một t́nh yêu thật đẹp. Chính v́ thế mà con không muốn rời bỏ trần nên cứ sống trong trạng thái bị ngộp nước suốt mấy tháng. Đó là do lỗi của con quá thiết tha với cái vỏ vật chất mà con không muốn từ bỏ. Bây giờ bước qua cơi sáng, con nh́n lại và thấy ḿnh quá ngu dại, lầm lẫn. Từ chỗ của con ở mà nh́n lại cơi trần, con thấy nó âm u, ảm đạm làm sao, khác hẳn với sự tươi sáng của cỏi nầy. Đời sống của con bây giờ đẹp lắm, đẹp không thể tả được. Phải chi khi vừa chết con biết được như vậy...

Bất chợt quay qua một bác sĩ ngồi gần đó:

- Cháu kính chào bá Morris. Cháu biết bác không tin tưởng ǵ ở những điều cháu nói. Cháu biết bác nghĩ cha cháu đă quá dễ dăi với những dữ kiện mơ hồ, không thể kiểm chứng nầy, nhưng bác ơi, cha cháu không lầm lẫn đâu. Làm sao cháu có thể nói cho bác biết được những điều cháu đă thấy hay đă kinh nghiệm được nơi cơi nầy cũng như những điều mà cháu đă thấy nơi cơi trần. Cháu không biết có nên nói tiếp nữa không...Thôi cháu cứ tŕnh bày và để bác tự quyết định.

Cháu biết bác là người rất quư trọng thời giờ. Bác tin rằng thời giờ là tiền bạc nhưng nầy bác Morris, ở cơi bên nầy tiền bạc không c̣n quư báu nữa và cũng không có một giá trị ǵ. Thay v́ lo kiếm tiền, bác nên dành thời giờ để lo cho Yvonne, con gái của bác th́ hơn. Yvonne rất thương bác nhưng hiện nay cô ta đang đau khổ v́ nghĩ rằng không ai hiểu được sự cô đơn của cô ấy. Nầy bác Morris, bác chỉ có một người con gái độc nhất mà bác rất yêu quư nhưng bác lại quá lo lắng về vật chất mà quên rằng con của bác đâu cần những thứ đó mà chỉ cần sự thông cảm của người cha dành cho người con mà thôi. Nầy bác Morris, Yvonne đâu cần những số tiền khổng lồ mà bác cất giữ trong ngân hàng, cô cũng đâu cần những trương mục đầu tư của bác dành riêng cho cô ấy. Điều cô ấy cần là sự cảm thông và hiểu biết của bác ḱa. Cách đây mấy hôm, Yvonne đến gặp bác trong pḥng làm việc để khoe bức tranh cô ấy vừa vẽ xong nhưng bác chẳng những không để ư, c̣n nghiêm giọng bảo cô ấy đi ra chỗ khác để bác làm việc. Bác c̣n nhẫn tâm nói rằng: Đừng làm phí phạm th́ giờ quư như vàng của bác. Bác có biết Yvonne đau khổ như thế nào không? Cô ấy đă xé nát bức tranh và c̣n có ư nghĩ điên rồ là nhảy từ trên lầu xuống đất. May thay sau một lúc khóc lóc, cô ấy nguôi ngoai nhiều nên đă bỏ cái ư định dại dột ấy đi. Cháu thiết nghĩ bác nên suy nghĩ lại. Điều Yvonne thèm khát nhất trong lúc nầy chỉ là một câu nói yêu thương chân thành và dịu dàng của bác, mà điều nầy đâu có khó phải không bác?

Bác sĩ Morris ngồi chết sững.

Mỗi câu nói của Jo là một mũi kim xuyên vào tim ông. Làm sao Jo biết được điều nầy? Những sự kiện riêng tư nầy làm sao một người ngoài có thể biết được, từ khi họ quan sát nó từ một cơi giới nào đó? Liệu ông có nên tin những câu nói mơ hồ phát ra từ miệng một đồng tử như vậy không? Là một khoa học gia, ông không thể chấp nhận những điều "phản khoa học" như thế nầy được, nhưng ông cũng không thể phủ nhận những dữ kiện có tính cách cá nhân mà ông không ngờ nhất. Mặt ông dúm dó lại như đau đớn lắm. Sau cùng ông run rẩy nói:

- Cám ơn... cám ơn Jo. Bác đâu ngờ sự t́nh lại xảy ra như vậy...

Cậu Jo quay qua một người khác:

- C̣n bác Franz Nữa. Có phải bác đang nghĩ rằng cơi giới bên kia cửa là một nơi náo xa lắm, xa như một tinh tú trên bầu trời mà người ta không thể đến được không?

Bác sĩ Franz Giật nẩy ḿnh, ấp úng:

- Phải... phải đấy... nhưng làm sao cậu lại biết?

Jo cười lớn:

- Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở cơi bên nầy người ta có thể đọc rơ tư tưởng của những người bên cơi trần một cách dễ dàng. Nầy bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cơi giới bên nầy rất gần với cơi trần và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên nầy. Để cháu lấy một thí dụ cho dễ hiểu: Khi bác mặc áo choàng là lúc bác ở cơi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra là bác đă qua cơi bên kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có khác ǵ đâu, vẫn y nguyên như trước đấy chứ. Bác không hề thay đổi ǵ, cũng như đi làm bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu th́nh ĺnh Chay bổng lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ. Nói một cách khác, khi từ trần người vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đă hư hại không cón sử dụng được nữa nhưng các giác quan mới lại bắt đầu làm việc. Sau một giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chỗ sáng, bị lóa mắt một lúc rồi mới có thể nh́n được mọi vật một cách rơ ràng th́ cũng như thế, nhờ các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể ư thức được cơi giới bên nầy một cách rơ rệt hơn. Điều đáng nói ở đây là sự quyến luyến với cơi vật chất, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại cứ nhắm mắt, không muốn nh́n ǵ nữa. Tuy họ không c̣n ở chỗ tối nữa nhưng họ cũng chưa thể thấy ǵ ở cơi sáng v́ nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê, đau khổ đ è nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng suốt, không ư thức và cũng hiểu biết ǵ. Ôi, cái tâm trạng sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, cứ vất vưởng trong trạng thái lúc từ trần, ở giữa hai cơi giới nầy thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được.

Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp:

- Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm về thế giới bên nầy. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn không chịu rời bỏ những ràng buộc vật chất. Số nầy rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang, đói khổ, không nơi nương tựa, không biết phải làm ǵ và cũng không chịu nghe ai. Phần con th́ rất thoải mái, muốn làm ǵ cũng được. Con có thể Chay lên Chay xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cơi sáng nầy hơn v́ mỗi lần đi trở lại cái đường hầm âm u tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn v́ thấy c̣n có những người cứ u mê, than khóc, buồn v́ cứ nghe những câu trách móc, than vang, những lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết. Mấy tháng trước con cũng như thế nhưng nhờ cha mẹ và mọi người cầu nguyện mà con tỉnh thức, thoát khỏi cái t́nh trạng kinh khủng kia. Bây giờ con đă hiểu rồi nên cố gắng giúp đỡ những người c̣n đang u mê để họ có thể tỉnh thức... Con làm việc ngày đêm không biết mệt và cũng không cần phải cung ứng nữa...

Bà Kunz Giật ḿnh kêu lớn:

- Sao, con không ăn uống ǵ ư:

Cậu Jo cười lớn:

- Ở bên nầy đâu ai cần phải ăn uống! Người ta sống bằng tâm thức chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa. Nầy mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khỏe của cha mẹ không c̣n như xưa, mẹ không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống. Phần con th́ không nghĩ ǵ đến việc ăn uống, thế mà sức khỏe của con lại hơn xưa v́ ở bên nầy thức ăn cần thiết là t́nh thương chứ không phải thứ ǵ khác. Cha mẹ ơi, lạ lùng lắm! Con nghiệm được rằng t́nh thương là sự cho ra chứ không phải nhận vào. Càng cho ra Chao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khỏe bấy nhiêu. Đó cũng là đặc điểm của cơi sáng bên nầy: Càng yêu thương Chao nhiêu, người ta càng nhẹ nhơm, sung sướng, thoải mái, b́nh an bấy nhiêu. Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những vong linh vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ: Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng đau khổ, oằn oại, thao thức như con đă trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ như thế cho đến lúc tỉnh thức. So sánh với hoàn cảnh của con th́ nhiều người c̣n khổ hơn nhiều, có người đă đau khổ như vậy đă mấy trăm năm rồi, không thể nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được. Chắc hẳn họ đă phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo chỗ con biết, họ là những người khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đă khô kiệt, chỉ c̣n những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải trong những nổi đau khổ cùng cực cho đến khi nào những động năng thù oán đó tiêu tan bớt đi. Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong ṿng mấy tháng thôi, v́ mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng ḿnh đă chết, cứ u mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống ở đâu cũng có cái hay, cái đẹp của nó. Nếu biết như vậy con đâu để ḿnh bị ngộp nước lâu đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đă nghiệm được, cha mẹ nên tŕnh bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đă trải qua.

- Nầy Jo, con có thể cho cha biết tai nạn đó xảy ra như thế nào không?

- Cha muốn con trở lại t́nh trạng khổ sở đó sao?

- Không phải vậy, nhưng bây giờ con đă siêu thoát rồi. Cha tưởng con có thể cho cha mẹ biết sự việc một cách rơ ràng và khách quan hơn.

- Cha mẹ biết rằng con rất thích bơi lội. Hôm đó sau khi thi xong, thấy làm bài trôi chảy, con bèn tự thưởng cho ḿnh bằng cách ra hồ vùng vẫy cho thoải mái. Con nhào lộn một hồi mà quên rằng ḿnh đă mệt v́ phải thức khuya học thi suốt mấy ngày liền. Con vừa bơi được một lúc th́ đuối sức nên bị ch́m xuống đáy hồ, mắc vào những cọng rong rêu. B́nh thường con có thể đạp chân để trồi lên được nhưng hôm đó mệt quá nên con hoảng hốt và bị sặc nước. Thật ra dù có trồi lên được th́ con cũng chết thôi v́ phận số đă đến lúc rồi. Việc ra đi cũng nhẹ nhàng chỉ như người ta lật một trang giấy thôi, nhưng con lại không muốn chết v́ con muốn bám víu vào cái thể xác vật chất. Con thấy ḿnh c̣n quá trẻ mà cuộc đời lại quá tươi đẹp nên không muốn chết, chỉ muốn trở lại với thể xác nên cứ mơ màng trong cái trạng bị sặc nước, cho đến khi được Ơn trên phù hộ giúp con tỉnh thức và hiểu biết. Trong lúc u mê, con không biết ǵ và cũng không hiểu ǵ cả nhưng con cảm nhận được tư tưởng yêu thương chân thành và nghe được những lời cầu nguyện của mọi người. Chính sự cầu nguyện đă giúp con tỉnh táo nhiều.
Bác sĩ Franz Lên tiếng:

- Nầy Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cơi giới bên đó không?

- Được chứ. Cơi bên nầy không phải là nơi mà người đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn hễ ai rơi vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là một cơi sáng rất linh hoạt. Có lẽ nó c̣n linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cơi trần, nhưng sự linh hoạt ở đây không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng, b́nh an, thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một t́nh yêu thương tuyệt đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết. Trong sự b́nh an nầy, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đă xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và học hỏi để chuẩn bị cho một đời sống mai sau.

- Cháu nói sau? C̣n có một đời sống nữa hay sao?

- Đúng thế. C̣n có nhiều cơi giới nữa chứ không phải chỉ có một cơi bên nầy mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu c̣n giới hạn nên cháu không biết rơ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ có lúc cháu sẽ trở lại cơi trần, dĩ nhiên dưới một h́nh thức nào đó. Theo sự biết của cháu th́ việc học hỏi ở bên nầy có tính cách lư thuyết c̣n phải mang ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. V́ người ta chỉ có thể kinh nghiệm được qua đời sống ở cơi trần mà thôi nên trước sau ǵ các vong linh cũng đều tái sinh trở lại.

Cậu Jo quay qua cha mẹ:

- Thưa cha mẹ, con đă nói tất những ǵ con biết về cơi giới bên nầy. Con xin cha mẹ cứ yên chí, đừng quá lo lắng ǵ nhiều cho con và cũng đừng gọi con trở lại nữa... sự liên lạc nầy không cần thiết, gây quyến luyến và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay rất bận rộn. Con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người đă cầu nguyện cho con, chính nhờ việc nầy mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân thành cho người chết có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức quan trọng mà mọi người cần nên biết. Khi từ giă cơi trần, người ta không thể mang theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà chỉ có thể mang được ḷng yêu thương và sự hiểu biết mà thôi. Chính ḷng yên thương là mănh lực duy nhất có thể vượt qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó măi măi, nó cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp người ta tiến hóa, phát triển ở cơi giới bên nầy. Người ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh nầy với hành trang quư báu và độc nhất là sự yêu thương mà thôi. Những điều con nói ra hôm nay cần được tŕnh bày cho mọi người biết rơ, đó cũng là lư do ông Piquet viết thư riêng cho cha để báo trước. Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều nầy không quan trọng, nhưng sự hiểu biết về cơi sáng và các áp lực vật chất sẽ là một hạt giống tốt gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phúc khổ sở lúc ĺa đời, người ta sẽ nhớ lại. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người luôn luôn được b́nh an, hạnh phúc.

Trường hợp của Jo Kunz Là một trong hàng trăm tài liệu đă ghi nhận và soạn thảo thành hồ sơ một cách chi tiết. Một số khoa học gia cho rằng đây là tài liệu rất quư giá về cơi giới bên kia cửa tử cần phải được nghiên cứu rộng răi hơn. Một số khác chưa chịu chấp nhận các hiện tượng nầy v́ tính cách "mơ hồ khó có thể phối kiểm qua các định luật khoa học thực nghiệm". Do đó các nhà khoa học vẫn c̣n bàn căi sôi nổi, chưa ai chịu nhường ai nhưng đó là việc của ho. C̣n về phần chúng ta? Phải chăng chúng ta vẫn chờ đợi cho đến khi những khoa học gia hay giới chức có thẩm quyền chấp nhận th́ mới chịu tin?
Trả lời với trích dẫn
  #5  
Cũ 28-10-11, 09:21 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Theo những tài liệu viết về cơi giới bên kia cửa tử như cuốn Tử thư Ai Cập và Tử thư Tây Tạng th́ những người chết trẻ, chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp lực rất nặng của vật chất nên khó siêu thoát. Người chết trẻ giống như quả non chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta có thể tách rời cái hột ra khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát ra khỏi áp lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khác của xác thịt. Các vong linh nầy không muốn ĺa bỏ cơi trần, không muốn rời bỏ thể xác đang tan ră, nên đau khổ rất nhiều. Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng khi có người sắp từ trần cần phải tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một thời gian. Mặc dù đây là việc nên làm, cần làm và thường được làm nhưng nếu chờ đợi đến khi chết rồi mới lo cầu nguyện th́ có lẽ đă quá trễ chăng? Cuốn Tử thư Tây Tạng khuyên người ta cần chuẩn bị càng sớm cáng tốt, nếu có những ham muốn vật chất th́ phải biết hạn chế lần hồi các dục vọng nầy bằng cách thay thế nó với những thú vui trí thức, nghệ thuật có tính cách hướng thượng. Chương thứ sáu của cuốn Tử thư đă ghi rơ: "Muốn được hữu dụng ở cơi trần và thoải mái ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết làm chủ các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh sự tha thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng v́ đó là những vật vô thường, nay c̣n mai mất. Khi nhắm mắt từ bỏ cơi trần, người ta không thể mang nó theo được mà c̣n bị nó tạo những áp lực khiến cho thần trí hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đọa lạc vào cảnh giới ngạ quỷ hay súc sanh".

Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về cơi giới bên kia cửa tử là một đề tài cần được nghiên cứu rộng răi để chuẩn bị cho mọi người v́ trước sau ai cũng qua bên đó. Tại sao trước khi đi du lịch một nơi nào, người ta đă thu xếp hành lư cẩn thận, nhưng lại cố t́nh phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi chốn mà trước sau ai cũng phải đến?

Theo tài liệu của viện nghiên cứu Gallup th́ với sự tiến bộ của nền y khoa hiện đại, một số người đă chết nhưng được hồi sinh (near death experience) mỗi ngày một nhiều. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cơ quan Gallup đă ghi nhận hơn 8 triệu trường hợp xảy ra. Cũng theo cơ quan nầy, đa số dân chúng Hoa Kỳ (68%) đều tin rằng "có một đời sống bên kia cửa tử". Kết quả cuộc nghiên cứu của viện Gallup cho thấy mặc dù kinh nghiệm cá nhân có phần khác nhau ít nhiều nhưng nói chung đa số đều cho biết họ thấy "nhẹ nhơm, thoải mái, không đau đớn ǵ khi ĺa bỏ thân xác". Phần lớn kể rằng họ đă thấy cái thể xác nằm bất động của ḿnh (out of body experience) và sau đó bị lôi cuốn đi trong một đường hầm đen tối sâu hun hút trước khi đến một biển sáng dịu dàng, thoải mái. Có người kể rằng họ gặp lại các thân nhân đă từ trần trước đó, có người kể rằng họ gặp những cá nhân mà toàn thân sáng chói như thiên thần, có người tin rằng họ đă gặp Thượng Đế hay gặp Chúa Jesus và được ngài chỉ dạy.

Một số khoa học gia đă phủ nhận sự kiện nầy và cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong lúc mê sảng. Họ cho rằng khi sắp chết, cơ thể của con người đă tiết ra những hóa chất đặc biệt, có công dụng gây ảo giác như một thứ ma tuư, mặc dù họ chưa chứng minh được những hóa chất nầy như thế nào. Một số người khác tin rằng lúc chết, cơ thể con người bị xáo trộn mạnh mẽ, bộ óc không c̣n kiểm soát được mọi sự nữa nên hệ thần kinh đă hoạt động rất b́nh thường. Giống như một b́nh điện bị chạm, xẹt lửa lung tung, bộ óc con người lúc tan ră cũng có những rối loạn khiến người ta có cảm tưởng như đang ở trong một thế giới với muôn ngàn tia sáng lắp lánh. Tuy nhiên họ không thể giải thích nếu bộ óc đă tan ră (xẹt lửa) như vậy th́ tại sao khi hồi sinh nó lại hoạt động b́nh thường như không hề có chuyện ǵ xảy ra. Các nhà tâm lư học cho rằng h́nh ảnh về thế giới bên kia chỉ là những sự tin tưởng tọn giáo, nằm sâu trong tiềm thức con người, khi đầu óc bị chấn động lúc chết nó đă phát động như một "phương tiện tự vệ" để giúp con người tránh sự xúc động. Tuy nhiên theo dữ kiện của viện nghiên cứu Gallup, th́ phần lớn số người hồi sinh nói về "đời sống ở cơi bên kia" không phải những người có nhiều đức tính về tôn giáo hay những người không đáng tin cậy. Một số lớn là những người có địa vị hay tŕnh độ học thức rất cao trong xă hội, một số khác là các trẻ em c̣n ngây thơ, chưa biết thêu dệt hay thêm thắt những điều bịa đặt.

Trong cuốn Learning from Children s Near Death Experiences, bác sĩ Melvin Morse viết: "Tôi tin rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới, có thể nối liền khoa học với tôn giáo. Hiểu biết được sự việc nầy, chúng ta có thể thay đổi quan niệm sống một cách toàn diện và nền y khoa cũng sẽ bước vào một giai đoạn khác hẳn khi xưa". Bác sĩ Morse đă ghi nhận hơn 1000 trường hợp trẻ em bị tai nạn, tưởng đă chết nhưng lại được hồi sinh. Các em nầy kể lại hoạt vẽ lên giấy những h́nh ảnh mà các em đă thấy, cũng như những người mà các em đă tiếp xúc ở cơi giới bên kia. Đa số các em đều nói về một nơi chốn rất sáng, có các thiên thần toàn thân sáng chói d́u dắt, an ủi và ôm các em vào ḷng. Nhiều em kể lại đă gặp thân nhân, họ hàng đă qua đời, hoặc bạn bè giúp đỡ trong lúc các em bị xúc động.

Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lănh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đă nh́n cái chết một cách sợ hăi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó v́ làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách b́nh thản, giản dị th́ họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn, lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ư nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính v́ có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng th́ cũng phải có sự hủy diệt, đâu có ǵ tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ư nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đă đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện nầy chứ không thể chấp nhận những lư thuyết mơ hồ nào đó được". Zz Phần lớn các tài liệu nói về người chết hồi sinh chỉ ngưng lại ở một cảnh giới có ánh sáng chói lọi, ít khi đi xa hơn nhưng đă có những tài liệu khác của những người đă chết t́m cách liên lạc với cơi trần, kể rơ về cảnh giới bên kia cửa tử. Chúng tôi trích lại một tài liệu từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ư đến những điều mà những nhà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết v́ thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đă hư hoại th́ trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đă nói: "Nếu đă chết làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cơi giới nào ngoài đời sống nầy nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều ǵ th́ cha sẽ t́m đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông v́ bận việc nên cũng không để ư ǵ buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đă viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến v́ tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn kêu các em lại dự buổi cơ bút nầy, một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút ch́ và chỉ một lát sau cây bút đă tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài ḷng đă gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ư trong đợi để kể cho các con nghe về những điều ở cơi bên nầy mà cha đă chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đă biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết ǵ nữa. Một lúc sau cha thấy ḿnh đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rơ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha lại thấy trong ḿnh dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị g̣ bó, ràng buộc như trước. Các con biết lúc đó cha đang bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy ḿnh có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn ǵ. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó th́ bất chợt cha nh́n thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rơ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một h́nh thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đ́nh đang xúc động và không thể hiểu sao cha cứ thấy trong ḿnh buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ư thức rằng ḿnh đă chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy ḿnh b́nh tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm ch́m trong những lời cầu nguyện nầy thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rơ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rơ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ư thức tường tận các hành vi của ḿnh, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đă làm cũng như các điều xầu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đă làm và hối tiếc về những điều mà lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rơ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong t́nh trạng vật vờ, nữa ngủ nữa thức nầy một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy th́ thấy ḿnh vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như bầu ánh sáng lần trước. Cha thấy ḿnh có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ v́ không c̣n xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ th́ cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người nầy có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biềt tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cơi bên nầy. Sở dĩ cha không tiếp xúc được với một số người v́ họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học nầy làm cha tạm hài ḷng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cơi bên nầy tầng số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước th́ ở cơi bên nầy, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể t́m đến các cảnh giới khác nhau. Sự kiện nầy làm cha vô cùng cảm thấy vô cùng thích thú v́ như vậy quả có một cơi giới bên kia cửa tử và cơi nầy lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa. Zz Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đ àng địa ngục nhưng hiện nay cha cảm thấy quan niệm nầy có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động nầy như thế nào? Tại sao cha lại có tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo t́nh cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau, người có t́nh thương cao cả khác với những người tính t́nh nhỏ mọn, ích kỷ hay nhữnng người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt cậu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, th́ người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cơi bên nầy cả. Điều nầy làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tác chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên nầy ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm ǵ với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người nầy bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xa xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước đến nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà ḿnh vẫn hănh diện thật ra chẳng đáng kể ǵ só với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người ta nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ư thức về tần số rung động của ḿnh.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi c̣n sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đay cũng không khác cơi trần bao nhiêu, cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn, có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc, có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật nầy dường như luôn luôn thay đổi nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Thay v́ xây cất nhà cửa bằng chất liệu vật chất như gạch đá th́ họ lại tạo ra những thứ nầy bằng tư tưởng. Điều nầy có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cơi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc ḿnh, nhưngn ở cơi trần, sức mạnh tư tưởng nầy rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc rồi thôi. Ở bên nầy v́ có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những h́nh ảnh nầy có thể được thự hiện một cách rơ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên nầy suốt ngày rong chơi, tạo ra các h́nh ảnh theo ư muốn của họ, mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh, v́ mọi tư tưởng bên nầy đều tạo ra các h́nh ảnh nên đây là môi trướng rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ư thức rơ rệt hơn về tư tưởng của ḿnh. V́ đời sống bên nầy không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời gian theo đuổi những công hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, kẻ theo đuổi các ngành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương, thơ phú.v.v.. Tóm lại, đây là môi trường để học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một pḥng th́ nghiệm khoa học để sau nầy có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có ǵ đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy ǵ làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng ǵ thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" th́ đời sau lại bị coi là "cổ hủ lỗi thời" và như cha đă biết th́ những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đ ào thải. Tuy nhiên cái t́nh thương, cái ư tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật th́ bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những ǵ có thể tổn tại được với thời gian mà không thay đổi th́ mới đáng gọi là chân lư. Cha mong các con hăy suy gẫm về vấn đề nầy, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay v́ theo đuổi những giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ư nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta nhu một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cơi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ư thức ǵ đến nó nên nó khép kín lại, nhưng khi bước qua cơi bên nầy th́ nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bầy rơ rệt trước mắt. Nhờ thế mà cha biết rơ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong ḿnh. Cuốn sổ lưu trữ nầy là bằng chứng cụ thể của những đời sống đă qua và chíng nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với nhựng cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cơi giới bên nầy. Do đó, muốn được thoải mái ở cơi bên nầy, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hăy bắt tay vào việc nầy ngay. Các con hăy ráng làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc ǵ, các con hăy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hăy tập quên ḿnh. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi c̣n sống, đă có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng ḿnh đă lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có t́nh thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo ḿnh qua cơi giới bên nầy một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. T́nh thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mănh lựv bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ ḷng thương nầy mà người ta có thể t́m gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đă trở nên mềm yếu chăng? Nầy các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên nầy, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của ḿnh, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thang cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lư trật tự và điều ḥa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của ḿnh mà ra cả và chính ḿnh phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của ḿnh hay lựa chọn những nơi mà ḿnh sẽ đến.

Khi c̣n sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết ḿnh đă lầm. Cha không phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ c̣n tiếp tục măi măi. Hiển nhiên cá nhân của cha không phải là cái thể xác đă bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động nầy, dó đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đă hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một gịng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi nầy qua nơi khác, từ h́nh thức nầy qua h́nh thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau, và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ư thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp th́ đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nh́n lại toàn vẹn tiến tŕnh của sự sống th́ kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhân thức về bản chất thật sự của ḿnh vốn là nước chứ không phải là sóng th́ các con sẽ ư thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có quan niệm rơ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái ǵ ghê gớm như người ta thường sợ hăi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung v́ nếu khi c̣n sống các con đă đem hết khả năng và phương tiện của ḿnh để giúp đời, để yêu thương mọi loài th́ lúc lâm chung, các con chẳng có ǵ phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, ba muốn nói thêm rằng hiện nay ba đang sống một cách thoải mái, vui vẻ va an lạc chứ không hề khổ sở.
Trả lời với trích dẫn
  #6  
Cũ 28-10-11, 09:25 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Chương 5


Tử Thư Tây Tạng

Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên bác Bardo Thodol Chenmo là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử.

Ngay từ khi được giáo sư W. Y. Evens Wentz Phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924, nó đă gây ra nhiều cuộc bàn căi sôi nổi. Danh từ "Tử Thư" (Book of the Dead) thực ra dịch không được đúng v́ giáo sư Evans Wentz Đă căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead). Danh từ "Tử Thư" khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng như người chết.

Người Ai Cập chủ trương sống và chết là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi. Tử Thư Ai Cập, nguyên tác Her Em Hru có thể dịch sát nghĩa là "Nghệ thuật bước vào một đời sống mới kể từ lúc nầy", trong đó các danh sư Ai Cập đă giải thích những quy tắc để người sống cho ra sống và chết cgo ra chết, với đúng ư nghĩa của nó. Người Ai Cập tin rằng vũ trụ có nhiều cơi giới mà cơi trần chỉ là một mà thôi. Nếu biết nghệ thuật sống và chết, người ta có thể di chuyển luân hồi từ cơi nầy qua cơi khác như người đi du lịch. Có lẽ đó là lư do mà nhiều nhà nghiên cứu đă coi Tử Thử Ai Cập như tấm bản đồ chỉ dẫn về các cơi giới bên kia cửa tử. Tuy nhiên các danh sư Ai Cập không hề quan tâm đến việc giải thoát ra khỏi ṿng luân hồi nầy. Trong khi đó, người Tây Tạng ngoài việc nghiên cứu các cơi giới, lại đặc biệt chú trọng đến việc giải thoát ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi nữa. Đó là căn bản khác biệt rơ rệt nhất giữa hai cuốn sách nói trên và đống thời cũng làm nổi bật nét độc đáo của cuốn Tử Thư Tây Tạng.

Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách nầy, chúng ta hăy t́m hiểu danh sưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là "Sự giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo". Nhiều người đă dịch danh từ Bardo là cơi chết, cơi Trung giới, hay cảnh giới của Thân Trung Ấm, nhưng thật ra nó c̣n có một ư nghĩa rộng hơn là "sự chuyển tiếp" (transition). Danh từ "chuyển tiếp" hàm ư một giai đoạn ở giữa sự di chuyển từ giai đoạn nầy qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái nầy qua một trạng thái khác. Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lư mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đă gây nhiều cuộc bàn căi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng chuyên tham cứu về pháp môn nầy. Trong loạt bài khảo luận ngắn nầy, người viết không có ư mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn tŕnh bày một vài khía cạnh đặc biệt của cuốn sách dưới cái nh́n của của khoa học và Phật học.

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng dẫn người ta sắp ĺa đời hoặc người đă chết v́ nội dung cuốn sách đề cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay v́ Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: "Đạo Phật là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết". Ngài đă giảng: "Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ư chính như sau: Người nào biết sống một cách tỉnh thức th́ sẽ chết tỉnh thức, và một khi đă tỉnh thức th́ họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người v́ bị vô minh che phủ nên không biết cách sống cho đúng với ư nghĩa của sự sống, thường thường nếu không hoài niệm về quá khứ th́ họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn luôn lo lắng để sống chứ không hề ư thức rơ rệt sự sống. V́ sống một cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết th́ họ cũng không thể làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi". Lời giải thích nầy là một ch́a khóa quan trọng đă rọi một tia sáng cho những người muốn t́m hiểu cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách t́m đến những cơi giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh.

Theo cuốn Tử Thư, ṿng luân hồi có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị th́ đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cơi sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba là lúc sống trong Cơi sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh ra.

Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào ṿng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. V́ một biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm ǵ. Ngay trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác nầy chỉ tồn tại rất ngắn v́ hiển nhiên bộ óc lư luận của anh sẽ làm việc ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay tuyệt vọng. Chính v́ thói quen lư luận nầy mà anh bị lôi kéo vào một mê hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không c̣n tự chủ được nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu, trước khi lư trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động nầy. Cũng giống như giây phút "hốt nhiên chứng ngộ" của các vị thiên sư, đó là một khoảng trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lư luận lôi kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra. Giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử, thoát ṿng kiềm tỏa của nghiệp lực.

Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và ư. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đă tạo biết bao nhiêu nghiệp lành cũng như dữ, dưới h́nh thức của chủng tử nầy sẽ phát động. Nghiệp có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu, tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả nầy phát động ngay (Cận tử nghiệp) nên thay v́ được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. V́ không ai biết nghiệp quả nào sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đă ghi rơ: "Tâm trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến", do đó cuốn sách nầy đă dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới bên kia.

Sogyan Rinpoche, một danh sư Tây Tạng chuyên nghiên cứu về các cảnh giới bên kia cửa tử đă viết: "Không ǵ làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ của người Âu Mỹ đối với sự chết. H́nh như người ta coi đó là một sự kiện bất b́nh thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy h́nh như đa số mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, rất íy ai được chết yên ổn tại nhà. Đă thế họ qua đời không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối về chứng ung thư. Cả gia đ́nh tề tựu an ủi và khuyên bà ta hăy cố gắng chống trả căn bệnh ngặt nghèo đó. Người chồng nói: Đừng tuyệt vọng. Đừng buôn xuôi tay. Hăy tiếp tục phấn đấu . Các con bà cũng khuyên: Hăy vui vẻ, lạc quan . Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đ àn bà đă mệt lắm rồi, mạch bà đập yếu ớt. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong ṿng vài giờ nữa thôi. Cả gia đ́nh bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hăi lúc lâm chung đó là một ḿnh, không ai giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một ḿnh. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế, làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cơi giới bên kia được? Tại sao một quốc gia đă phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những ṿng hoa khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng h́nh như không ai có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người đến chia buồn nên đă quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm xuống chứ đâu phải là những người c̣n sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ v́ việc không chấp nhận sự chết, sợ hăi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đă hành động như vậy chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến b́nh thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới bên kia cửa tử th́ có thể họ đă hành động khác".

Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đă viết: "Một bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: Ngày đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một ḿnh với nỗi lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như không muốn rời: Nầy bác sĩ, liệu Thượng Đế có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đă làm nhiều điều tội lỗi, liệu tôi có xuống địa ngục không? Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lăo ra nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lăo ra. Chúng tôi quyết định đưa ông lăo vào một căn pḥng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh. Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến. Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng lúc đó có quá nhiều người chết, vị nầy bận rộn không thể đến được. Ông lăo nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ tuổi đặt câu hỏi: Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm ǵ đây?" Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: "Điều đáng nói là đa số chúng ta, những người chuyên môn trong lănh vực y khoa, không hề có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đă trở nên mất nhạy cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đă chứng kiến quá nhiều cảnh tượng nầy nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải chăng sau khi đă làm tṛn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh nhân nhưng biết không thể làm ǵ hơn, chúng ta đă bó tay, mặc cho số mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?"

Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư Tây Tạng, điều quư báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần là làm sao để họ không sợ hăi (vô uư thí). Trước khi có thể giúp cho người khác không sợ hăi th́ chính người cho phải b́nh tỉnh, thoải mái và không sợ hăi đă. Điều nầy không đ̣i hỏi người cho phải làm những điều ǵ khác thường nhưng ít ra người đó phải có một ḷng yêu thươnng chân thành và sự hiểu biết sáng suốt. V́ người sắp chết thường lo lắng, hốt hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can. Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần b́nh tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, ḷng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Đây là lúc các chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ c̣n bùng lên một lúc trước khi tắt ngún..." Các danh sư Tây Tạng khuyên: "Hăy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hăy mở rộng tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng v́ không ǵ tai hại hơn sự phán đoán trong lúc nầy. Hăy đem hết t́nh thương truyền trao cho họ, khuyến khích họ giăi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói đó. Đôi khi v́ những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hăy tự chủ và biết rằng một người đang mất b́nh tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả bất ngờ, không ư thức rơ rệt v́ về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng trách. Nhiều người v́ quá thương xót đă lên tiếng khuyên giải nhưng sự kiện nầy có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng, chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quư giá nhất, v́ hơn bao giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ rằng ḿnh có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều ǵ tốt hơn mà hăy giữ yên lặng v́ chúng ta không biết rơ được tâm thức của người sắp chết khi đó ra sao". Để giữ b́nh tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây Tạng đă chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: "Hăy giữ vững hơi thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một người đang cần giúp đỡ mà hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. V́ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống thương yêu nơi ḿnh, b́nh tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một cách hữu hiệu hơn".

Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp qua đời, nhưng nếu đă thành công trên phương diện nầy, người ta có thể đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác, xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa". Khi người sắp chết thố lộ tâm sự, đừng chú ư tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đă làm mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hănh diện, thích thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hăi, lo sợ, hối hận hay tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô t́nh đề cập đến một điều ǵ tốt đẹp mà họ đă làm. Hăy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài nầy để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hăi, để họ thấy rằng cuộc đời của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng. Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ư hơn điều bất như ư th́ các chủng tử xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử thiện và điều nầy có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ.

Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă dạy: "Thật không có ǵ tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu hỏi: Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không? th́ các bạn phải biết trả lời: Thượng Đế chính là t́nh thương. Trong t́nh thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của ngài th́ lẽ nào ngài lại có thể không tha thứ cho con của ngài được? Hiển nhiên không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu đem đức tin đến cho người sắp chết th́ họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ Rubler Ross khuyên: "Chúng ta cần thận trọng trong việc nầy. Nếu người đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, c̣n nếu không, đừng nên quan trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đă có ác cảm với một tôn giáo nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều nầy có thể mang lại những hậu quả tai hại bất ngờ".

Phần lớn mọi người đều sợ chết v́ không ai biết chết sẽ đưa họ đến đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con, thân quyến, và ngay cả chính ḿnh nữa là một điều hết sức ghê gớm không mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hăi về một nơi gọi là "địa ngục" nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp nhận nó dễ dàng.
Trả lời với trích dẫn
  #7  
Cũ 28-10-11, 09:26 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă phân tích tâm trạng con người khi phải giáp mặt với sự kiện nầy qua năm trạng thái tâm lư như sau: Phủ nhận, giận dữ, lư luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết ḿnh bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lư tự nhiên của con người là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đă từ chối không chịu uống thuốc hay chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa ḿnh rằng họ không làm sao hết, họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi t́m một bác sĩ nào đó có thể nói khác hơn. Giai đoạn nầy thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc chữa trị. Nhiều người đă không vượt qua được trạng thái nầy và đến khi chết vẫn tin rằng ḿnh không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ nhận nầy th́ đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, t́m cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn c̣n chỉ trích, trách móc người khác. Vượt được giai đoạn nầy, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái tâm lư phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một "phép lạ" xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hăo huyền nầy. Đây là lúc các bệnh nhân đi t́m những phương pháp chữa bệnh khác với lối chữa trị thông thường, đi t́m an ủi qua những điều huyền hoặc hay có những lập luận rất lạ lùng về t́nh trạng của họ. Nếu qua được giai đoạn nầy, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn chán, không biết làm ǵ nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ư là động ḷng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rơ người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lư nào, người ta có thể giải thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận sự chết một cách dễ dàng hơn.

Bác sĩ Ross kết luận: "Người sắp chết không ao ước ǵ hơn là sự cảm thông và ḷng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hăy tự nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là đủ".

Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và ngược lại, bất cứ một biến cố ǵ xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động, phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn th́ hậu quả thật không biết đâu mà lường.

Cuốn Tử Thư ghi rơ: "Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến". Đó là một lư do người Tây Tạng chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, v́ thiếu hiểu biết, đă hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối cùng để kéo dài thêm sự sống thay v́ chấp nhận rằng đă đến lúc phải để người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận: "Người ta đă lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ư thức, dường như việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y sĩ quan niệm rằng c̣n nước c̣n tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho tâm lư người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ khắp ḿnh, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay b́nh tĩnh mà ra đi cho được". Linh mục Thomas Merton cũng cảnh cáo: "Phần lớc các quốc gia tân tiến đă bỏ nhiều tiền bạc và công sức để t́m các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ, vài ngày nhưng không hề chú ư đến việc giáo dục con người về ư nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết, điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?" Sự tiến bộ của khoa học đă tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc nầy ra để cho người chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn căi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn, chúng ta hăy theo dơi diễn tiến của sự chết.

Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đă trả xong, các nhân duyên đă hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và tâm, hay làm các điều ác th́ có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạnh tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật th́ đời sống ḿnh bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác th́ đời sống có thể tăng thêm.

Hiển nhiên đă sinh ra th́ ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh ra hay lúc chết đi phản ảnh rơ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đă viết: "Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh th́ phong tục Tây Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu kư, giống cha hay giống mẹ và ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ tiên của ḿnh đă chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể v́ giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị dặn ḍ con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi sự ham muốn nầy đă tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạc ma nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được giờ chết. Ông công bố tin nầy cho học tṛ và chuẩn bị một cái chết rất thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn ḍ và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị nầy ngồi bằng nhập thiền, học tṛ quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông nầy bèn gọi học tṛ mang cơm ra cho thầy ăn. Học tṛ thất vọng rủ nhau bỏ đi hết v́ nghĩ rằng vị thầy thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đă biến thành một vở bi hài kịch".

Đối với các vị công phu tu hành th́ thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez Đă viết về cái chết của một Ḥa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa kỳ vào năm 1891 như sau: "Ḥa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng ngài khó qua khỏi đêm đó th́ ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc ngài ra đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đă đến lúc ngặt nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Ḥa thượng vẫn lạc quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng ngài luôn luôn có lư. Cứ thế từ ngày nầy qua ngày nọ, mặc dù bệnh t́nh không thuyên giảm nhưng Ḥa thượng cho biết chưa đến lúc ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh nầy gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng ngài nhất định không chịu. Một hôm ngài cho biết đă đến lúc ra đi và yêu cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để ngài cám ơn họ. Nh́n ngài vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút sau ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi ngài qua đời, ngực ngài vẫn ấm và thân thể của ngài không có một dấu vết hư hoại ǵ. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích".

Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất và giai đoạn tan ră của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa. Khi các yếu tố nầy tan ră th́ con người không thể sống được. Nhờ biết quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng không c̣n hiểu được ư nghĩa câu nói đó v́ thính giác đă ngưng hoạt động. Họ không thể nh́n rơ các h́nh ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt không c̣n rơ rệt v́ thị giác đă bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế, các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan ra, các bắp thịt trở nên ră rời, không thể chống đỡ được toàn thân, người hấp hối có cảm tưởng như ḿnh đang bị một ngọn núi đ è nặng lên toàn thân. Khi yếu tố Đất tan ră xong th́ yếu tố nước khởi sự tan ra, các chất lỏng trong cơ thể không c̣n vận hành b́nh thường được nữa, nước mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan ră, người chết tự nhiên thấy khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không c̣n tỉnh táo nữa. Khi yếu tố lữa tan ră hết th́ yếu tố Gió bắt đầu tan ră, hơi thở người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, không c̣n biết ǵ nữa. Đối với y khoa Tây phương th́ tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đă chết, nhưng theo cuốn Tử Thư th́ giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất nầy mới chỉ là bắt đầu v́ giai đoạn thứ hai, sự tan ră của các yếu tố tinh thần có hoàn tất th́ người đó mới có thể coi là thực sự đă chết.

V́ yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân nên khi yếu tố nầy tan ră, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức bên trong và sự tan ră của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đă chết, thân thể đă lạnh nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn c̣n hơi nóng. Các yếu tố thuộc về lư trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố thuộc về t́nh cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi hai yếu tố nầy gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngă bắt đầu tan ră, khởi đầu bằng sự tan ră của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và khi ba yếu tố nầy ngưng hoạt động th́ thần thức của con người trở nên minh mẫn hơn, họ sẽ ư thức mọi sự một cách rơ rệt v́ nói theo cuốn Tử Thư "khi các yếu tố thuộc về bản ngă tan ră, khi không c̣n bị mây mù của vô minh chi phối nữa th́ chân tâm bắt đầu hiển hiện". Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng v́ ư thức được chân tâm hay Phật tánh chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người không tập luyện, không ư thức th́ giai đoạn nầy chỉ là một tia chớp lóe sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa th́ đây là cơ hội quư báu nhất v́ họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng thái nầy để giải thoát. Đó cũng là lư do đa số các danh sư Tây Tạng đều nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rơ diễn tiến của sự chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đă có sẵn một tấm bản đồ trong tay, họ biết cách tập trung ư chí vào các câu thần chú, các biểu tượng Mandala, các h́nh ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan ră, họ chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một h́nh ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ư thức được từng giây, từng phút của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngă tan hết, chân tâm tỏ rạng th́ họ có thể tập trung mọi năng lực để ḥa nhập vào cái trạng thái uyên nguyên bất động nầy.

Điều nầy thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà v́ một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn th́ họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ.

Cuốn Tử Thư đă nói rất rơ về giai đoạn nầy như sau: "Chân như bản thể của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm bắt đầu sáng tỏ". Danh từ "Sáng tỏ" (The dawn of luminosity) đă bị nhiều người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa th́ khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rơ ràng, không c̣n một chút tăm tối nào. Danh từ "Sáng tỏ" ở đây chỉ có ư nghĩa trừu tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam Trungpa không đồng ư v́ giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà c̣n phải ḥa nhập và sống trọn vẹn trong đó nữa. Ông viết: "Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đă chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đă thấy được chân tâm bao nhiêu lần, nhưng đă mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát nầy? Giáo pháp của đức Thế Tôn đă được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đă mấy người biết áp dụng nó để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng v́ không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm ǵ hơn là tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi".

Dù có ư thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh nghiệm được trạng thái nầy trong ṿng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú măi măi th́ họ hoàn toàn giải thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quư báu, sau đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người b́nh thường, khi yếu tố tinh thần tan ră hết th́ họ sẽ tiếp đi trong một thời gian dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong Cơi sáng (the luminous Bardo of Dharmata).
Trả lời với trích dẫn
Trả lời

Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 09:32 PM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.