|
|
Thông Báo |
#1
|
||||
|
||||
Ảnh Hưởng Của Thơ Đường Đối Với Thơ Mới (trong thơ Việt)
Ảnh Hưởng Của Thơ Đường Đối Với Thơ Mới (trong thơ Việt) Nguyễn Xuân Diện - Trần Văn Toàn 1. Ảnh hưởng của Đường Thi đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đă được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù dành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng cuả thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đă trân trọng và có một hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các ḍng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh - Hoài Chân nói tới ḍng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, ḍng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới ḍng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường Thi. Tiếp sau Thi nhân Việt Nam, những tác động của thơ Đường đối với Thơ Mới cũng là đối tượng được nghiên cứu trong một loạt những chuyên luận, những bài viết của Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đ́nh Sử, Phương Lựu… Nhiều cứ liệu cũng như những vấn đề lư luận đă được bổ sung và tổng kết. Xung quanh vấn đề này, ư kiến của các nhà nghiên cứu là khá thống nhất. Ai cũng nhận thấy chất liệu Đường Thi đă khảm sâu và trở thành một bộ phận hữu cơ trong chỉnh thể của thế giới nghệ thuật Thơ Mới. Tuy vậy, một sự khảo cứu toàn diện và công phu về ảnh hưởng của thơ Đường đối với Thơ Mới nh́n chung vẫn là một việc trong tương lai. Bản tham luận của của chúng tôi, do thế, là một cố gắng nhằm thu hẹp dần cái khoảng cách cần được vượt qua này. 2. Trong bài này, để mô tả ảnh hưởng của Đường Thi đối với Thơ Mới chúng tôi dựa vào bố cục của một bài thơ bao gồm các phần nhan đề, đề từ, tên tác giả, khổ thơ, câu thơ (cú pháp, từ ngữ, h́nh ảnh). Trên cơ sở khảo sát các tác phẩm trong: Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân), Mấy vần thơ (Thế Lữ), Tuyển tập Xuân Diệu - Tập 1, Tuyển tập Huy Cận, Tuyển tập Lưu Trọng Lư, Tuyển tập Nguyễn Bính, Mùa cổ điển (Quách Tấn), Điêu tàn (Chế Lan Viên),Tác phẩm chọn lọc (Hồ Dzếnh), Thơ say (Vũ Hoàng Chương), Thơ văn Hàn Mặc Tử. Chúng tôi tiến hành phân loại và bước đầu đưa ra một số kết luận về mức độ, phạm vi cũng như cơ chế ảnh hưởng của Đường Thi vào Thơ Mới(1). Kết quả khảo sát cụ thể như sau: 2.1. Có những trường hợp nhan đề bài thơ hoàn toàn trùng khớp với nhan đề một bài thơ khá nổi tiếng trong Đường Thi (Trường tương tưcủa Hàn Mặc Tử và Trường tương tư của Bạch Cư Dị); hai bài Đá vọng phu và Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn dường như chỉ là dịch từ Hán sang Việt hai bài thơ Vọng phu thạch của Vương Kiến vàÔ dạ đề của Lư Bạch). Các bài thơ sau cũng của Quách Tấn trong Mùa cổ điển: Cảm thu, Về thăm nhà cảm tác, Một đêm mưa mùa thu, Đêm thu, Đêm xuân đều là những thi đề rất quen thuộc trong Đương Thi. Tổng cộng là tám trường hợp. Ngoài ra trong bài Tư hương của Hồ Dzếnh có lời đề từ "Phương thảo thê thê Anh Vũ châu” rút từ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. BàiTrông chồng của Thái Can đề từ bằng cả bài Khuê oán của Vương Xương Linh. Phan Thanh Phước với lời đề từ cho bài Đêm Tần của ḿnh là "tặng Vương Xương Linh”. Độc đáo nhất là Huy Nhiệm thường kư tên là Đỗ Phủ, Thiếu Lăng. Nhan đề, lời đề từ của một bài thơ thường ngưng kết trong nó cảm hứng, chủ đề của toàn bài. Tuy nhiên, không phải tất cả trong số những tác phẩm đă kể trên đều có sự gặp gỡ về nguồn mạch cảm hứng với những tác phẩm Đường Thi trong quá khứ (Bài Trường tương tư của Hàn Mặc Tử là một ví dụ tiêu biểu). Dầu thế, với những trùng hợp của những lời đề từ, cách lấy bút danh... như trên cho thấy các nhà Thơ Mới khi cầm bút vẫn thấy ḿnh gắn bó với hồn Đường, với những h́nh bóng của các tác giả Đường Thi. Họ cảm thấy đồng điệu, cảm thấy có thể tṛ chuyện với những tứ thơ, những gương mặt của thế giới Đường Thi. Tâm thế sáng tác này của các nhà Thơ Mới gợi nhớ đến tâm thế của Nguyễn Khuyến trong Thu vịnh: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Nếu cần phải dè dặt th́ vẫn có thể nhận thấy: một sự gắn bó trực tiếp như trên của các nhà Thơ Mới với quá khứ Đường Thi là một hiện tượng rất khó bắt gặp ở các nhà thơ từ sau 1945 trở đi. Phải chăng, ở đây tâm thế sáng tác của các nhà Thơ Mới (nếu không phải là tất cả th́ chí ít cũng là một bộ phận) vẫn chưa hoàn toàn thuộc về phạm trù hiện đại? 2.2. Đơn vị trên câu cơ bản của Đường thi là liên- "hai ḍng thơ số lẻ và số chẵn đi liền nhau”(2). Do chỗ: "Trong mỗi liên giữa câu thơ số lẻ và số chẵn có quan hệ với nhau về nhiều mặt. Ngay cả ở những liên không phải đối về mặt ư nghĩa và cú pháp th́ ít nhất cũng phải có sự đối thanh và những quan hệ khác về mặt ư nghĩa và cú pháp”(3), cho nên liên là một kết cấu chặt với những ràng buộc, qui tắc ngặt nghèo. Sự thâm nhập trọn vẹn của một liên vào trong Thơ Mới là rất hăn hữu. Chúng tôi chỉ t́m thấy bóng dáng của ảnh hưởng này qua 3 trường hợp. Trong đó, hợp thức hơn cả là hai câu trong bài Mai rụngcủa J.Leiba: "Tơi bời ong bướm bay qua ngơ, Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài”. Có thể xem đây là hai câu thơ trực dịch khá sát với hai câu thơ của Vương Giá trong bài Xuân t́nh: "Phong điệp phân phân quá tường khứ Khước nghi xuân sắc tại lân gia”. Hai trường hợp khác, một của Quách Tấn, một của Vân Đài đều ít nhiều có sự biến đổi của ư và lời. Chúng tôi sẽ thử lư giải hiện tượng này (dựa trên sự phối kết hợp với một số hiện tượng khác) trong phần tŕnh bày những ảnh hưởng của Đường Thi và Thơ Mới ở cấp độ câu thơ. 2.3 a. Nổi lên vị trí hàng đầu ở cấp độ câu thơ là vấn đề cú pháp. Đặc điểm cú pháp nổi bật của thơ Đường, như nhiều nhà nghiên cứu đă chỉ ra, là phép tỉnh lược (tỉnh lược chủ từ, giới từ, động từ, các từ so sánh...). Đặc điểm này khiến cho các cụm từ trong câu thơ có quan hệ lỏng lẻo về mặt ngữ pháp, và do thế, chúng có thể kếp hợp với nhau theo nhiều cách. Tùy theo mỗi cách kết hợp mà có thể có một cách cắt nghĩa cho lời thơ- đây chính là một nguyên nhân quan trọng đem lại tính đa nghĩa cho câu thơ. Khi phân tích câu thơ: Cô chu nhất hệ cố viên tâm trong Thu hứng (bài 1) của Đỗ Phủ, N. Kôn-rat đưa ra các cách hiểu khác nhau: - Thứ nhất: "nhà thơ buộc chặt con thuyền và chuẩn bị: có thể biết đâu lại không có khả năng lên đường (t́m về cố viên). Ông làm như thế bởi v́ trong tâm khảm ông luôn luôn nghĩ về cố hương)”. - Thứ hai: "với h́nh tượng con thuyền buộc chặt nhà thơ muốn nói: dầu thân ông bị trói buộc ở nơi đây nhưng tâm hồn ông th́ đă đi xa (t́m về nơi cố hương)”. - Thứ ba: "con thuyền của nhà thơ buộc chặt vào bờ, trái tim luôn hướng về cố viên của ông cũng bị buộc chặt như thế”(4), Theo N. Kôn-rat: "C̣n có nhiều cách giải thích khác". Nguyên nhân của t́nh trạng này là do "không t́m được liên hệ trong kết cấu ngữ pháp của câu thơ”(5). Giữa 2 cụm từ "cô chu nhất hệ” và "cố viên tâm” không có một yếu tố ngữ pháp nào giữ vai tṛ kết dính. Đối với những câu thơ như thế nào, việc chuyển dịch sang một ngôn ngữ khác sẽ có rất nhiều điều bất cập. Qua khảo sát chúng tôi t́m thấy cách tổ chức cú pháp trên của Đường Thi xuất hiện ở Quách Tấn 9 lần, Vũ Hoàng Chương 9 lần, Huy Cận 5 lần. Ngoài ra, ở các nhà thơ khác hiện tượng này xuất hiện với tần số rất thấp. Một hồn thơ có nhiều duyên nợ với Đường Thi như Hàn Mặc Tử cũng chỉ thấp thoáng với những câu thơ như: Mở cửa nh́n trăng, trăng tái mặt Khép pḥng đốt nến, nến rơi châu. hoặc: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn. Hai trường hợp này đều đă được Thụy Khê nêu ra và cắt nghĩa trong bài viết của ḿnh(6). Chúng tôi dựa vào cuốn Thơ văn Hàn Mặc Tử(7) để khảo sát nhưng chưa t́m thấy thêm một trường hợp nào có đặc điểm tương tự. Xét từ phía tâm lư đón nhận của người đọc đối với Thơ Mới, hiện tượng câu thơ mang cấu trúc cú pháp Đường Thi dường như khá lạ lẫm. Ở hai câu thơ sau trong Tống biệt hành của Thâm Tâm: "Bóng chiều không thắm không vàng vọt, Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Phép tỉnh lược đă gây nên độ "nḥe” trong việc xác định chủ thể cùa hiện tượng "hoàng hôn trong mắt trong” và lập tức đă gây nên những tranh căi, những cách hiểu rất khác nhau. Nhân đây chúng tôi cũng xin lưu ư hiện tượng tỉnh lược trong thơ Nguyễn Bính, ở những câu thơ như: "Mười năm gối hận bên giường, Mười năm nước mắt bữa thường thay canh; Mười năm đưa đám một ḿnh, Đào sâu chôn chặt mối t́nh đầu tiên; Mười năm ḷng lạnh như tiền, Tim đi hết máu cái duyên không về”. th́ mặc dù có sự tỉnh lược chủ từ, nhưng sự tỉnh lược này không gây nên sự đục mờ về cấu trúc ngữ pháp, nó không đem lại khả năng kết hợp rộng răi của các yếu tố trong câu thơ. Theo chúng tôi, sự tỉnh lược trong câu thơ Nguyễn Bính có nguồn gốc từ ca dao, theo kiểu:"Chiều chiều ra đứng ngơ sau,/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”,chứ không phải là sự tỉnh lược trong thơ Đường. b. Ở cấp độ câu thơ, dấu vết của Đường Thi để lại đậm nét hơn cả là hệ thống từ ngữ h́nh ảnh. Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi t́m thấy 95 trường hợp. Con số cụ thể ở những tác giả chính là như sau: Hà Mặc Tử 5 lần, Thế Lữ 6 lần, Lưu Trọng Lư 5 lần, Quách Tấn 21 lần, Xuân Diệu 6 lần, Vũ Hoàng Chương 17 lần, Nguyễn Bính 5 lần, J.Leiba 5 lần, Thái Can 4 lần. Xung quanh vấn đề này có thể bước đầu nêu ra một số những kết luận sau: Thứ nhất: Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh - Hoài Chân nói đến ba ḍng chính của Thơ Mới (mặc dù vẫn thừa nhận có thẩm thấu, qua lại ở ba ḍng thơ này), đó là: ḍng chịu ảnh hưởng phương Tây, ḍng chịu ảnh hưởng thơ Đường, ḍng mang tính cách Việt. Tuy nhiên, nh́n vào số liệu thống kê trên th́ có thể thấy: quả thật, ở những tác giả tiêu biểu cho ḍng thơ Đường như Quách Tấn, chất liệu Đường thi có đậm hơn, nhưng ở những nhà thơ khác ảnh hưởng này vẫn phát huy tác dụng và mức độ ảnh hưởng khá đồng đều. Trong một chừng mực nào đó, có thể xem biểu hiện trên như một mẫu số chung cho các nhà Thơ Mới. Thứ hai: Các h́nh ảnh và ngôn từ Đường Thi đột nhập một cách rộng răi vào tất cả mọi thể loại của Thơ Mới. Từ những câu thơ luật Đường của Quách Tấn: "Gầy úa rừng sương đẹo giọt sầu”. (Cảm thu). đến những câu thơ theo thể 7 chữ theo lối mới : "Có cô dâu mới nh́n sông nước, Sực nhớ quê nhà giọt lệ tuôn”. (Điệu huyền - Lưu Trọng Lư). Những câu thơ theo thể 8 chữ: "Chim so bay, cây cũng chắp liền cành”. (Mưa xưa - Xuân Diệu) Những câu thơ theo thể song thất lục bát truyền thống: "Chừ đây đêm hăy đầy sương, Con thuyền c̣n buộc trăng suông lạnh lùng. Phút giây ấy ta ḿnh ngây ngất, Bỗng con thuyền buộc chặt rời cây”. (Giang hồ - Lưu Trọng Lư). Thể 5 chữ: "Từ ấy anh ra đi, Em gầy hơn vóc liễu, Em buồn như đám mây, Những đêm vầng trăng thiếu”. (Nhớ nhung - Hàn Mặc Tử). Mặt khác, những h́nh ảnh, từ ngữ của Đường Thi xuất hiện trong Thơ Mới nói chung là khá thân thuộc với người Việt. Trong quá tŕnh thống kê chúng tôi không gặp phải khó khăn đáng kể trong việc truy t́m nguồn gốc của những từ ngữ h́nh ảnh này. Những h́nh ảnh "ngọn nến”, "con thuyền buộc chặt”, "sầu lau lách”... đều đă từ lâu được nhập vào kho thi liệu dân tộc. Điều đó chứng tỏ những chất liệu Đường Thi đă bám rễ rất sâu trong văn học Việt. Thứ ba: Các ngôn từ và h́nh ảnh Đường Thi tồn tại và hành chức trong thư như những điển tích, điển cố tức là có giá trị khiến cho lời thơ trở nên hàm súc mới, "ư tại ngôn ngoại”. Điều này thể hiện rơ nhất ở trường hợp chất liệu Đường Thi là những địa danh (hiện tượng này xuất hiện 13 lần trên tổng số 95) với những câu thơ sau của Vũ Hoàng Chương: "Ḷng ngát tràng giang, mộng bể hồ, Sầu ai chuông lẻn giấc Cô Tô”. (Hờn thặng phấn). "Niềm giang hồ tan tác lệ Dương Châu”.(Dâng t́nh). Hoặc Quách Tấn: "Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng” (Đêm thu nghe quạ kêu). Nếu không hiểu các địa danh trên được rút từ Phong Kiều dạ bạc(Trương Kế) và Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị)... th́ sẽ rất khó lĩnh hội được sự hàm súc của lời thơ. Trong các trường hợp khác, khi không phải là các địa danh, do sự vận dụng quá nhuần nhuyễn h́nh ảnh ngôn từ Đường Thi nên tính chất điển tích, điển cố của chúng có phần mờ nhạt hơn. Vẫn có thể cảm nhận được cái bâng khuâng, lưu luyến của cảnh tiễn biệt trongTống biệt hành mà không cần biết đến những "hoàng hôn”, "bến sông” tràn ngập trong Đường thi. Tuy nhiên, chỉ khi người đọc đặt các h́nh ảnh trên vào trong mạch của những Dịch Thủy tống biệt (Lạc Tân Vương), Thu giang tống biệt (Bạch Cư Dị), Tống khách quy Ngô(Lư Bạch) th́ mới thật sự cảm nhận hết cái dồn nén, chất chứa của t́nh người trong những câu hỏi tu từ hàm ư khẳng định: - Sao có tiếng sóng ở trong ḷng? - Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? Cũng như thấy, câu thơ của Vân Đài: "Gió xuân đâu biết cho ḷng thiếp Ôm ấp bên ḿnh thiếp măi chi?” sẽ khó mà có được ấn tượng sâu đậm nếu như cơn gió ấy không làm ta nhớ tới ngọn gió xuân đă từng thổi trong thơ Lư Bạch: "Xuân phong bất tương thức, Hà sự nhập la vi”. (Xuân tứ). Chính nhờ vào sự liên tưởng được gợi, nên qua h́nh tượng "gió xuân” mà "chút hương sắc dục” trong lời thơ Vân Đài, đă được Hoài Thanh - Hoài Chân rất tinh tế nhận ra. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn mà chúng tôi muốn tŕnh bày ở đây là tồn tại và hành chức như những điển tích, điển cố, điều đó cũng có nghĩa các h́nh ảnh và ngôn ngữ Đường Thi đă tham gia vào Thơ Mới theo trục lựa chọn chứ không phải trục kết hợp. Theo chúng tôi, ở chừng mực nào đó, giá trị của trục lựa chọn ở Thơ Mới chưa được đánh giá đúng mức. Đúng là trong Thơ Mới, tính chất "hướng ngoại”(8) và câu thơ điệu nói của lời thơ là rất đậm nét. Nó làm xuất hiện giữa các ḍng thơ những từ nối, làm xuất hiện h́nh thức câu thơ vắt ḍng (trong Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh và Hoài Chân gọi là "Lối dùng chữ rớt” làm xuất hiện những "cơn mưa ngôn từ, h́nh ảnh” (Đỗ Đức Hiểu)..., tác động trực tiếp vào cảm nhận của người đọc, gây nên sức mê hoặc dẫn dụ của lời thơ. Những ḍng thác ngôn từ và tính h́nh tượng (hiểu theo nghĩa đối lập với ư tưởng) vẫn có điểm dừng, chính lúc đó trục lựa chọn sẽ phát huy tác dụng đem lại cho lời thơ sự lắng đọng, sâu lắng cần thiết. Trục lựa chọn này trong Thơ Mới, một phần lớn được xây dựng từ những chất liệu của Đường Thi. Sẽ không thấy ngạc nhiên khi bắt gặp hiện tượng: sau một loạt những câu thơ điệu nói, được tổ chức theo nguyên tắc hướng ngoại tạo h́nh: "Chớ để riêng em gặp phải ḷng em Tay ái ân du khách đă làm rèm Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt vơng Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành V́ ḿnh em không được quấn chân anh, Tóc không phải những dây t́nh vướng víu Em sợ lắm! Giá băng tràn mọi nẻo Trời đầy, trăng lạnh lẽo suốt xương da”. (Lời kỹ nữ) Xuân Diệu đă t́m về với trục lựa chọn để khép lại trường đoạn thơ này: "Người giai nhân: Bến đợi dưới cây già, T́nh du khách: Thuyền qua không buộc chặt”. Tóm lại theo chúng tôi nên hiểu trục lựa chọn (với sự xuất hiện của các chất liệu Đường Thi) ở đây như một sự đối lập nội tại với câu thơ điệu nói mang tính tạo h́nh trong Thơ Mới. Điều này khiến cho khả năng phô diễn t́nh cảm của Thơ Mới giàu có hơn các sắc điệu và khả năng biểu hiện. Mặt khác, trong Ngôn ngữ thơ, Nguyễn Phan Cảnh xếp điển tích, điển cố vào nhóm các phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ bao gồm: so sánh, tỷ dụ, phúng dụ, ẩn dụ, điển tích(9)... Sự xuất hiện của chất liệu Đường Thi với dạng thức của những điển cố cho thấy tư duy của các nhà Thơ Mới rất quen thuộc với phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ. Phải chăng điều này đă tạo thuận lợi cho biện pháp ẩn dụ tượng trưng, ẩn dụ bổ sung (c̣n gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) vốn đậm đà màu sắc phương Tây đă được nhập nội và được Việt hóa một cách nhanh chóng? Hiểu như thế cách sử dụng chất liệu theo phương thức ẩn dụ của Đường Thi dường như đă trở thành cơ chế để chuyển tải những ảnh hưởng của thơ Pháp vào Việt Nam . Trong bài tổng luận Một thời đại trong thi ca chính Hoài Thanh - Hoài Chân cũng đă hơn một lần nói tới quan hệ giữa thơ Đường và thơ Tượng trưng Pháp, đặc biệt là thơ Tượng trưng của Baudelaire. Theo hai ông, điểm tương đồng giữa thơ tượng trưng Pháp và thơ Đường là ở chỗ: "Hai lối thơ đều ghét lư luận, ghét kể chuyện, ghét tả chân”. Thứ tư: Sự ảnh hưởng của liên thơ, của cấu trúc ngữ pháp trong Đường Thi như đă phân tích ở trên mờ nhạt hơn rất nhiều so với những h́nh ảnh của hệ thống từ ngữ, h́nh ảnh. Điều này cho thấy Đường Thi ảnh hưởng vào Thơ Mới không nguyên khối. Trong quá tŕnh tiếp xúc với Thơ Mới, những liên kết bên trong, đặc trưng cho tư duy Đường Thi đă bị tháo dỡ, gạt bỏ. Những từ ngữ, h́nh ảnh, do thế, chỉ c̣n những mảnh vỡ bị hút vào một từ trường, một quỹ đạo mới. Kết luận này, đến lượt nó, giúp ta có thể nói đến lần tiếp biến (auculturation) thứ hai của Đường Thi trong văn học Việt Nam . Ở lần tiếp biến thứ nhất, Đường Thi thâm nhập vào văn học Việt trên cơ sở "đồng văn” ("văn” ở đây được hiểu như là văn tự, vừa như những giá trị đóng vai tṛ là hệ qui chiếu bên trong). Trong lần tiếp biến này "ta” và "kẻ khác” là một và do thế trên những nét lớn, chưa tạo được thế đối thoại chủ khách để h́nh thành nên những kết tinh nghệ thuật mới. Những nỗ lực tiếp nhận văn hóa, văn học Trung Hoa, (trong đó có Đường Thi) đúng như GS. Trần Đ́nh Hượu nhận xét: Không nhằm giúp ta khác, mà chỉ nhằm sánh ngang, "theo kịp” với Trung Hoa(10). Sự tiếp biến của Thơ Mới với Đường Thi có khác. Ảnh hưởng của văn hóa thi ca phương Tây đă khiến cho cái tôi trữ t́nh trong Thơ Mới thuộc về một h́nh khác hẳn cái tôi trữ t́nh trong Đường thi. Những chất liệu Đường Thi trong Thơ Mới một mặt vẫn gắn bó với nguồn gốc của ḿnh; mặt khác khi được cơ cấu, được cấy vào một chỉnh thể nghệ thuật mới mà chúng được hấp thụ, bổ sung thêm những âm giọng mới. Trong lần tiếp biến này, ngôn từ, h́nh ảnh Đường Thi đă trở nên đa âm hhơn. Không hiếm lần các nhà Thơ Mới sử dụng chất liệu Đường Thi trong thế đối thoại ngầm ẩn: "Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong ḷng Bóng chiều không thắm không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”. (Tống biệt hành - Thâm Tâm) "Ḷng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. (Tràng giang - Huy Cận). Ở những câu thơ vừa trích dẫn, các h́nh ảnh bến sông, hoàng hôn... chẳng những có khả năng gây nên những liên tưởng phong phú mà trong chúng, dường như cùng lúc âm vang nhiều giọng điệu, nhiều âm sắc. So với lần tiếp biến thứ nhất, ở lần thứ hai này, những chất liệu Đường Thi đă rời xa hơn cội nguồn ban đầu của nó; bù lại, chúng lại được tiếp thêm một sinh lực mà một năng lượng biểu đạt nghệ thuật mới. Trên đây là những t́m hiểu của chúng tôi về ảnh hưởng của Đường Thi vào Thơ Mới. Trong bài viết này chúng tôi mới chỉ dừng lại miêu tả ở cấp độ h́nh thức với những biểu hiện có thể quan sát được. Hy vọng rằng chúng tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này trên những b́nh diện khác. ____________ CHÚ THÍCH (1) Phạm vi khảo sát của chúng tôi chủ yếu mới dừng lại ở lớp h́nh thức bề mặt của tác phẩm; rất nhiều những b́nh diện khác như: bút pháp, cấu tứ, hệ thống quan niệm nghệ thuật... c̣n chưa đề cập tới. (2)(3) Nguyễn Khắc Phi và Trần Đ́nh Sử: Về thi pháp thơ Đường. Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr.53. (4)(5) N.Kôn-rat: Phương Đông và phương Tây. Trịnh Bá Đĩnh dịch. Nxb. Giáo dục, H. 1997, tr.109. Những chữ trong 2 ngoặc đơn là do chúng tôi thêm vào để rơ nghĩa hơn. (6) Thụy Khê: Cấu thúc thơ. Nxb. Văn nghệ. California . Mỹ, 1996, tr.112 và 115. (7) Thơ văn Hàn Mặc Tử. Phan Cự Đệ biên soạn. Nxb. Giáo dục. H. 1993. (8) Chúng tôi sử dụng thuật ngữ này theo nội hàm nghĩa của GS. Trần Đ́nh Sử, đă giới thuyết: Hướng ngoại ở đây được hiểu "như một nguyên tắc xây dựng h́nh tượng thơ”, nó "xác định một quan hệ trực tiếp giữa nhân vật trữ t́nh và thế giới xung quanh nó như một quan hệ cảm nhận trực tiếp, cho phép phản ánh thế giới cảm tính của con người một cách cụ thể, sắc bén chưa từng có” (Tạp chí Văn học số 6-1993, tr.14). (9) Nguyễn Phan Cảnh: Ngôn ngữ thơ. Nxb. ĐH và THCN, H. 1997. (10) Trần Đ́nh Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb. Văn hóa thông tin, H. 1995, tr.425. Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 3 (36) năm 1998, trang 46-53 NGUYỄN XUÂN DIỆN - TRẦN VĂN TOÀN
|
The Following 5 Users Say Thank You to Hansy For This Useful Post: | ||
CM4Q (14-01-12),
hoatigon208410 (14-01-12),
Lan Hương (14-01-12),
Nhím con (15-01-12),
pumanew (14-01-12)
|
|
|