NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Văn Học > Truyện Sưu Tầm > Truyện Ngắn
Nạp lại trang này Vang bóng một thời - Nguyễn Tuân

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng ký nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "Tình yêu 2020""
Lời cảm ơn và hình ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 03-12-11, 01:56 AM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Arrow Vang bóng một thời - Nguyễn Tuân

VANG BÓNG MỘT THỜI
Tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân


Trọng Đạt


Vang Bóng Một Thời viết năm 1940 đã được dư luận chung coi như một trong những tác phẩm hay và nổi tiếng nhất của nền văn chương Việt Nam, cũng là một trong những tác phẩm được nhắc tới nhiều nhất, được coi như ngang hàng với Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, Đôi Bạn của Nhất Linh, truyện đã được tác giả Nhà Văn Hiện Đại ca ngợi như sau.


Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ. Đó là tập Vang Bóng Một Thời (Tân Dân – Hà Nội 1940).


Tập truyện đã làm sống lại cả một thời phong kiến đã qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống, sinh hoạt xã hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó cũng là niềm nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trước những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kỳ của một thời đại đã qua, cái thời ấy nay đã chết rồi, chỉ còn để lại một tiếng vang:


. . . . Vang Bóng Một Thời. .


Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại Hà Nội trong một gia đình nho giáo, con cụ Tú Hải Vân , thời còn trẻ ông đã theo gia đình sinh sống tại nhiều tỉnh miền Trung . Năm 1929 tham gia bãi khóa bị đuổi học, trốn sang Băng Cốc bị bắt giải về nước và bị bỏ tù, năm 1937 sống bằng nghề viết, năm 1938 sang Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, năm 1945 theo Việt Minh , mất năm 1987 tại Hà Nội.


Cũng như nghìn, vạn người yêu nước khác ông đã tham gia kháng chiến chống Pháp, theo Hoàng Văn Chí trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (De la colonisation au communisme), kháng chiến khởi đầu bằng phong trào yêu nước và kết thúc bằng Cộng Sản, những nhà ái quốc như Nguyễn Tuân đã lỡ theo nên phải theo luôn , ngẫu nhiên rơi vào thế cưỡi cọp, đã leo lên rồi không thể nhẩy xuống được nữa.


Các tác phẩm chính của ông viết trước ngày theo kháng chiến Việt Minh gồm: Ngọn Đèn Dầu Lạc viết 1939, Quê Hương 1940, Tàn Đèn Dầu Lạc 1941, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua 1941, Tùy Búy Một, Tùy Bút Hai 1943, Nguyễn 1945, Chùa Đàn 1946.


Vang Bóng Một Thời do Tân Dân Hà Nội xuất bản 1940, được coi như tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân, được Thạch Lam khen hay trên báo Ngày Nay và nổi tiếng ngay. Tác giả của nó là con người giang hồ ăn chơi phóng đãng, ông đã diễn tả cuộc đời ăn chơi phóng túng và trụy lạc trong Quê Hương, Một Chuyến Đi, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Ngọn Đèn Dầu Lạc. Nhưng ông lại tỏ ra hoài niệm dĩ vãng, tiếc nhớ những nét huy hoàng của một nền văn minh tinh thần, đó lại chính là bề mặt trái của con người trên. Ông Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3 có nói.


Những hàng trên viết ngay từ 1938 (trên Tiểu thuyết thứ bẩy) có thể coi là nguồn gốc tậm lý và cảm hứng của Vang Bóng Một Thời về sau. Yêu quá khứ đi tìm trong quá khứ những hình ảnh nên thơ nên mộng.


Nguyễn Tuân là một nhà văn không thuộc về trường phái nào, văn đoàn nào, ông tự đứng riêng ra một phái cả về văn chương tư tưởng, Vũ Ngọc Phan xếp ông vào loại nhà văn chuyên về tùy bút. Tùy bút được định nghĩa là để tùy ý cho ngọn bút diễn tả một cách rộng rãi tự do tâm tư của tác giả.


Ông Phạm Thế Ngũ định nghĩa như sau.


Duy có điều là ký sự của ông không phải như ở giai đoạn Nam Phong. . . . . mà là đại biểu cho một giai đoạn già dặn . . . . . để tự do, tùy bút, muốn viết gì thì viết, ghi chép gì cũng được. Những truyện của Nguyễn Tuân hơn cả với Thạch Lam chẳng có gì làm truyện cả; nghĩa là những yếu tố thông lệ gọi là động tác, là thắt là cởi. Chỉ là những mảnh đời hé lộ của cuộc sống xưa, hay là những kể lể dông dài về một cuộc gặp gỡ, những tâm sự lê thê, những cảm tưởng vụn vặt của chính mình.


Nhà phê bình văn học trong nước Nguyễn Mạnh Đăng định nghĩa như sau.


Tùy bút là gì? Định nghĩa vừa dễ lại vừa khó. Dễ vì khái niệm bản thân nó đã tự giải thích,: là phóng bút, tùy bút mà viết chứ sao. . . có thể hiểu một cách đại khái thế này: người viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy tưởng của mình một cách thoải mái phóng túng.


Nguyễn Tuân với Vang Bóng Một Thời và Thạch Lam với Hà Nội Băm Sáu Phố Phường được coi là hai người đầu tiên xây dựng thể tùy bút, tại miền Nam Việt nam từ sau 1954 đến 1975, các nhà văn tên tuổi nhiều người đã viết tùy bút, nay tại Hải ngoại, thể văn này lại rất thịnh hành được nhiều người ưa chuộng. Vang Bóng Một Thời được coi như cuốn tùy bút đầu tiên của Việt Nam, mặc dù ngoài trang đầu đề là truyện nhưng trên thực tế người ta vẫn coi đây chỉ là tập tùy bút vì truyện đa số không có kết thúc hoặc gỡ nút đúng theo tinh thần của một truyện, tác phẩm được in ra nhằm vào lúc có cơn gió phục hưng nên đã được độc giả hoan nghênh nồng nhiệt, từ 1940 đến 1945 đã được tái bản ba lần, được tặng giải thưởng Gia Long. Nay trong nước Vang Bóng Một Thời vẫn là một tác phẩm được độc giả vô cùng hâm mộ: năm 1988 nhà xuất bản Văn Học đã tái bản lần thứ sáu với 30.000 cuốn bản giấy đẹp, bìa cứng.


Toàn bộ tác phẩm gồm mười một truyện hay bài được xếp theo thứ tự như sau: Chém Treo Ngành, Những Chiếc Ấm Đất, Thả Thơ, Đánh Thơ, Ngôi Mả Cũ, Hương Cuội, Chữ Người Tử Tù, Ném Bút Chì, Chén Trà Trong Sương Sớm, Một Cảnh Thu Muộn, Báo Oán. Tác phẩm gồm hai loại đề tài chính: tàn bạo, phũ phàng rùng rợn và thanh tao nhẹ nhàng thi vị. Tôi xin đề cập theo thứ tự hai thể loại ấy như sau: Bữa Rượu Máu, Ném Bút Chì, Chữ Người Tử Tù, Báo Oán, Hương Cuội, Chén Trà Trong Sương Sớm, Những Chiếc Ấm Đất, Một Cảnh Thu Muộn, Ngôi Mả Cũ, Thả Thơ, Đánh Thơ .


BỮA RƯỢU MÁU


Đây là bài đầu tiên của tác phẩm, Nguyễn Tuân ngụ ý cho là hay nhất nhưng lạ thay nó lại ít được các nhà phê bình như Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ . . . ca ngợi. Trong cuốn Nguyễn Tuân, Về Tác Giả Và Tác Phẩm, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội năm 2001, dầy 600 trang khổ lớn, gồm trên 100 bài nói về Nguyễn Tuân, Bữa Rượu Máu cũng không được các nhà phê bình trong nước chú ý bằng các truyện khác.


Đây là một đề tài tàn bạo, phũ phàng, rùng rợn hoàn toàn trái ngược với tinh thần nhẹ nhàng thanh tao của các nghệ thuật cầm, kỳ, thi, tửu vì nó là một nghệ thuật giết người, chém người ngọt như chuối vậy. Nguyễn Tuân ẩn núp dưới chiêu bài làm sống lại một nghệ thuật cổ để phơi bầy tội ác ghê tởm, rùng rợn của thực dân Pháp và bọn tay sai bán nước vời loài người.


Bát Lê là một tay đao phủ có tiếng, chuyên xử dụng thanh quất, loại kiếm hai lưỡi nay đã về già, mỗi lần có án trảm, ông chỉ ra pháp trường cho có mặt, việc đã có người khác đỡ tay. Nhưng nay quan lớn Đổng lý Quân vụ gọi vào cho biết có mười hai tên tử tù sắp phải bị hành hình, quan công sứ (thực dân) muốn được thị kiến. Bát Lê có tài chém đầu rất ngọt, chỉ một nhát lướt qua là đứt cổ nhưng vẫn còn dính một làn da.


Thế là Bát Lê được phép vào vườn chuối để tập luyện cho thuận tay. Đến ngày hành hình, Bát Lê hoa thanh quất, mười hai cái đầu của tội nhân bị chẻ gục xuống, không một giọt máu vấy vào áo hắn, Bát Lê được quan công sứ thưởng mấy cọc bạc đồng bà lão.


So với toàn bộ Vang Bóng Một Thời, Chém Treo Nghành đã được Nguyễn Tuân diễn tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ, trong sáng và trang trọng; từ tả cảnh cho đến lối hành văn đều đã được chăm sóc tận tình. Ngay khi mở đầu tác giả đã tạo cho bài một không khí rùng rợn, quái đản qua tiếng hát tẩy oan của tên đao phủ, ngụ ý hắn vô tội.



Trời nổi cơn lốc
Cảnh càng u sầu
Tiếng loa vừa dậy
Hồi chuông mớm mau
Ta hoa thanh quất
Cỏ xanh đổi màu
Sống không thù nhau
Chết không oán nhau
Thừa chịu lệnh cả
Dám nghĩ thế nào
Người ngồi cho vững
Cho ngọt nhát dao
Hỡi hồn!
Hỡi quỉ không đầu



Ngay khi Bát Lê còn tập luyện tại vườn chuối, sự diễn tả đã đủ thể hiện sự phũ phàng tàn bạo của tội ác:


Bát Lê lại tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu dẫy bên trái, Bát Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân hình người quì, chịu tội. Thế rồi vừa hát vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê đã hát hết mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối.


Để tăng phần hồi hộp, rùng rợn Nguyễn Tuân đã tả cảnh rất trịnh trọng, cảnh tĩnh cũng như hoạt cảnh.


Trước nhà rạp người ta đã chôn sẵn mười hai cái cọc tre bị vồ gỗ đập mạnh xuống toét cả đầu. . . . . . . .


. . . . Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thì sáng hơn nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái lạ. Những bức tranh mây chó mầu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt.


Mọi người chờ đợi một cái gì.



Tác giả đã vô cùng khéo léo tả chân kỹ kưỡng sự chuẩn bị cho cuộc hành quyết để che mắt bọn kiểm duyệt, bọn thám tử thực dân, ông đã thành công trong sự tố cáo tội ác man rợ của bọn chúng như sau:


Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu, quì gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân lúc quì phải để được gót chân đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như thế tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi đao thả mạnh xuống cái cổ căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người họ.


Những người bị hành hình là dư đang của giặc Bãi sậy, những nhà ái quốc sa cơ thất thế, bằng nghệ thuật tả chân đường gươm tuyệt diệu của tên đao phủ, Nguyễn Tuân đã thành công trong sự tố cáo hành động bạo ngược của bọn sát nhân, chúng đã nhẫn tâm lấy việc giết người làm trò chơi tiêu khiển.


Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Rứt mỗi hồi chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li!



Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái âm lơ lờ rờn rợn, quan công sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quì kia chẻ gục đến đấy, những tia máu phun kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống.



Nguyễn Tuân và Thạch Lam những nhà văn Việt Nam đầu tiên xử dụng lối mô tả tàn bạo y như Sholokhov trong tác phẩm vĩ đại Sông Don Thanh Bình (The Quiet Don) với những đường gươm bửa đôi đầu địch thủ, bằng những nét chấm phá tuyệt diệu tác giả đã tô điểm thêm bản cáo trạng tội ác của bọn sát nhân như sau.


Bát Lê làm xong công việc, không nghỉ ngơi, chạy tuốt vào đứng trước nhà rạp. Bấy giờ quan Công Sứ mới nhìn kỹ. Y mặc áo dài trắng, một dải giây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng của y không một giọt máu phun tới, quan Công sứ gật gù hỏi quan Tổng Đốc để nhớ lấy tên họ một người đao phủ có lối chém treo nghành rất ngọt. Ngài thưởng cho Bát Lê mấy cọc bạc đồng bà lão.



Tác giả đã ẩn mình vô cùng khéo léo dưới cách mô tả nghệ thuật hành hình để tố cáo tội ác của bọn sát nhân khát máu với nhân loại ngày một cao và nhiều hơn, ông đã qua mặt được cặp mắt cú vọ của bọn kiểm duyệt.


Lúc quan Lưu Trú gần cầm mũ áo từ về tòa sứ, quan Đổng lý Quân vụ còn ân cần buộc ông thông ngôn Nam Kỳ dịch cho đủ câu này.


-Bẩm quan lớn, chém treo nghành như thế này là phải lựa vào những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhộn nhạo quá, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi quì hướng về một chiều. Đại để nó cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta róc mắt mía.



Thuật chém treo nghành của Nguyễn Tuân khiến tôi lại nhớ đến thuật sử sóc siên của bọn Thổ Nhĩ Kỳ khi chúng cai trị Nam Tư hồi thế kỷ thứ 18 trong cuốn tiểu thuyết bất hủ Cầu Sông Drina (Il est un pont sur le Drina) của nhà văn Nam Tư Ivo Andrich viết năm 1945, được giải Nobel văn chương năm 1961 mà ông Phạm Công Thiện đã cho là giải văn chương xứng đáng nhất trong vòng mười năm qua.


Họ trói kẻ tử tù bắt nằm xuống đất rồi lấy một cây cọc vót nhọn đầu bịt sắt đóng từ hậu môn đóng lên. Tên đao phủ là một tay rất thiện nghệ, hắn đóng rất khéo khiến cho mũi nhọn nằm giữa xương sống và các bộ phận trọng yếu như tim, gan, phèo, phổi. . . nó không đụng vào xương sống và các bộ phận ấy để khiến cho tên tử tội phải chết ngay. Hắn đóng từ từ cho cọc lên đến tận cổ mà tội nhân vẫn còn sống. Khi ấy chúng đem dựng cọc nơi bờ sông để răn đe nhân dân, những kẻ dám chống lại chúng, nạn nhân phải chịu đau đớn hai ngày sau mới chết.


Ivo Andrich cũng như Nguyễn Tuân đã tả chân kỹ lưỡng những nghệ thuật giết người kinh hoàng khủng khiếp ấy để tố cáo với nhân loại tội ác và thú tính của bọn thực dân bạo ngược. Mặc dù phải vượt qua hàng rào kiểm duyệt gai góc của thực dân, Nguyễn Tuân vẫn lém lỉnh đưa vào đoạn kết những lời tiên tri cũng như ước vọng của ông về ngày tàn của chế độ thực dân đại gian đại ác.


Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu còn dính vào cổ người chết quì kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi.
Bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân.



Lối hành văn cổ kính, chịu ảnh hưởng của truyện Tam Quốc, Tây Hán Chí. . . Bố cục sáng sủa, khoa học, tả cảnh linh hoạt, sống động . . khiến cho Chém Treo Ngành trở thành tùy bút nổi bật nhất trong Vang Bóng Một Thời, đã được coi như một trong những áng văn tuyệt diệu nhất của nền văn chương Việt Nam.


Tôi thiết nghĩ chúng ta cũng nên phiên dịch tác phẩm ấy ra các tiếng ngoại ngữ để tố cáo tội ác tầy trời của bọn thực dân, để cho cả thế giới thấy cái bộ mặt ghê tởm của chúng, bọn thực dân thường huyênh hoang ta đây yêu chuộng công bằng, bác ái, đi truyền bá văn minh nhưng thực chất chúng chỉ là bọn uống máu người không tanh đã đem cảnh máu chảy thịt rơi ra làm trò tiêu khiển y như những tên bạo chúa La Mã ngày xưa vậy.

.....
Signature:

Lần sửa cuối bởi hoatigon208410; 03-12-11 lúc 02:13 AM
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (03-12-11)
  #2  
Cũ 03-12-11, 02:03 AM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

NÉM BÚT CHÌ


Trong truyện này Nguyễn Tuân diễn tả những môn võ nghệ cao cường của bọn ăn cướp thời ấy: Ném bút chì, tức là phóng một cái mai (cây xuổng lưỡi bằng đào đất) để giết địch thủ, cán mai có buộc sợi dây thừng, phóng tới mục tiêu rồi giật cái mai trở lại. Lý Văn nhân vật chính, tên trùm đảng cướp là tay ném bút chì giỏi nhất, hắn có thể phóng cây mai cắt đứt hai chân con gà nhưng còn chừa lại một làn da y như chém treo nghành vậy.


Toàn bài có một vẻ uy nghi như không khí hào hùng của truyện Thủy Hử với những tay giang hồ hảo hán như Tống Giang, Triệu Cái . . . Tác giả đã làm sống lại cái thời xa xưa ấy qua buổi sinh hoạt của bọn cướp trước khi chúng đánh một mẻ lớn vào tối hôm ấy. Bọn ở Kim Sơn và bọn ở Tam Tổng đến tìm Lý Văn, trong đó Cai Xanh là tay chơi nổi tiếng ở vùng Thanh nội, Thanh Ngoại, những tay anh chị trong đám cướp lớn đều phải phục tài nghệ hắn, Nguyễn Tuân mô tả về huyền thoại con dao hai lưỡi của Cai Xanh như sau.


Trong những phút rất nguy nan, phải giết kẻ khác để gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và bỏ dao lại trên chiến địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào thớ thịt còn nóng hổi giòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm trong hầu bao của Cai Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử kinh sợ đã bao chùm.


Hôm sau, phó Kinh tay phóng bút chì có tiếng lại tìm Lý Văn, cả bọn Tam Tổng và Kim Sơn cùng kéo tới nhà Lý Văn, họ cùng đánh chén rượu thịt. . phó Kinh trổ tài.


Phó Kinh cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ đốc ngọn mai.


-Đàn anh thử xem hạ cây chuối phía bên trái.


Bỗng một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt đất, kêu đánh roạt.


Rồi hắn dựt cái mai nằm gọn trong tay, hắn biểu diễn một đường nữa hạ buồng chuối nhưng quá tay đứt nửa thân cây chuối. Lý Văn tay nghề rất cao so với phó Kinh, hắn nói có khi phải nhẹ tay vì chỉ cần đánh dọa người ta thôi, Lý Văn bèn phóng bút chì vào một con gà, vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối, cặp giò chưa đứt hẳn còn một lần da y như chém treo nghành.



Tay nghề của tên trùm cướp được diễn tả như sau.


Lý Văn gác mai nói với cả bọn.
-Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của “bút chì”là nát mất gà. Các chú không phải đánh những “tiếng bạc” vào sinh ra tử, các chú không biết chứ đòn “bút chì”khó khiến lắm. Và một cây “bút chì”ngang tàng như thế mà phải lụy một cành tre đấy. Chú nào hay xử cây “bút chùng”ở các đường độc đạo, nên cẩn thận khi thấy bên địch tung cành tre ra để phá “bút chì”. Để hôm nào rảnh, anh sẽ dậy cho các chú tập đánh cái lối đón bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.



Nguyễn Tuân không có ý ca ngợi bọn cướp nhưng chỉ mô tả những đòn, thuật cao tay của chúng. Chắc là tác giả đã nghe các bậc cha ông kể lại chuyện tại những vùng miền Thanh Hoá, nơi ông đã theo gia đình sinh sống tại miền Trung. Ném Bút Chì đã mô tả một cách sinh động những món võ nghệ cao cường của các tay giang hồ hảo hán khiến ta như thấy hiện ra cái không khí hào hùng của Thủy Hử với Tống Giang, Triệu Cái. .



CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ


Truyện một viên quan cai ngục hâm mộ chữ viết đẹp của tên tử tù, một người văn võ song toàn, xin cho được thủ bút của người ấy, tác giả ca ngợi thú chơi chữ của viên quan.


Một viên quan cai ngục tại tỉnh Sơn nhận được sáu tên tù tội chết chém, đứng đầu là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp, văn võ song toàn. Viên quan sai một người thơ lại mang rượu thịt biệt đãi người tử tù, Huấn cao tỏ vẻ bực mình không muốn nhận nhưng viên quản ngục vẫn vui vẻ không cáu giận ông với hy vọng ông sẽ dịu tính nết để viết cho mình mấy chữ trên chục vuông lụa. Một buổi chiều viên quan nhận được lệnh giải Huấn Cao và các đồng chí vào kinh, sai thơ lại vào nói cho Huấn Cao biết, ông nói từ trước đến nay chỉ viết có vài bộ chữ cho mấy người bạn thôi, cảm kích vì tấm lòng hâm mộ của viên quản ngục, Huấn cao bằng lòng cho chữ trên tấm lụa trắng rồi đĩnh đạc bảo.


-Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi, chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn rõ ràng như thế. Thoi mực, kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?. . . ta bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.


Theo các nhà phê bình trong nước Huấn Cao chẳng ai khác hơn là Cao bá Quát, con người bất đắc chí đi làm cách mạng chống lại chế độ phong kiến, họ nói Nguyễn Tuân là người yêu nước ca ngợi tinh thần phản kháng của Huấn cao. Theo tôi biết Nguyễn Tuân không có mục đích nào khác hơn là diễn tả tấm lòng yêu nghệ thuật của một viên quan coi ngục, ông ta phải hạ mình chiều chuộng một tên tử tù để xin chữ viết, người tử tù tài hoa nổi tiếng là văn hay chữ tốt, ông đã bị Huấn cao khinh mạn mà vẫn kiên nhẫn sai thư lại mang rượu thịt biệt đãi người tù này cho đến khi xin được chữ viết.


Các nhà phê bình trong nước chú trọng khen ngợi truyện này rất nhiều, họ hay có phong trào, cũng như trong cuốn Thạch Lam Về Tác Giả Và Tác Phẩm, nhiều nhà đã khen lấy khen để truyện Hai Đứa Trẻ (Nắng Trong Vườn) là độc đáo sâu sắc. . mà thực ra nó lại không được dư luận chung chú ý mấy, ta không thấy họ nói nó hay ở chỗ nào. Khi có một hoặc hai nhà phê bình khen hay là họ a dua nhau khen lấy khen để.



BÁO OÁN


Truyện này nhuốm màu ma quái tựa như không khí quái đản trong Liễu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh hay trong những truyện quái đản của Edgar Poe, nhà văn cổ điển Mỹ, truyện cũng có giá trị như một tài liệu về những ngày suy tàn của nho học, những năm tháng cuối cùng của cái học nhà nho.


Khóa trước, tại tỉnh Hà Nam, ông Đầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, khóa này ông không nạp quyển dự thi mặc dù nhiều người khuyến khích ông nhưng ông nhường cho em, Đầu Xứ Em xuôi tỉnh sửa soạn thi. Ba năm trước chánh chủ khảo khấn “Báo oán giả tiên nhập, báo ân giả thứ nhập”, oan hồn vào báo oán ông Đầu Xứ Anh, một người đàn bà trẻ xõa tóc, ẵm con hiện ra dưới lều, kêu khóc, lấy mực đổ vào quyển ông, giữ gịt tay không cho ông viết, rồi ông lại thấy nổi cơn đau bụng phải bỏ dở kỳ thi. Nguyên do ông cụ thân sinh đã khiến một nàng hầu tự ải khi bà có thai sáu, bẩy tháng, cái âm oán sẽ còn theo mãi nếu ông còn dự thi, khóa này ông để ông em đi thi xem có còn báo oán nữa không. Hai ông ghé quán cô Phương, cô hàng sách có cảm tình với ông anh.


Ông em vào trường thi, thấy đau bụng, ông đốt vàng tự nhiên nghe tiếng cười lanh lảnh, rồi lại mớ tóc xoã, người đàn bà cất tiếng the thé, ông đau bụng dữ dội gục xuống . . . người ta điểm trống ngoại hạn.


Truyện này đúng với cái ý nghĩa vang bóng của một thời đã qua trong khung cảnh một khóa thi nho học cuối cùng, Nguyễn Tuân không ca ngợi cái học nhà nho lỗi thời hủ lậu nhưng chỉ có tính cách mô tả sự suy tàn của một thời kỳ văn học, của một nền văn minh tinh thần đã qua.


Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh, thì khoa thi Mậu Ngọ là một cơ hội cuối cùng. Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích mỗi khi nhắc nhỏm tới lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.


Mặc dù là truyện ma quái nhưng cũng có thể là truyện có thật trong chốn thi cử lều chỗng xa xưa, một ông anh văn hay chữ tốt bị báo oán do ông cụ thân sinh ăn ở thất đức nên đã hỏng kỳ thi trước, nhường cho ông em đi thi khóa sau nhưng rốt cuộc cũng vẫn bị báo oán phá hỏng kỳ này. Ông Đầu Xứ Anh đã đi coi đồng cốt biết rằng cái oan hồn của người đàn bà vẫn theo ông mãi. Nguyễn Tuân sở trường cả về hai chủ đề rùng rợn cũng như nên thơ thi vị, dưới đây là đoạn văn thể hiện không khí quái đản của tác giả.


Một người đàn bà trẻ, sõa tóc ẵm con, hiện ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ gịt lấy tay không cho viết. Gào khóc chán người đàn bà ấy lấy mớ tóc soã quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên và cười sằng sặc, lấy nghiên mực đổ vào quyển ông.


Hoặc.


Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cứ còn lều chiếu ở cửa trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sằng sặc và giọng nói the thé “nó còn đi thi cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia


Đây không phải chỉ nói đến chuyện báo oán tại trường thi nhưng nó còn là một bài thuật sự đầy đủ về khoa thi cử Hán nho, từ cảnh sĩ tử mang lều chõng ra đi đến sinh hoạt tại trường thi, lễ cúng tam sinh trâu, dê, lợn. Có thể nói đây là một áng văn chương hay, một tài liệu giá trị về trường thi nho học vào lúc suy tàn.



HƯƠNG CUỘI


Ngoài cái biệt tài diễn tả không khí quái đản rùng rợn như ta thấy ở các truyện trên, Nguyễn Tuân cũng làm sống lại cả một nền văn minh tinh thần thanh cao,huy hoàng rực rỡ, một thế giới tao nhã đầy những phong, hoa, tuyết, nguyệt . . . như Hương Cuội ở đây.


Cụ Kép người làng Mọc có thói quen mặc áo lông cừu ra vườn để chăm sóc hoa thơm cỏ quí, chiều ba mươi gia đình dọn dẹp để ăn Tết, gói bánh chưng, nấu cỗ. . . cụ Kép sai người nô bộc lấy rổ đá cuội trắng đem ra ao rửa sạch, lựa những viên tròn để riêng ra, cụ đã cho ngâm thóc lấy mầm nấu kẹo mạch nha từ mấy hôm nay. Cụ đã hoàn toàn nhàn rỗi, chỉ thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan, chăm sóc hoa cỏ tận tình. Hai ông Ấm con trai cụ đang phất giấy vào những nan lồng, nồi kẹo mạch nha nấu xong phải đợi canh hai mới nguội.


Bõ già lấy cuội trải trên mặt đất những chậu hoa gần nở rồi lấy những hạt cuội tròn bỏ vào nồi kẹo quấn kẹo bọc kín lấy đá, xong đặt trên lượt đá sỏi trên nền đất của chậu hoa. Hai ông Ấm úp lồng bàn giấy lên chậu hoa vừa lúc cúng giao thừa.


Năm nay cụ Tú Kép cùng bốn cụ bạn uống rượu với kẹo tẩm mạch nha ngày mồng một Tết, các cụ nhận xét phê bình về kẹo, tiệc rượu rồi bàn chuyện văn thơ.


Đây là bài tùy bút thi vị thanh tao nhất của Vang Bóng Một Thời, tác giả đã dựng lại cả một thế giới đầy hương thơm ngào ngạt của hương lan, kẹo đá, chắc hẳn Nguyễn Tuân đã chịu ảnh hưởng của thi ca đời Đường, của những thú vui tao nhã ngâm thơ, vịnh nguyệt.


Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai trước hoa vị
(Vương Duy)



Bạn từ quê cũ đến, chẳng hỏi han gì hơn là cây hoa mai trước cửa sổ đã nở hay chưa? Nghệ thuật mà tác giả đem lòng nuối tiếc lại toàn là những nghệ thuật cầu kỳ.


Cụ Kép thường nói với lớp người bạn cũ rằng có một vườn hoa là một việc dễ dàng, nhưng đủ thời giờ mà chăm sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với cả đến cái đẹp không bao giờ lên tiếng nói. Như thế mới phải đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ ở các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đầy chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay, thì chơi hoa làm gì thêm tội với Chúa Xuân.


Những nghệ thuật thưởng xuân ấy thật là xa lạ, độc đáo ít ai ngờ tới như đá kẹo, tác giả diễn tả tỉ mỉ lúc rửa cuội đến khi bỏ vào nồi kẹo, úp lồng bàn giấy lên chậu hoa đầy kẹo để ủ hương thơm lên kẹo. . . . cho đến khi các cụ nhắm rượu, thưởng xuân nhai kẹo, làm thơ. . . thật là vô cùng thi vị khiến ta như thoáng thấy một niềm nuối tiếc cho những cái hay, cái đẹp của một nền văn minh tinh thần rực rỡ nay còn đâu.


Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất chật hẹp từ đêm qua đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh hơi mũi; những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ bầu không khí trong vắt như có ý theo rõi luồng hương thơm đang thấm nhập vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.


Thú chơi hoa lan, uống rượu, ngâm thơ, nhai kẹo mạch nha ướp hương lan. . mà tác giả diễn tả tỉ mỉ đượïc thể hiện như một biểu tượng của những cái hay cái đẹp đã vang bóng một thời, những cái đẹp thanh tao nay đã bị thời buổi nhố nhăng làm cho tiêu hao đi mất.


Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ trong nhà cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia cụ cũng muốn có một mảnh vườn để sớm chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tầu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu giá trị tinh thần; nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn tay không có lợi khí mới, thì riêng cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa.



CHÉN TRÀ TRONG SƯƠNG SỚM


Đây cũng là một nghệ thuật cầu kỳ, công phu mang nhiều cá tính dân tộc, những cái hay, cái đẹp mà tác giả tiếc nhớ có những nét thật độc đáo khiến ta có cảm tưởng như đó là nghệ thuật ở một nước non xa lạ.


Buổi sớm mùa đông cụ Ấm dậy sớm từ lúc còn tối trời để đun nước pha trà. Một mình cụ thức trong căn nhà ba gian này để đun nước, Nguyễn Tuân mô tả kỹ lưỡng cảnh một ông già ngồi bên hỏa lò để nói lên cái thú của việc đun nước, nó cũng là một phần của thú uống trà.


Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian.


Đêm đông dài không cùng, nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.


Cụ quạt hỏa lò cho than tầu nổ lép bép rồi ngồi nhìn ngọn lửa cháy, nước đã sôi, cụ pha trà xong chỉ uống hai chén con là đủ, nghệ thuật pha trà ở đây cũng là một nghệ thuật cầu kỳ y như trà đạo của người Nhật: trong cuốn phim cổ điển Sayonara, ông thiếu tá Mỹ (Marlon Brando) hỏi cô bạn gái Nhật (Mikyo Taka) khi nhìn cảnh pha trà công phu tỉ mỉ.


-Sao cầu kỳ thế?


Cô bạn đáp .


-Cái thú là ở chỗ đó.


Nghệ thuật của Nguyễn Tuân cũng gặp lại trà đạo của xứ Phù Tang cùng một điểm.


Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơm và một tị triết lý và tâm lý.


Uống trà tầu đúng phong cách phải là đạm bạc , nhấm nháp, không phải lối uống nhanh hết chén này sang chén khác, những người uống trà sành điệu cùng uống trà với nhau một cách thanh nhã, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, cụ Ấm còn nhớ những ngày hầu trà cho quan Đốc, vừa uống trà vừa ngâm thơ nữa, các cụ cho rằng đó là cách vận động thần khí để tiết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể, đón khí lành của trời đất.


Lại thêm một cách thức cầu kỳ nữa là lấy những giọt nước đọng trên lá sen, phải đi thuyền thúng vét từng giọt trên những lá sen trong hồ mới đủ nước pha một ấm trà thơm lành, cầu kỳ chưa từng thấy.


Chén Trà Trong Sương Sớm, một cái thú uống trà cầu kỳ, vô cùng thi vị qua hình ảnh một cậu học sinh đi hốt nước trên lá sen, nó cũng đượm vẻ huyền bí thanh đạm qua hình ảnh một cụ đồ nho ngồi bên bếp lửa đun nước pha trà ngâm mấy bài thơ đón khí lành đầu tiên của trời đất.



NHỮNG CHIẾC ẤM ĐẤT


Bài này cũng nằm trong phạm vi nghệ thuật uống trà nhưng nhấn mạnh về cái ấm. Cụ Sáu sai người xuống giếng chùa xin nước về pha trà uống đã gần mười năm nay, cứ nước giếng này cụ mới chịu pha trà, cụ nói chỉ có nước giếng nhà chùa mới pha được trà ngon, nếu giếng mà cạn thì cụ sẽ đem cho không bộ đồ ấm chén.


Ông cụ phá gần hết cơ nghiệp ông cha, coi phú quí không bằng một ấm trà tầu. Một người khách lạ kể chuyện một tên ăn mày cổ quái, hắn chỉ chọn những nhà đại phú vào xin ăn, một hôm hắn lại một nhà phú hộ khi họ đang đãi khách uống trà, hắn xin được uống trà tầu, họ cho hắn mượn khay, ấm, chén rồi phát than tầu cho hắn, người ăn mày đun nước pha trà, uống xong hai chén thì nheo mắt lại, hắn chắp tay vái tạ chủ nhân và thưa rằng bình trà có lẫn mùi trấu. Người ăn mày đi khỏi đến chiều chủ nhà đánh đổ trà thấy có lẫn chừng mươi mảnh trấu, họ giật mình sợ tên ăn mày là dân sành sỏi uống trà.


Cụ Sáu cho rằng tên này đã tiêu cả một sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên mới sành như thế. Cụ và khách nói về các loại bình trà: Thế Đức gan gà, Lưu Bội, Mạnh Thần. Mấy năm sau ông khách đi xa về ghé nhà cụ Sáu, cụ đã bán nhà, cụ sa sút, chạy ăn từng bữa, thỉnh thoảng xin được một ít trà bèn gói lại, đợi lúc vắng pha uống. Cụ Sáu bán toàn thân cái ấm trước với giá rẻ, một thời gian sau mới bán nắp ấm được giá hơn.


Ở đây Nguyễn Tuân ca ngợi những người tài tử say mê nghệ thuật uống trà có vẻ hơi quá đáng, người thì say mê đến độ tiêu tan cả sản nghiệp phải đi ăn mày nhưng trong lòng vẫn còn say mê nghệ thuật, vẫn gõ cửa nhà giầu để xin thưởng thức chút hương vị trà, người khác mê “nhẩm sà” đến khánh tận cả gia tài, phá hết cơ nghiệp ông cha để lại để rồi phải đem bán những cái ấm đất cũ chạy ăn từng bữa.


Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (03-12-11)
  #3  
Cũ 03-12-11, 02:07 AM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

MỘT CẢNH THU MUỘN


Cụ Thượng, là một ông quan to về hưu có hai cậu con đều là ông cử: Cậu cả quan huyện Thọ Xương, tâm thuật hèn kém, cậu Hai ở Phố hàng Gai, dậy học, người đơn giản, nghệ sĩ, đi dạy học nay tỉnh này mai tỉnh khác y như đi du ngoạn cảnh. Từ ngày cụ Thượng về ở với cậu Hai, cậu không đi tha phương nữa, gần đến Trung Thu, ông cử Hai chuẩn bị làm cái đèn kéo quân cho con trẻ, lần này lấy tích Ngô Việt Xuân Thu, lúc Phạm Lãi đem Tây Thi sang dâng Ngô Phù Sai, làm mất mười hôm mới xong. Hôm sau ông cử lại làm thêm một cái đèn cho cô bé gái.


Truyện này tả cái thú làm đèn và chơi đèn kéo quân nay đã bị rơi vào quên lãng. Một nghệ thuật làm đèn để diễn lại những điển xưa tích cũ như mượn tích trong các truyện Tam Quốc, Đông Chu. . nghệ thuật cầu kỳ phức tạp đầy ý nghĩa này bây giờ chỉ còn để lại cái tiếng vang.



NGÔI MẢ CŨ


Đây là một truyện không có kết thực ra chỉ là một tùy bút, hầu hết các truyện của Vang Bóng Một Thời được coi như tùy bút. Cụ Án mất đi để lại một cô gái mười hai tuổi, cô Tú và cậu con trai mới lên ba khi đang lúc loạn lạc. Lớn lên cô Tú không đi lấy chồng chỉ dệt vải, khâu thuê vá mướn nuôi em trai ăn học, mong chờ cái mai sau của cậu Chiêu.


Hai chị em thuê một ông thầy địa lý tên Hồ Viễn đi coi mả để soay lại mả hy vọng gia đình khá hơn cái hiện tại nghèn nàn. Cụ Hồ Viễn trước là tướng Cờ Đen oanh liệt một thời. Cô Tú thức khuya dệt vải lấy tiền thuê người khiêng cáng đưa thầy địa lý và em xuống thăm mả cụ Án, trên đường đi cụ Hồ và cậu em (Chiêu) đánh với nhau mấy ván cờ không có quân.


Bài tùy bút làm sống lại những phong tục cổ xa xưa của một nền văn minh đã qua khi con người còn đặt nhiều tin tưởng vào thầy địa lý, mồ mả ông bà. Chị em cô Tú, cậu Chiêu con quan nay đã sa sút thuê thày thăm mộ để soay mộ cho nhà được khá hơn, cô Tú dệt vải, may vá lấy tiền thuê thầy để hy vọng vào ngày mai tươi sáng, niềm hy vọng của con người y như một dòng suối chảy không bao giờ dứt.


-Cô Tú lẩn thẩn lắm, ông giời có đóng cửa ai bao giờ. Chị em nhà cô, thế nào sau này cũng khá.


Đến đây thì cô Tú khóc và oà lên thành tiếng.


-Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Xong rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Tháng sau tôi sẽ về qua đây để chỉ bảo cách soay lại ngôi mộ.


Cốt truyện không có gì lôi cuốn đặc sắc, hành văn trong sáng, ý tưởng phong phú như một cuốn phim chiếu lại cả một thời nho giáo suy tàn với sự hy sinh cao cả y như nhân vật Tâm trong Cô Hàng Xén của Thạch Lam cùng với sự mô tả những con người kỳ dị như ông thầy địa lý.


Cụ Hồ nguyên là tướng Cờ Đen. Tên cụ khác kia. . . . . . . . . . . . . . . người ta nói chuyện lại rằng cụ Hồ hồi còn làm tướng quân Cờ Đen, mỗi lúc cụ trương lá cờ đầu lúc xuất quân, trông oai phong lẫm liệt. Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã, và phía bên phải là một khẩu súng thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền.


Trong bài giới thiệu viết trên báo Ngày Nay 1940, Thạch Lam cho rằng Ngôi Mả Cũ là truyện hay nhất:


Ngôi Mả Cũ- theo ý tôi, cái truyện ngắn hay nhất toàn tập – Đưa chúng ta đến hương vị cũ kỹ và nhẫn nại của một sự hy sinh.


Sau thời loạn, một nhà gia thế chỉ còn có hai chị em. Người chị không đi lấy chồng, ở nhà dệt vải để nuôi em đi học. Cậu em chăm chỉ và ngoan ngoãn, yêu chị và kính chị như mẹ. Thêm vào tấm tình chị em thân thiết ấy, cái bóng dáng của một tướng Cờ Đen cũ, làm thầy địa lý lúc trở về già. Một bức vẽ trong đó tác giả phác họa được tất cả một gia đình nền nếp cũ, có cái ích kỷ và cái cao siêu, với đằng sau lờ mờ cảnh hãi hùng và tàn phá của những ngày loạn lạc.



THẢ THƠ


Cụ Phủ là người đức độ, cáo quan về, cụ bà và cậu con trai đã qua đời, cụ phải nuôi một cô gái xấu, cụ dậy trẻ, sao lá số, gieo một quẻ, kê đơn thuốc. . Ông trời bắt cụ phải nghèo, cô Tú phải xấu. Có người bạn khuyên cụ tổ chức một cuộc chơi thả thơ, một cách đánh bạc của những người có chữ nghĩa. Thế là cụ làm một cái bè trên mặt nước, hằng chục người đến đánh bạc trong tiếng ngâm thơ, nhưng có kẻ ác miệng nói rằng cụ thả thơ để lựa người đồng sàng cho cô Tú, từ đấy cụ không cho cô Tú xuống bè nữa, cụ cũng thua luôn từ đấy.



ĐÁNH THƠ


Cuối đời Thành Thái, ba người đàn bà đẹp, Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu. Rồi một ông phó sứ giữ lăng làm chủ Mộng Liên, nghề phó sứ không mấy khi ở yên một chỗ, tới mỗi nơi, quan phó sứ mở cái túi đựng toàn những thơ đố ra cho người ta đặêt tiền bên chiếu bạc văn chương, quê hương là cờ bạc đàn hát, về sau phó sứ bị bệnh chết dưới chân Đèo Ngang.


Cả hai bài này tả cảnh đánh bạc bên chiếu thơ văn tao nhã, nhưng có lẽ vì cố ghi cho nhiều dữ kiện đánh thơ, thả thơ mà câu chuyện đã trở nên khó hiểu và rườm rà phức tạp, cũng có thể tác giả quan niệm tùy bút là lối viết phóng túng mặc cho ngòi bút muốn đi tới đâu thì tới nên truyện đã có nhiều khúc mắc như vậy, có lẽ đây là hai bài khó hiểu nhất trong Vang Bóng Một Thời, về điểm này Thạch Lam đã nhận xét như sau.


Một công việc dầu không khỏi có những phần khuyết điểm về mặt văn chương, chúng ta muốn tác giả Vang Bóng Một Thời đến một sự giản dị sáng sủa hơn, cố tránh những lối hành văn cầu kỳ – sự cầu kỳ trong cái tìm tòi không phải cái cầu kỳ trong cách điệu tả – tránh những chữ nhắc lại, những sự kiểu cách, những lối về âm điệu trong câu văn. Có lẽ tác giả muốn nói hết cả những cái mình biết, và tác giả biết nhiều nên có có sự lộn xộn ấy chăng?


Tôi đồng ý với Thạch Lam ở điểm tác giả muốn đưa vào tác phẩm tất cả những điều mình biết nên nhiều bài, truyện đã trở nên phức tạp thiếu sự giản dị, sáng sủa khiến cho người đọc thật là bối rối trước những chi tiết vô cùng phức tạp, khó hiểu như cách làm đèn kéo quân trong Một Cảnh Thu Muộn, hay cách đánh bạc trong Thả Thơ, Đánh Thơ. . khiến cho tác phẩm không được sáng sủa, mạch lạc so với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam. .


Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét như sau.


Đọc Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân, người ta cũng có một cảm tưởng gần giống như những cảm tưởng trong khi ngắm một bức họa cổ. Gần giống, vì họa sĩ, tác giả bức họa cổ, là người thời xưa, có cái óc của thời mình và có những nét, những mầu của thời mình, còn tác giả Vang Bóng một Thời chỉ là người khơi đống tro tàn của dĩ vãng để bầy lại trước mắt ta những cái ta đã biết qua hay chưa biết rõ.


Vũ Ngọc Phan đã ví Vang Bóng Một Thời như một bức họa cổ, tôi nghĩ nó cũng giống như một món đồ cổ càng để lâu càng có giá trị, chẳng thế mà năm 1988 trong nước đã tái bản đến lần thứ sáu, 30.000 cuốn, tác phẩm ngày càng được độc giả hâm mộ vì họ muốn thưởng ngoạn những cái hay cái đẹp nay đã vang bóng một thời, về giá trị của tác phẩm, ông Phạm Thế Ngũ cho rằng.


. . Từ 1940 đến 1945 được in lại 3 lần, được tặng giải Gia Long và ở lại như một bảo vật của nhà hiếu cổ, một sản phẩm quý không còn bàn tay thứ hai nào chế tạo nổi nữa.


Trọng Đạt

(Sưu tầm)


Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (08-12-11)
  #4  
Cũ 03-12-11, 02:17 AM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

Bữa rượu máu




Phía tây thành B. trên một nền đất rộng đổ sát vào chân thành cho lầu gạch ngoài thành được thêm vững chãi, lũ cây chuối mật tha hồ mặc sức mà mọc. Nó um tùm, tàu lá rộng và không bị gió đánh rách, che kín cả bóng mặt trời. Trên áng cỏ bốn mùa ẩm ướt, loài nấm dại sinh nở hết sức bừa bộn.


Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm không có vết chân người.


Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa Ngân đổ lên vườn chuối một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu.


Vườn chuối phía tây thành sớm nay quang đãng khác mọi ngày. Trên mặt cỏ ngổn ngang nhựa thẫm màu. Nhựa ấy bị không khí làm se lại, kết nên thành những khối keo quyện chặt lấy bùi cỏ gà.


Cùng một buổi chiều ấy, mấy người vợ lính cơ đứng trong luống bãi dâu trồng ở dưới chân thành, sát ngay với bờ hào được nghe tiếng người hát trên ngọn thành, ở trên đầu họ, đúng ngay chỗ vườn chuối im lìm của mọi ngày.


Tiếng người trên mặt ngọn thành cũ hát rằng:


" Trời nổi cơn lốc
" Cảnh càng u sầu
" Tiếng loa vừa dậy
" Hồi chiêng mớm mau
" Ta hoa thanh quất
" Cỏ xanh đổi màu
" Sống không thù nhau
" Chết không oán nhau
" Thừa chịu lệnh cả
" Dám nghĩ thế nào
" Người ngồi cho vững
" Cho ngọt nhát dao
" Hỡi hồn !
" Hỡi quỷ không đầu ! "



Người ở trên mặt thành hát đến đâu thì tiếng những thân cây chuối đổ xuống mặt đấy tường thành lại kêu roạt roạt đến đấy. Bọn người đàn bà hái dâu ngừng tay bứt lá, nghiêng đầu lắng nghe kỹ. Cái bài hát năm mươi tư chữ nghe như bài sai của thầy phù thủy, đã hát đi hát lại đến mấy lần. Cứ xong mỗi câu thì lại có một tiếng roạt. Chỉ có cây chuối bị chặt mạnh mình lìa hẳn gốc, đổ vật xuống mặt đất thì mới kêu roạt roạt như vậy thôi. Nhưng mà ai chặt chuối? Không phải hẳn là cấm địa, nhưng góc thành sau kho lúa kia cũng là một miếng đất cấm, ai dám vượt phép quan vào đấy mà hát, mà phá vườn. Có chăng là làm loạn.


Những người vợ lính cơ, quen sống trong không khí loạn lìa, chiều nay và đêm nay bàn tán mãi về cái tiếng hát trên vườn chuối mặt tường thành. Chồng họ cũng lấy làm lạ và tự nhủ ngày mai vào trại sẽ hỏi chuyện cho rõ.


Buổi sáng hôm sau, bọn vợ lính cơ, thêm được ít người tò mò nữa kéo đến vườn dâu ngoài thành, vẫn nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt thành, với những câu hát rõ mồn một:


" Ta hoa thanh quất
" Cỏ xanh đổi màu
" Sống không thù nhau
" Chết không oán nhau...



Khi nghỉ ngơi, lúc họ mang chuyện đó về nhà thì những người lính cơ đều ra vẻ cảm động sợ hãi và cắt nghĩa:


- Ông Bát Lê sắp làm việc đấy.


- ???


- Ông lớn sắp đem mười mấy người ra chém. Và tiếng người hát trên mặt thành là tiếng ông Bát Lê đang tập múa thanh quất ở vườn chuối đấy.


- Múa thanh quất? Ở vườn chuối? Sao lại hát những câu ghê thế? Và ông Bát Lê vốn chém người đã nổi tiếng, còn phải tập với tành gì nữa?


- U mày không hiểu. Lâu nay ông Bát không phải khai đao vì Ông Lớn thấy già yếu muốn cho nghỉ tay. Mỗi lần có án trảm, ông Bát chỉ phải ra pháp trường cho có mặt thôi. Còn công việc thì đã có người khác đỡ tay. Nhưng vẫn cứ được tiền thưởng. Đã đến gần một năm nay ông Bát không cầu đến thanh quất. Không hiểu tại sao, lần này Ông Lớn lại cho gọi ông Bát ra cho kỳ được và xem chừng như ngài săn sóc đến cái vụ xử trảm này nhiều lắm.


Lui vào tư thất, quan Tổng đốc sung chức Đổng lý Quân vụ, nhác thấy lão Lê đang co tay úp lên mang tai nhìn vào đám vàng son lộng lẫy nhà riêng mình, ngài liền quở:


-Ê ! bữa nay, chú đi đâu? Ta cho thằng Cửu nó sang gọi mấy lần đều thấy đóng cửa.


- Bẩm lạy Ông lớn, ít lâu nay con về nhà quê. Giá như ngày trước, có khi nào con dám đi xa, sớm tối lúc nào cũng phải ở trong nội thành, phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây. Ông Lớn thương phận già nua cho con được nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Được tin Ông Lớn cho đòi, con vội vã vào hầu, xin Ông Lớn tha tội. Con chờ lệnh Ông Lớn truyền xuống.


- Thôi, cho đứng dậy.


Quan Đổng lý Quân vụ ngả mình trên ghế bành vàng và son, hất hàm hỏi tên bát phẩm đầy tớ già đang co ro người bên chiếc cột:


- Liệu bây giờ chém còn mát tay nữa không?


- Dạ.


- Dạ sao? Chú có biết ta sắp cho xuống cái lệnh chi không?


- Dạ.


- Có mười hai tên tử tù sắp phải hành hình. Quan Công sứ muốn được thị kiến lúc bọn hắm chịu án trảm. Ngươi chém thế nào cho gọn thì chém, hễ chém một đầu đến hai nhát thì không những ta truất tiền thưởng mà người còn bị quở nữa. Chém cho thực ngọt.


- Dạ.


- Tiền thưởng này chính của Quan Công sứ cho. Ta muốn giữ phần cho người nên ta cho gọi vào mà lĩnh lấy việc này, gọi là kiếm một chút bổng để dưỡng tuổi già. Chú phải biết khi nhận lấy muời hai tên tử tù là chú phải làm việc cho đầy đủ. Chớ để phiền đến ta. Ta đã trót khoe khoang cái tài chém "treo ngành" của chú với quan Công sứ. Chú nghĩ thế nào?


- Dạ, bẩm Ông Lớn đã thương đến phận tôi tớ chúng con xin hết sức tuân theo. Nhưng bây giờ con già yếu lắm, không biết có còn làm được việc như hồi xưa nữa không. Vả chăng gần một năm nay không cầm đến mã tấu con e có điều hơi lạc mất đường đao.


- Ta đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Chú còn đủ thời giờ để tập lại lối chém treo ngành. Nếu cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền lại cho một ngườii nào được thì một lần cuối cùng này nữa, chú cũng nên cho một vị quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém của một người đầy tớ hầu cận ta là như thế nào.

- Dạ, bẩm Ông lớn...


- Chú đừng nhiều lời. Đây này, ta cho chú mượn thanh quất của ta mà làm việc. Sẵn có vườn chuối ở sau kho lúa, cho phép chú lên đó mà tập. Có ai ngăn cản, cứ đưa cái tín bài này ra cho họ nom rõ.


Quan Đổng lý Quân vụ rút khỏi ống bút trên bàn một lá thẻ đỏ, viết mấy chữ thảo vào mặt thẻ sơn trắng, trao cho Bát Lê.


Thế là từ hôm ấy Bát Lê lĩnh thanh quất của quan Tổng đốc leo lên tường thành, xông xáo trong vườn chuối, hết sức tự do, hết sức tàn nhẫn, chém ngang thân loài thực vật, trước khi chém vào cổ mười hai tên tù đang nằm đợi ngày cuối cùng.


Vườn chuối trên mặt thành vốn mọc không có hàng lối nhất định. Ông Bát phẩm Lê phải chọn lựa mãi mới được mấy dẫy chuối mọc theo hàng lối thẳng thắn. Y soạc cẳng, lấy bước chân đo những quãng trống từ một gốc chuối này đến một gốc chuối khác. Tiến lên, lùi xuống, đo ngang, đo dọc tự cho là tạm tạm được, y bèn nhẹ nhàng phát hết những tàu lá chuối rườm rà. Đấy là cái khu dọn dẹp sẵn để nhân lấy sự thí nghiệm sau hết của một thanh quất bị bỏ quên đã lâu ngày.


Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, y nhảy nhót trong vườn chuối, đưa lưỡi gươm qua bên phải lại múa lưỡi gươm qua bên trái, thanh gươm hai lưỡi gọn gàng, nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu lớp sương đêm. Mảnh khăn vuông vải trắng bịt tóc Bát Lê đã đẫm ướt và nhựa chuối chát thấm vào đất, gặp ánh nắng sớm, đã xuống màu dần dần.


Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc, nhẩy nhót như một kẻ điên cuồng. Cứ mỗi một cây chuối gẫy gục xuống cỏ đánh roạt một cái thì Bát Lê lại cất tiếng hát:


" Sống không thù nhau
" Chết không oán nhau



Câu hát được những tiếng cây chuối đổ chấm câu cho và đã vẳng từ trên mặt thành xuống mặt một bãi dâu ở chân thành...


Tập như thế cho thuần tay hết một buổi sớm và một buổi chiều. Bát Lê sớm ngày hôm sau lại trở lại vười chuối đã rầu cả lá, đã khô cả vết thương. Y hồi hộp chống gươm xuống mặt đất ẩm ngổn ngang sự tàn phá, như một võ sinh sắp trổ tài ở võ trường với sự phân vân, lo ngại của phút biểu diễn. Rồi Bát Lê trịnh trọng tiến vào cái khu vườn chuối đã dọn từ hôm trước để nhận lấy lưỡi gươm thí nghiệm cuối cùng của một cuộc tập chém. Y đứng vào giữa hai dãy chuối, tay phải cầm ngang thanh quất.


Y lùi lại ba bước, lấy hơi thở cho đều, vừa hát to câu:


" Tiếng loa vừa dậy "


vừa tiến mạnh lên, thuận tay chém vào cây chuối đầu tiên dãy bên phải. Đà gươm mạnh từ cao soải xuống theo một chiều chếch, tưởng gặp đến gỗ cứng cũng lướt qua. Thế mà thanh quất chỉ ngập vào chiều sâu thân cây độ chín phần mười. Lưỡi thanh quất bị ngừng ở cái cữ ấy, rồi lại được lấy ra khỏi thân cây chảy mủ. Vừa giật lưỡi thanh quất khỏi thân cây đang từ từ gục xuống, vừa hát một câu nữa:


" Hồi chiêng mớm mau "


Bát Lę lại tiến thęm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu dãy bên trái. Bái Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân hình người quỳ chịu tội. Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải. Bát Lê đã hát hết mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối. Bát Lê quay mình lại, ngắm các công trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫy còn dính vào phần gốc bởi một lần bẹ giập nát.


Bát Lê mỉm cười, gỡ cái khăn chùm trên đầu, lau lưỡi gươm vào đấy, vuông vải lại dẫm thêm chất nhựa xám.


Thế là xong một cuộc tập chém lối treo ngành. Và Bát Lê cũng vui vẻ trong lòng đợi ngày nhật tù. Đi từ bề cao nền cỏ xuống chân thành, qua những bậc cấp thúc vào lòng đất. Bát Lê chốc chốc lại dừng bước lại và ưỡn mình về phía sau, ngắm cánh tay khẳng kheo mình đang lăm lăm cầm lưỡi gươm.


Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý Quân vụ một buổi chiều thu quyết đã đổi màu. Mọi khi, ở đấy chỉ có bê, bò được thả lỏng cúi cổ ngốn áng cỏ tươi bên cạnh một tốp lính hiền lành, tay cầm lưỡi liềm cắt cỏ về cho ngựa quan ăn. Bây giờ ở đấy, người dựng lên một cái nhà rạp cỏ tàn, cỏ quạt, cỏ cờ ngũ hành. Trước nhà rạp người ta chôn sẵn mười hai cái cọc tre bị vồ gỗ đập mạnh xuống toét cả đầu. Và đánh đai lấy khu nhà rạp rộng độ một mẫu, mấy trăm lính mặc áo có dấu, có nẹp đã tề chỉnh tuốt gươm trần để thị uy.


Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đấy thì sáng hơn là nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái lạ. Những bức tranh mây chó màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt.


Mọi người chờ đợi một cái gì.


Từ phía nhà ngục, mười hai con người chậm chạp tiến tới giữa hai tốp lính áp giải. Bãi cỏ im lìm đến nỗi tiếng gông lũ tù giây va vào nhau theo một nhịp bước rụt dè nghe cứ rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu định liệu bước đi cho cỗ đòn đám.


Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn chỗ cọc tre và trong một lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu, quỳ gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân lúc quỳ phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như thế, tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi đao thả mạng xuống cái cổ căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người họ. Trông xa, họ có cái cứng thản nhiên của những tượng đá tạc hình người Chiêm thành quỳ trước sân đền thờ vua Lý.


Tiếng nhạc bát âm thổi bài Lưu thủy trường gần mãi lại. Rồi trong một giây phút mọi người lắng rő tiếng sênh tiền. Ai nấy nín thở. Trông ra cờ quạt kín cả nền trời và lính tráng kín cả mặt cỏ. Bụi cát bay mů như lúc có cuộc hŕnh quân. quan Công sứ mặc đồ binh phục trắng có ngù kim tuyến đi ngang hàng cùng quan Tổng đốc. Hai quan đầu tỉnh - một người đi ghệt, một người đi ủng - đều gò bước đi cho nó ăn nhập với cái long trọng của pháp trường. Những tên lính tỉnh gầy ốm che sát vào người hai Ông Lớn mọi thứ tàn vàng, tán lía, lọng xanh.


Cái đầu chúng không dám phạm thượng cúi gầm xuống mặt đất, nhìn cánh cỏ may chọc thủng ống quần mình.


Trong nhà rạp, các quan an vị. Ông thông ngôn người Nam kỳ đứng khoanh tay đằng sau quan Lưu trú Pháp. Quan Tổng đốc nói trước:


- Những người sắp bị hành hình kia là dư đảng giặc Bãi Sậy. Ty chức rất mong rằng đấy là những kẻ phiến loạn cuối cùng. Và nhờ hồng phúc của Quan Lớn, cuộc trị an ở xứ này chóng định.


Bát Lę cầm gươm tiến đến trước nhà rạp, vòng tay thu lưỡi gươm lại, vài một vái, cúi mặt đứng im. Quan Tổng đốc nhớm mình khỏi mặt ghế bành:


- Xin phép Quan Lớn cho ty chức được trình với Quan Lớn một tên đầy tớ trung thành. Hắn là đao phủ thủ tại pháp trường hôm nay.


- Có phải cái người mà Quan Lớn nói là có tŕi chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lằn da cổ đó không?


- Dạ. Mấy hôm nay hắn hạ thủ trong một hơi những mười hai cái đầu. Bây giờ để xin ra lệnh khai đao.


Quan Công sứ gật. Viên giám trảm và Bát Lê đều lùi ra ngoài rất mau.


Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Rứt mỗi hồi chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li!


Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp các quan chỉ nghe thấy cái âm lơ lớ rờn rợn. Quan Công sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chếc thủ cấp nào rụng xuống.


Bát Lê làm xong công việc, không nghỉ ngơi chạy tuốt vào đứng trước nhà rạp. Bấy giờ quan Công sứ mới nhìn kỹ. Y mặc áo dài trắng, một dải giây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng của y không có một giọt máu phun tới, quan Công sứ gật gù hỏi quan Tổng đốc để nhớ lấy tên họ một người đao phủ có lối chém treo ngành rất ngọt. Ngài thưởng cho Bát Lê mấy cọc bạc đồng bà lão.


Lúc quan Lưu trú gần cầm mũ cáo từ về tòa Sứ, quan Tổng lý quân vụ còn ân cần buộc ông thông ngôn Nam kỳ dịch cho đủ câu này:


- Bẩm Quan Lớn, chém treo ngành như thế này là phải lựa vào những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhộn nhạo quá, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chỗ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Đại để nó cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta róc mắt mía.


Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi.


Bấy giờ vào khoảng giữa giờ Thân.


Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following 2 Users Say Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
Lan Hương (03-12-11), phale (03-12-11)
  #5  
Cũ 04-12-11, 02:44 PM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

Những chiếc ấm đất




Bóng nắng gần tới đỉnh đầu. Sư cụ chùa Đồi Mai thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu lờ, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:

- Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.

- Vậy chú vẫn đóng cửa chùa đó à? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: sáng sớm tụng kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương họ kêu đấy.

Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bảy tuổi xúng xính trong chiếc áo dài thâm, chân xéo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái sư cụ:

- Bạch cụ, thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.

Nhà sư già đã quen với những việc biếu và xin mượn này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành thôi.

- Thế cháu đựng nước bằng cái gì?

- Dạ có người nhà quẩy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.

- Ai di đà phật? Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.

- Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.

Sư cụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.

- Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm nay rồi không? Gần mười năm. Uống trà tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là như thế nào. Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ.


Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.

- Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang chờ nước về.

Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:

- Chú chạy mau ra vườn, bẻ mấy cành lá đào.

Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:

- ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.


Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát. Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần.


ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất. Giống như vệt khói nhờ, nắng vờn qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già nheo nheo cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi chuyển động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi mạnh, nhiều cơn, đã đem cả mảnh bụi trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo. Nhà sư nghĩ đến cụ Sáu, thở dài tỏ ý tiếc cho một kiếp chúng sinh còn vướng mãi vòng nghiệp chướng.


Cụ Sáu vốn đi lại với chùa đây kể ra đã lâu. Từ trước cái hồi nhà sư già tới trụ trì. Mấy pho tượng Phật Tam thế bằng gỗ mít đặt ở trên bệ và mấy pho Kinh in giấy đại thừa là của cụ Sáu cúng đấy. Cái chuông treo ở trên nhà phương trượng cũng là của ông cụ Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa. Và mỗi lần nhà chùa lập phả khuyến thì ông cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai ở xa làng mạc biệt lập trên một khu đồi nên cũng ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Tháng một lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt, nhà sư cũng chân thành tặng khách một rò lan Chu Mặc. Thường thường mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông già cũng kéo nhau ra cái giếng nước mà chuyện vãn rất lâu. Nhà sư ít nhời, trầm tĩnh ngắm bóng cụ Sáu trong lòng đáy giếng sâu. Cái bóng nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trên phiến gương nước giếng mát lạnh: chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt xuống, tiếng kêu bì bõm. Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn mịn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng sâu thẳm gần hai con sào mà nói: "Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa nhà đây. Tôi sở dĩ không nghĩ đến việc đi đâu xa được, cũng là vì không đem theo được nước giếng này đi để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thề này: "Là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem ra còn dụng võ được...". Chừng như sợ cụ Sáu bàn rộng tới những chuyện không nên trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc của đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng sang chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai quả lắm. Rồi kéo cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mươi năm nay, bao giờ uống nước trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay nhà chùa.


Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận việc nhiều nên đã mấy tuần trăng rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ cứ nhìn mấy chậu Mặc lan rò trổ hoa mà tặc lưỡi. Cùng bất đắc dĩ phải ngắt cắm vào lọ con vậy. Dạo này cụ Sáu chỉ cho người nhà xuống xin nước giếng thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng ngắm hai thầy trò người con ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà sư già thở dài cùng sư bác chờ đấy: "Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái phong vị trà tàu, đam mê đến nhiều khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng thành một ông sư tại gia. Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà tàu. Nhưng một ngày kia, nếu không có trà tàu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu này sẽ còn khổ đến bực nào. Phật dạy rằng hễ muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn, sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa nhà xin nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật!".


Ông cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Người khách lạ vừa kể cho chủ nhân nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén vào lợi chiếc đĩa cổ vài ba lần, người khách kể:


"Ngày xưa, có một người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì thì hắn mới xin. Có một lần hắn gõ gậy vào đến lớp giữa một nhà phú hộ kia, giữa lúc chủ nhà cùng một vài quý khách đang ngồi dùng bữa trà sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người đang khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi người ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay là canh cặn, hay là hơn nữa, hắn lại muốn đòi xôi gấc, như kiểu người trong phương ngôn. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn "uống trà tàu với!". Mọi người tưởng hắn dở người. Nhưng tại sao không nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa định xược với bọn họ đến lúc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhà: "Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương xuống, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa được lấy gì làm khoái hoạt lắm". Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị, rồi xách nón, vái lạy chủ nhân và quan khách, cắp gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy, cả nhà đều lấy làm kinh sợ người ăn mày vì, ở lọ trà đánh đổ vung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu".


Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to lên:


- Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại toàn là ấm song ấm quý.


- Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống một tuần nước đấy thôi. Chứ cụ tính làm gì ra những thứ người lạ ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.


- Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai nữa chứ. Chẳng nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi.


Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:


- Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. "Thứ nhất Thế Đức gan gà; - thứ nhì Lưu Bội; - thứ ba Mạnh Thần". Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.


Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:


- Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tàu, họ gọi là kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.


- Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?


- Lại "ngư nhãn, giải nhãn" chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa, và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.


Chủ khách cả cười, uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng với một câu:


- Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người bạn cũ. Mỗi lần gặp nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.


Năm ấy nước sông Nhĩ Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả lạ. Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi bị cuốn phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảnh giấy hồng điều đôi câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:


Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời, quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu

Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước trước hiên mai*.



Năm sau, quãng đê hàn khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một lần nữa. Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu đối giấy hồng điều, gió mưa đã làm bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ kín dòng chữ bằng những vạch bùn ngang dày dặn.


Ông khách năm nọ - cái người kể câu chuyện ăn mày sành uống trà tàu - đi làm ăn xa đã mấy năm, nhân về qua vùng đấy, nhớ nhời dặn của cụ Sáu, đã tìm tới để uống lại với ông già một ấm trà tàu nữa. Nhưng người khách hỏi nhà ông đến, người khách đã bùi ngùi thấy người ta bảo cho biết rằng nhà cụ Sáu đã bán rồi. Thấy hỏi thăm tha thiết, người vùng ấy mách thêm cho ông khách: "Có muốn tìm cố Sáu thì ông cứ xuống Chợ Huyện. Cứ đón đúng những phiên chợ xép vào ngày tám thì thế nào cũng gặp. Chúng tôi chỉ biết có thế thôi".


Phải, bây giờ ông cụ Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm cũng khó, chứ đừng nói đến chuyện uống trà. Thỉnh thoảng có xin được người nào quen một vài ấm, cụ lấy làm quý lắm: gói giấy giắt kỹ trong mình, đợi lúc nào vắng vẻ một mình mới đem ra pha uống. Vẫn còn quen cái thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ.


Những buổi có phiên chợ, cụ Sáu ngồi ghé vào nhờ gian hàng tấm của người cùng làng, bày ra trên mặt đất có đến một chục chiếc ấm mà ngày trước, giá có giồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chửa chắc cụ đã bán cho một chiếc. Có một điều mà ai cũng lấy làm lạ, là cụ bán lũ ấm đất làm hai lớp. Mấy kỳ đầu, cụ bán toàn thân ấm và bán rất rẻ. Còn nắp ấm cụ để dành lại. Có lần vui miệng, cụ ghé sát vào tai người bà con: "Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi, chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa vặn sao? Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm, mới là lúc nên bán giá đắt. Đó mới là cao kiến".


Cụ Sáu cười hề hề, rồi vội quay ra nói chuyện với bạn hàng đang mân mê những cái thân ấm đất đủ màu, cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na, hình quả vả, quả sung, quả hồng. Cụ đang bảo một ông khách:


- Thế nào tôi cũng tìm được nắp cho ông. Cứ phiên sau lại đây thế nào cũng có nắp. Không, đúng ấm tàu đấy mà. Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.

....
Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following 2 Users Say Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (08-12-11), Thu Phong (08-12-11)
  #6  
Cũ 07-12-11, 11:52 PM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

Thả thơ




Cái buồn thường không mấy khi xẩy đến một cách đơn chiếc. Cụ Phủ bà vừa mất vào quãng đầu xuân, cỏ xanh chưa đủ che kín mặt nấm mộ mới, thì cuối xuân năm ấy, cậu Chiêu lại cũng qua đời. Vì những luật lệ về luân lý gia đình vẫn còn ứng dụng được dưới suối vàng thì bên kia cõi đời này, linh hồn cậu Chiêu chí hiếu đang được yên tĩnh để hầu dưới gối một linh hồn chí từ. Và trên trần, có một gia đình đang lúng túng vì sự hiu quạnh. Bây giờ cụ Phủ ông đã lâm vào cái cảnh gà sống nuôi con một. Nguyên cụ Phủ được hai người con: cậu Chiêu không may sớm cướp công sinh thành, để lại cho cha một người em gái bồ côi mẹ, đã đứng tuổi mà chưa có dịp nào xuất giá. Trời đất ôi, trên mấy gốc tre cằn không đủ gây thành một bụi ấm, trận gió thanh bạch ngày ngày cứ lào rào thổi mãi.



Cụ Phủ ông là một người mà học lực và chính tích chấp được cả bạn đồng liêu một thời; cô Tú là một thiếu nữ con quan mà cái tài làm thơ phú theo một gia sáo vững vàng, mà cái hạnh về môn nữ công đủ làm vinh dự cho một gia phong. Nhưng ông Giời thích thừa trừ đã buộc ông Phủ phải nghèo và cô Tú phải xấu. Và những lúc này, người ta không mấy ai nói đến tài và hạnh và thường chỉ hay nhắc đến chữ phận và chữ duyên.



Tiếng trống phủ trên lầu canh cứ điểm đều những tiếng vô vị vào một tư thất lạnh lẽo. Gian nhà giữa cụ Phủ Ông đã thâu canh dài làm bạn với thánh hiền bên án sách leo lét ngọn đèn; trái nhà phía tây, cô Tú âm thầm ngồi vấn chuyện với bóng in trên lá màn vải xô. Có những đêm mưa to gió lớn làm nhòe những tiếng trống phủ cầm canh, cô Tú rời phòng mình, qua gian giữa gây một lư trầm cho cha. ở gian giữa tư thất liền có tiếng ngâm thơ:


Cứ đốt lò hương cho tới sáng,


Thử xem mưa gió tới bao giờ1.



Nhưng có một đêm rất gần đây, tiếng trống phủ thành hết quấy quả canh dài cụ Phủ và cô Tú nữa. Người cha đã cáo quan về vườn rồi. ở một xứ quê buồn tẻ kia, bây giờ có một ông đồ già ngồi dạy trẻ và một cô con gái ngày ngày ngồi trong nhà gỡ một ống tơ vàng hay là chạy ra vườn bứt ít lá dâu nó cũng già cỗi theo cái cảnh người. Bây giờ muốn nói đến cụ Phủ già đã cáo lão về hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm.



Cụ Nghè Móm thường dạy học vào buổi sớm. Cô Tú săn sóc mọi việc trong nhà cũng vào buổi sớm.



Buổi chiều đến cô Tú đi chợ, làm cơm và mua luôn cả đồ ăn thức dùng cho buổi sớm hôm sau nữa. Cụ Nghè Móm ở nhà nhàn rỗi dùng thời giờ vào việc sao một lá số, gieo một quẻ bói hay là kê một đơn thuốc cho người làng. Có một buổi chiều, một người bạn đồng song cùng ở vùng ấy, nhân bị trời mưa dầm giữ lại nhà cụ Nghè Móm, đã nói với chủ nhân:



- Dăm ba tên học trò nhép này, lấy gì làm đủ sống. Trà tàu, rượu cúc, cây cảnh và hình như bác vẫn chưa bỏ được cái chứng thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản thì phải, lâu nay có đi đâu xa không?



Cụ Nghè Móm cười. Người bạn già rịt mồi thuốc chặt xuống nõ điếu, tiếp:

- Tôi có một chuyện này muốn nói với bác từ lâu lắm, nhưng chỉ sợ bác chê là cô lậu.



Cụ Nghè Móm ngừng tay mài hòn son trong đĩa, chăm chăm nhìn bạn.

- Bây giờ tổ chức những cuộc chơi thả thơ, ý bác nghĩ thế nào?



- Cũng khó lắm. Hồi tôi còn tại chức, có lúc thì tôi đánh thơ ở nhà, có lúc thì lên quan Đốc trên tỉnh, không mấy tháng là không có một cuộc hội họp. Mà tôi nghiệm cái giống thả thơ càng hay chữ càng hay thua cay. Có lắm đêm tôi mất đến mười mấy quan tiền đồng mà không trúng lấy được một chữ.



- Cụ Phủ dạy như thế thì nhầm rồi. Cứ gì phải được tiền. Vả chăng, người thua có mấy khi là người dốt chữ đâu, và kẻ được thường cũng không dám tự đắc lên mặt sành thơ. ở vùng đây lắm người cũng muốn chơi lắm, nhưng tự xét không đủ tư cách để thả thơ cho ra hồn, nên chưa có cái lối hội họp như vậy. Tôi muốn được biết ý cụ về việc thả thơ này.



- Tôi bỏ đã lâu ngày rồi. Nếu có định chơi thì phải đọc lại thơ mất một dạo, và vòng cho đủ chữ một túi thơ, kể cũng công phu lắm. Điều tôi ngại nhất nữa, là bây giờ tuổi tác rồi. Bây giờ lại bày trò vui đó, e có mệt cho tinh thần. Đã thả thơ thì phải ồn ào mới vui. Còn trẻ trung gì cho nó cam. Mà cụ tưởng ở đây ai đánh nổi. Chữ nghĩa đâu mà làm cái vốn. Họ dốt chữ, họ thua thơ, mình ăn tiền của họ đã không lấy gì làm hứng thú mà lại còn mang tiếng rất nhiều nữa.



- Nếu mình cứ thả thơ luôn ở đây, những người ở vùng quanh sẽ tới. Tôi sẽ rao lên. Cụ kêu người đây ít chữ; kệ họ. Họ mất tiền mà được lạm dự vào làng thơ phú, họ phải lấy làm sung sướng. Mà bọn nhà nho nghèo như anh em mình, nhiều lúc cũng nên cho họ chơi trèo một chút, miễn là họ phải trả tiền. Tục lệ ở hương thôn, khi bán nhiêu bán xã, mua quan viên cũng không ra ngoài cái ý đó. Vậy bác để tâm đến việc này. Từ mai bác đọc lại các tập thơ cổ, tìm sẵn những chữ "vòng" chữ "thả" thì vừa. Cô Tú nhà ta giọng trong và ấm tiếng lắm.



- Để tôi xem xem có nên không đã.



- Cụ không phải nghĩ nữa. Vậy xin đính ước với cụ đến tuần trăng sau. ừ, bây giờ chúng ta là cuối hạ. Bắt đầu sang thu mát trời, thả thơ thì tuyệt. Nhà lại ở bên sông, còn chờ gì mà không làm một cái nhà bè trên mặt nước. Kể cũng đủ di dưỡng tính tình và đỡ cho khoản nhật dụng.



Khách đi rồi, cụ Nghè Móm nghĩ đến hồi trước, cụ đi lại với bạn đồng liêu, những lúc thừa nhàn, không đánh tổ tôm, chơi cờ tướng, thì lại bày một cuộc thả thơ hay là leo lên một đôi trái núi đá. Cái buồn thấy đời là ngắn là ít, chớm qua lòng một ông già đã muốn yên phận với chữ bài.



Bắt đầu từ hôm ấy, những tập thơ cổ được giũ lớp bụi ngầu và ra khỏi cái níp sách sơn son. Cụ Nghè Móm bắt đầu nghiền lại tập thơ của người xưa. Đường thi, Tống thi, Minh thi; đọc đến một bài, đọc hết một câu, gặp được một chữ đột ngột, cụ ngừng lại, ghé mắt kém vào mặt chữ nhỏ như con kiến, cụ vắt tay lên trán, nghĩ ngợi và lẩm bẩm. Rồi cụ ngồi nhỏm dậy, sao cả bài thơ ấy vào một cuốn sách giấy bản mới mẻ. Nhưng thường cụ chỉ trích lấy một câu ở những bài thơ đọc rất kỹ lưỡng đó. Ngày năm câu, ngày ba câu, một ngày gần đấy, cuốn sách đã đặc những dòng chữ thảo chép những câu thơ rút ở cổ thi. Cô Tú theo lời cha dặn, đã đi mua sẵn rất nhiều tờ giấy tàu bạch ra rọc giấy ra từng mảnh dài bằng chiếc đũa và ngang to bằng hai ngón tay. Đám học trò nhỏ, đầu còn để cái chỏm dài lẩn thẩn hỏi cô Tú, cô vui vẻ trả lời:



- Đừng nghịch, thầy trông thấy, thầy mắng chết. Giấy này để làm gì à? Thầy sẽ viết những câu thơ cổ vào đấy để bày ra giữa chiếu những lúc thả thơ.



- Thả thơ? Có làm thơ thì có, chứ thầy và các anh ấy có nói thả thơ bao giờ.



Cô Tú vốn yêu những cậu học trò nhỏ tuổi của cha mình như một người chị lớn đối với em út, cô không khỏi nín cười để giảng:



- Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ mà chỉ... có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị lấy một câu làm thí dụ thì các em rõ ngay. Các em biết câu: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần" đấy chứ? ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ ấy. Và định vòng chữ "hướng" ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã ... Tần". Và khi ngâm câu thất ngôn có sáu chữ ấy lên thì thường phải ngâm: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã. .. "vòng"... Tần"; Chữ "vòng" đây thay vào chỗ để trống. Bây giờ mới nói đến những chữ "thả" ra. Thí dụ thầy thả năm chữ: cố, tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường chỉ thả có năm chữ thôi.



Tụi trò nhỏ thấy chuyện thả thơ ngộ nghĩnh, nghe lấy làm khoái trí, trố mắt nhìn cô Tú, giục cô nói tiếp.



- Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh. Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng. Nhưng mà đây là chuyện của người lớn tuổi. Các em ra tập bài đi, bao giờ thành người lớn rồi sẽ biết.



- Nhưng mà biết thế nào là được, là trúng hả chị? Lạy chị giảng cho một chút nữa, rồi các em xin đi ra bục học bài ngay, để chị rọc giấy.



- Trên đầu mẩu giấy con này, thầy sẽ viết cái chữ thả, thí dụ là chữ phản. Rồi thầy cuộn tròn đầu giấy lại, giấu chữ ấy đi, chỉ còn độ hở cái khoảng viết mấy chữ: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần", với một cái khuyên tròn vẽ thay vào chỗ trống. Nếu trong năm chữ cố, tại, vọng, phản, hướng em chọn lấy chữ phản mà đánh mà làm thành ra câu: "Quân hướng Tiêu Tương ngã phản Tần", thì là em trúng đấy. Đặt một tiền thì được ăn thành ba tiền...



Tụi trò nhỏ nhìn nhau cười khúc khích và khi bị cô Tú xua đuổi lên nhà học trên đều ngoái cổ lại cười, nói một loạt với người con gái lớn của thầy học:



- Bao giờ các em nhớn, học giỏi được lên tập bài trên trường quan Đốc tỉnh, mỗi khi về thăm lại thầy, chị thả thơ cho các em đánh với nhá!



Đêm mười bốn tháng tám là cuộc thả thơ lần thứ hai của cụ Nghè Móm. Lần trước thả vào thượng tuần tháng bảy; lần này cụ Nghè Móm chọn ngày mười bốn, có người hỏi tại sao không để đến ngày rằm, cụ nói:



- Trăng mười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn là ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm vừng trăng rằm, người tinh ý sẽ nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn khai trong có một thì.



Những người có chút kinh nghiệm, đều chịu lời ông già nhận xét là chí phải.



Vừng trăng mười bốn lúc chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm đang ngồi làm nhà cái, thả thơ cho hàng chục người con đánh. Người ta đang sát phạt nhau bằng tiền, đem cái may rủi cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước sông thu, tiếng ngâm một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào.



Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều ngồi bên cạnh cha. Cô bận tay đỡ cái túi thơ của cụ Nghè Móm mở lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho làng chọn chữ đặt tiền. Đôi khi có kẻ chọn phải một chữ rất quê kệch mà lại trúng vào chữ ăn tiền, cô Tú tủm tỉm nhìn mãi nhà con đang vơ tiền, chừng như muốn bảo thầm người được tiếng bạc đố chữ đó: "Đấy ông xem, ở đời ăn nhau ở may rủi, chứ chữ nghĩa tài hoa mà đã làm gì, phải không ông?".



Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm thả thơ trên mặt sông đã là một chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn. Nhưng có kẻ ác miệng đã phao lên cái tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để cho con gái lớn gần quá lứa kén chồng.



Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy, không rõ tại đâu, cụ Nghè Móm hay thua luôn. Và bọn đánh thơ thì uể oải vơ tiền được, và buồn nhớ đến một cái bóng người đã mượn ít nhiều tiếng tơ mà tô vẽ nhiều cho lắm buổi đố chữ lấy tiền.

Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following 2 Users Say Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (08-12-11), Thu Phong (08-12-11)
  #7  
Cũ 08-12-11, 05:49 PM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

Đánh thơ




Giữa quãng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoàng Tôn Tuyên hoàng đế, đất Thuận Hóa có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ.



Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời.



Cái thời ấy là thời của Nhà nước Bảo hộ tạm gọi là yên trong cuộc bình định. Nơi quê hương, vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc còn gửi mãi về cái mùi diêm sinh đem từ ngoài bờ cõi vào. Nhưng, mặc kệ, dưới chân một nếp hoàng thành, bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng đàn hát trên mặt nước một con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng đưa ra rất rộng. Thấy thế, một vài ông già mặc áo vải, mỗi lúc chống gậy trúc ra bến, ngắm bóng nắng tàn rụng phía bên tả ngạn sông Hương, đã thốt ra những lời than thở.



Nhưng, giọt lệ già của người mặc áo vải rỏ rơi xuống thì cát nơi bãi sông cứ việc thấm hút và uống cạn. Và có một cái gì vẫn còn lại mãi mãi ở hai bờ sông Hương thì vẫn chỉ là những tiếng hát. Tiếng đàn hát của giai nhân.



Họ là một bộ ba có ba cái tên rất đẹp, rất thơ mộng: một người là Mộng Liên, một người là Mộng Huyền và một người nữa tên là Mộng Thu. ở Huế, những cái miệng tuổi tác đã bắt đầu theo thị hiếu mà nói luôn luôn đến ba cái Mộng xinh kia và luôn luôn tấm tắc: "Thần kinh hữu tam Mộng".



Giữa cái thế giới đàn sáo của thành đô, ba cái Mộng xinh đẹp mỗi đêm rải rác ra mọi bến đò tản mát ở dọc sông Hương, những cái sở đắc về thanh và sắc của mình.



Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ trôi một mình theo những cái xoáy nước yếu đuối. Mỗi đêm, ba cái Mộng gõ một nhịp phách, bấm một dây tơ và để rồi phá cười lên vài trận. Để cho cái xã hội đàn ông mặc áo xanh ẩm ướt phải thèm muốn. Thế rồi trong một đêm tốt đẹp, có một ông Phó Sứ giữ lăng, đã đứng lên làm chủ cho một cái Mộng. Mộng Liên đã về hẳn với quan Phó Sứ.



Một cái miệng cười, mười ngón tay tháp bút trước kia là của chung thiên hạ, bởi vì nó không có sở cứ, bây giờ đã trở nên của riêng một nhà. Cặp vợ chồng ấy là một lứa đôi tài tử.



Ông bà Phó Sứ giữ lăng không mấy khi ở yên một chỗ.



Cái nghề của họ buộc họ phải xê dịch luôn luôn và mãi mãi. Suốt một dải Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức này.



Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh. Cái chiếu bạc thả thơ của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giầy trên mọi chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ. Họ nhờ vả cổ thi, kiếm ra cũng được rất nhiều tiền. Nhưng cái giống lãng tử cầm tiền thường không nóng lòng bàn tay và có mấy khi họ nghĩ đến sự bảo hiểm cho ngày mai của mình. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa bao giờ nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào.



Quê hương của họ là Cờ bạc và Đờn hát. Nhà cửa đôi lưu đãng ấy gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ. Cái lãi trong đời bấp bênh của họ là ở chỗ nhiều người đã nhắc nhỏm tới cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, mỗi khi lứa đôi chậm tới hay là đã lâu rồi mà chưa thấy trở lại. Người đánh thơ được, người đánh thơ thua xiểng liểng, ai ai cũng đều nhớ đến họ những khi xa vắng. Hình như bấy nhiêu người đều nhận ông Phó Sứ là đáng mặt làm nhà cái cho những buổi thả thơ rất nên thơ; mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn thua từng mấy chục bạc, người ta đều ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều ngâm vang cả nhà, chừng như muốn thi nhau một cái giọng tốt, chứ đồng tiền mất đi hay thu về được gấp ba số đặt, thời có gì là đáng kể. Giữa hai tiếng bạc trên một chiếc chiếu la liệt những mảnh thơ đề, Mộng Liên đêm đêm kề đùi tựa má ông Phó Sứ, lại đánh đàn, lại ca Nam bằng, ca Nam ai.



Có lẽ không riêng gì ở một nơi, mà ở mọi nơi, những lúc sốt ruột chờ mong vợ chồng ông Phó Sứ trở lại với túi thơ, mỗi buổi gần giờ tan buổi hầu, những lúc việc quan thanh thản, bao nhiêu thầy thừa phái ở các ty Phiên, ty Niết và những ông Hậu bổ, Thông Phán tỉnh, Kinh Lịch đã nói những câu:



- Quái lạ, sao cữ này hai ông mụ đó đi lâu quá chưa trở lại thả thơ cho bọn mình chơi hè!



- Đánh thơ của lão Phó Sứ có cái rất thú là được thua chi chi, mình cũng đều lấy làm thích cả. Bởi vì lão biết chọn những câu rất hay mà thả. Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết cả người.



- Chẳng thế mà quan Kinh ngài đã mấy lần phải bán lương non, thua nhẵn.



- Chơi cái gì thì chơi, chứ đến cái lối đánh thơ thả, cái nghiệp những anh đã hay chữ lại thêm tự phụ, là chỉ mãn kiếp thua không còn lấy một đồng một chữ tiền.



- Và có nhiều đứa dốt cay dốt đắng, thì lại mỏi tay vơ tiền.



- Quan bác có biết tại sao không? Đệ cho không có cái nào lợi hại bằng lão Phó Sứ. Hắn lấy ý tứ ra mà dò tiếng bạc của từng người. Nếu lão biết quan bác thích lối thơ liệu, đọc lên âm thanh và niêm luật tròn trĩnh, nhịp nhàng, thế nào lão cũng rình lão thả một đôi chữ rất quê kệch hay là khổ độc. Quan bác mấy khi lựa những chữ quê kệch mà đặt tiền. Vậy nên lão vòng những chữ rất ngớ ngẩn đó. Thế là quan bác mất nghiệp, nếu bữa đó, quan bác lại đặt tiền đến tột cửa. Và lão lại còn bán cho mấy cửa đánh những chữ ngô nghê mà lão biết trước sao mình cũng khinh rẻ.



- Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Ngài nghĩ, tôi đã bắt thóp được một câu do sự vô ý của mụ Mộng Liên. Nguyên hôm ấy, lão Phó Sứ cho thả năm chữ: cầm, thử, đan, thiếp, sầu trong một câu thơ mà lão "vòng" chữ đầu "Vòng tâm duy hữu dạ đăng tri". Kể cũng khó đánh đấy chứ. "Ngọn đèn dầu ban đêm soi tỏ, biết cho tấm lòng gì?" Lòng đàn? Lòng son? Lòng một thiếu phụ? Lòng sầu? Phân vân lạ. Bỗng tôi thấy mụ Mộng Liên ngồi cạnh, nhìn chăm chú vào chữ thả đứng đầu là chữ cầm, rồi mụ thánh thót bấm khẽ mấy tiếng đàn nguyệt. Tôi đánh ngay chữ cầm ngài ạ. Tôi đoán già là lúc ở nhà vòng chữ, chồng đưa đùi cho vợ gối, lão Phó Sứ đã bị tiếng đàn của vợ dạo lên buổi đêm ảnh hưởng nên lão mới thả chữ cầm. Và đánh chữ cầm, thế nào cũng ăn. Hôm ấy tôi đặt hai chục được sáu chục và muốn tỏ ý cám ơn người đánh đàn một cách kín đáo, hôm sau tôi đã mua biếu Mộng Liên một cây đàn nguyệt có bốn cái trục bằng ngà voi nẩy. Đấy, chơi thơ, nhiều khi tâm lý nhiều vào là ăn.



- Tâm với lý gì. Có biết thơ thả, lão Phó Sứ thường mua lại của ai không? Mua của Tào Sắt bên phủ Tuy Lý Vương! Hai ba đồng, tiền công vòng một trăm câu. Thơ Tào Sắt mà thả, thì đừng có hòng mà ăn.



- Này, các ngài có được rõ câu chuyện lão Phó Sứ dám thuê thợ bên Tàu khắc riêng cho mình mấy tấm thạch bản in thành một tập thơ mỏng không? Lão ra khuôn mẫu cho họ in nhiều câu có những chữ lạ, rất ngộ nghĩnh và mỗi khi đem câu đó ra mà thả thực không ai ngờ đến. Nhưng chỉ có khi nào đánh to lắm, lão mới giở đến bí thuật này. Lão tìm đến những quan to và có tiếng là hay chữ, lão mới thả một hai câu thật gay go. Các quan thua, đòi lão phải dẫn chứng cổ thi, lão giả vờ bịt tên sách lại, che kín lề, mép và gáy cuốn thơ, chỉ cho xem đủ cái câu thả đó và đủng đỉnh, tủm tỉm trình với cả làng rằng đó là một câu thơ Tống. Thật là rõ ràng chữ thạch bản, chữ tuy nhỏ bằng con kiến, nhưng đeo kính vào xem, chữ không nhòe lấy một nét. Nhiều người thua cay, thường chỉ tự trách mình xem cổ thi ít quá và tặc lưỡi kêu: "Cổ nhân dùng chữ úp mở uyển chuyển quá đi thôi. Họ cậy có tài, tự cho mình cái quyền hạ những chữ quá lắt léo, đem cái quyền lực của sáng tạo ra mà làm bọn mình đảo điên cả nhận thức và cả tiền bạc nữa. Còn ai biết đằng nào mà lần nữa". ấy một năm lão Phó Sứ dùng lối thả thơ sanh tử như thế độ một đôi lần, đủ gỡ lại những bữa thua to. Chà! Nhưng mà nghĩ lắm lúc cũng tội. Vợ chồng họ nhiều khi thua nhẵn. Lắm bữa không có lấy một chữ tiền mà thửa dây đàn nữa. Và hai ông mụ phải vờ cáo bệnh nằm bệt một nơi có khi đến hàng tháng.



- Cụ Tuần trước ở đây, chơi không được lịch sự, thành thử vợ chồng ông Phó Sứ họ cũng đâm nhờn. Ai đời đi mặc cả với họ mỗi buổi đánh thơ xong, phải đưa cho mình một số nhất định là bao nhiêu, mặc dầu họ thua hay là được. Không những thế, Cụ lại còn quấy nhiễu họ giữa những tiếng bạc lớn. Lấy tiền nhà cái, lúc năm đồng, lúc mười chữ, tẹp nhẹp quá. Hình như Cụ còn chớt nhả với cả mụ Mộng Liên nữa.



- Thì cũng phải lấy hồ chút ít chứ sao? Có thế thì những buổi hội giảng đầu tháng bên tòa bên tỉnh xong, Cụ mới giữ các quan phủ huyện lại cho chớ? Vậy chớ ai trả tiền những mâm rượu linh đình giáo đầu cho mỗi cuộc thả thơ?



- Cái ông huyện Bình Khê, người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ. Ông ta chúa hay vờ vĩnh. Nhà cái chưa thả thơ xong, ông cứ vờ vĩnh giục ồn lên những là lâu và làng đặt tiền chậm như thế thì một đêm, phỏng thả được mấy câu thơ. Thế rồi ông vồ lấy lá thơ đặt ở giữa chiếu, dọa mọi người nếu không đặt tiền nhanh lên thì ông thổi tuột lá thơ ra và xin làng, nếu nghĩ lâu quá, thì đợi đến câu sau hãy đánh vậy. Mỗi lần ông cầm lên đặt xuống lá thơ, cái mẩu giấy tàu bạch cuộn tròn như tổ sâu kèn lại nới giãn dần ra một chút. Và ông đã hé nhìn được chữ gì viết trên đầu giấy, cuốn tròn tận vòng trong cùng lá thơ. Mắt ông ta nhanh như cái cắt. Có lần ông Phó Sứ vòng một chữ bút, ông huyện vờ xin thổi thế nào mà nhìn được cái nét sổ dài. Rồi là có bao nhiêu tiền đem đặt vào chữ bút đến tột cửa! Nhưng, mụ Mộng Liên xem chừng cũng hiểu, nên mỗi lần sau, ông huyện Bình Khê động tay vào lá thơ là mụ lại buông tay đàn, chận lấy giấy và nhìn trừng trừng vào giữa mặt ông huyện có tính gian giảo kia.



Đêm hôm đó người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch. Mọi người tụ tập ở đấy đều lấy thế làm vừa lòng. Vì, ít ra, ở đây, người ta cũng chơi bời có phần được tự nhiên hơn ở trong dinh các cụ. Ông Kinh Lịch là một người trọng cái sạch sẽ của tâm hồn, nói to cùng mọi người là ông không thu tiền hồ. Ông chỉ yêu cầu ai được thơ nhiều nhất thì nên cho người lão bộc nhà ông một số tiền nhỏ mọn để đền lại cái công nó làm dầu, làm đèn, nấu cháo và bưng điếu. Ông Kinh lại còn khẩn khoản với mọi người đừng nên làm huyên náo nhà cửa lên. Ông vui vẻ nói:



- Đã hay rằng vớ được câu thơ hay, ai mà chẳng muốn ngâm vang lên. Thứ nhất lại ngâm vang câu thơ thả mình vừa đánh trúng cái chữ hiểm hóc, thì ai mà bụm miệng được. Một người ngâm, cả làng phụ họa vào, ồn ào bằng vỡ chợ, cái đó cũng là thường tình. Nhưng, tôi xin các ngài biết cho là chúng ta ở trong thành, gần ba dinh Cụ Lớn, mình không nên làm náo động quá. Bình khe khẽ, đủ nghe với nhau thôi.



Cả một lũ con bạc lên mặt tài giỏi, nhìn ông Kinh Lịch cười hóm hỉnh và khoan thai bước vào chiếu giữa. Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây sáp nữa đã gắn sẵn vào đế đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến, chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh, của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng rận. Ông Phó Sứ vừa gỡ túi thơ vừa hỏi làng:



- Dạ thưa, có đánh thơ cổ phong không? Và có đánh chữ chân không?



Một con bạc ít tuổi và chừng như mới tập tõng lối chơi chữ này, hỏi lại:



- Đánh thơ cổ phong? Thôi, nếu thả thơ cổ phong thì anh em ở đây đưa tiền cho ông tiêu hết. Còn đánh chữ chân là thế nào?



Ông Kinh Lịch đang nằm bên khay đèn, ngồi nhổm dậy nói chõ xuống chiếu dưới:



- Cái ông thừa nhà tôi đến hay lẩm cẩm. Đã đi đánh thơ đòi ăn tiền thiên hạ, còn hỏi lục vấn thế nào là chữ chân. Thưa ông, câu thơ bảy chữ, đem vòng chữ thứ bảy cuối cùng cho làng đánh, thế gọi là đánh chữ chân ạ.



- Nếu thế thì đánh cả chữ trắc và cả chữ bằng à? Thôi, xin làng cứ theo như lệ mọi khi mà đánh. Đây, chúng tôi không phải là thi bá, không dám đánh chữ vần, chữ chân.



Ông Phó Sứ và Mộng Liên nhìn nhau cười; vợ chồng có ý bảo thầm nhau rằng làng cũng khôn đấy nên mới không dám trêu vào lối đánh thơ hiểm hóc này.



Lá thơ đầu tiên đã ra khỏi miệng túi gấm vẫn khư khư nằm trong tay Mộng Liên. Cả làng chăm chú nhìn và ngâm ngợi và ngẫm nghĩ. Cái gì mà ".... thượng, mai khai, xuân hựu lão"? Cuối lá thơ thả, có sẵn năm chữ thả viết xương kính: tái, sơn, đình, mộ, Văn. Cả làng ngâm:



- "Vòng" thượng, mai khai, xuân hựu lão.



Vẫn lời cái ông thừa trẻ:



- Tái, sơn, đình, mộ, Văn. Ta đánh chữ tái "Tái thượng, mai khai, xuân hựu lão". Hoa mai... nở trên mặt ngọn ải... xuân lại già nữa.



Nghĩ ngợi lâu, ông thừa trẻ trở nên do dự. Thấy ông Thông phán tỉnh, người có tuổi và vốn sành về môn thơ thả, đánh chữ Văn, ông tỏ ý ngạc nhiên:



- Văn thượng, mai khai, xuân hựu lão. Quái nhỉ! Sao lại Văn?



Rồi ông thừa cứ mân mê mãi cọc tiền, không biết nên đặt chữ gì để ông Phó Sứ phải sốt tiết lên cắt nghĩa hộ cho bằng vẻ lễ phép ngụ nhiều ngạo mạn kín đáo.



- Thưa ngài, Văn là con sông Văn chảy qua đất Lỗ, quê đức Thánh Khổng. "Mai nở trên sông Văn, xuân lại già". Cụ Phán tỉnh đánh thơ như thế, câu đó ngài cho làm lạ lắm sao?



Và, xem chừng cả làng cũng không có một ai đánh thêm được đồng nào nữa, ông Phó Sứ xin làng cho phép ông được thổi lá thơ cuộn tròn để tuyên bố cái kết quả tiếng bạc đầu tiên. Ông đã nhẹ nhàng cầm lá thơ, phồng má định thổi phù một cái. Một vài người vội vàng vứt thêm tiền đặt vào mấy chữ tái, sơn, đình. chỉ có chữ mộ là không ai đánh cả.



Mộng Liên ngồi đánh được một phần ba bản đàn Nam bình*.



Thế rồi tiếng bạc mở.



Và cả làng đều ngã ngửa ra khi đọc rõ lá thơ thả kia là câu: "Mộ thượng, mai khai, xuân hựu lão". Cả làng nhao nhao:



- Ô, cổ nhân dùng chữ ác thật. Hoa mai nở trên nấm mồ, xuân càng già. Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô mà lần, mà đoán.



Ông Phó Sứ trước khi vơ tiền cả làng, vì không ai đánh chữ mộ, ông đã vội trình với làng một trang sách thơ mở rộng. Và tay vừa chỉ một dòng chữ in nhỏ, mồm vừa nói:



- Thưa với làng, câu này lấy ở bài Tọa phóng hạc đình của Từ Dạ.



Bao nhiêu bộ mặt tâng hẩng đều cúi cả vào trang cổ thi và ề à ngâm lại:



- "Mộ thượng mai khai, xuân hựu lão; Đình biên hạc khứ, khách không hoàn". Hay, hay thiệt.



Ông Kinh Lịch đêm ấy thua to. Ông truyền cho người cuốn chiếu bạc và ân cần dặn vợ chồng ông Phó Sứ tháng sau có trở lại thì thế nào cũng phải tổ chức cuộc thả thơ ở ngay nhà ông cho ông gỡ lại. Ông còn nằn nì xin ông Phó Sứ làm quà cho mình tất cả những lá thơ đã dùng đánh suốt một đêm qua. Thấy nhà cái trù trừ, ông Kinh Lịch nói dỗi:



- Có cho, thì tôi giữ làm chút kỷ niệm.



Ông Phó Sứ cười, trao vào tay ông Kinh mấy chục lá thơ đã dùng đến nhầu nát rồi và thắt chặt lại miệng túi gấm còn đựng đến gần trăm lá thơ khác chưa dùng đến còn phong kín cái bí mật một chữ thơ. Rồi nhà cái nhà con chắp tay từ biệt nhau với một câu đính ước: "Cữ thượng tuần tháng sau, xin lại gặp nhau ở đây nữa".



Nhưng ngày thượng tuần tháng sau, ông Phó Sứ và Mộng Liên không trở lại. Rồi quá cữ trung tuần, rồi qua luôn cả cữ hạ tuần. Nhiều khách thả thơ đã dầy công chờ đợi vợ chồng ông như một cái bóng chim như một cái tăm cá.



Một hôm có người ở kinh ra, nói chuyện cùng ông Kinh Lịch:



- Ông Phó Sứ chết ở chân Đèo Ngang rồi. Mộng Liên giờ là người góa và đang lúng túng tìm người giữ cho cây đàn. Số là đi qua Hoành sơn quan, thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la. Ngay chỗ dưới chân ngọn tường ải có chữ "Đệ nhất hùng quan" của đức Thánh tổ ngự phê ấy, ông ạ. Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết đường. Mộ để sát ngay bên đường thiên lý. Cái giống ma trơi này, sẽ thiêng vô cùng. Rồi đây những lúc thanh vắng, những lúc trăng bãi gió ngàn, hồn ma tha hồ mà trêu ghẹo khách bộ hành vô Kinh đấy ông ạ. Cám cảnh cho lão, đâu có bậc thời sĩ quê vùng Ngũ Quảng có làm đôi câu đối điếu. Xin đọc ông nghe:


Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi,

Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.



Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (13-12-11)
  #8  
Cũ 12-12-11, 11:48 PM
Avatar của hoatigon208410
hoatigon208410 hoatigon208410 đang ẩn
CM Tứ Thập Nhất An
 
Tham gia ngày: Oct 2010
Đến từ: Nơi sự sống nảy sinh từ cái chết....
Bài gửi: 3.436
Thanks: 36.522
Thanked 8.963 Times in 3.491 Posts
Gửi tin nhắn qua Yahoo! tới hoatigon208410
Mặc định

Hương cuội




Đứa cháu đích tôn và lũ cháu ngoại đang loay hoay ngoài sân với những đồ đồng ngũ sự lổng chổng trên đám trấu và tro đẫm nước.


Ông chúng, cụ Kép làng Mọc, cũng đang loay hoay với mấy chục chậu lan xếp thành hàng dưới giàn thiên lý.


Trái với thời tiết, buổi chiều cuối năm gió nồm thổi nhiều.


Cơn gió nồm thổi nhẹ, như muốn nhạo cái ông già kia mặc cả một tấm áo trấn thủ bằng lông cừu trắng. Trời nồm nực, bức đến tắm nước lã được, ông cụ Kép mặc áo lông cừu xứ Bắc! Không, đấy chỉ là một thói quen của cụ Kép. Mỗi khi cụ ra thăm vườn cảnh, trong một năm, trừ những ngày hạ ra không kể còn thì lúc nào cũng khoác tấm áo cừu. Mùa xuân, mùa thu, khí hậu ấm, áo mở khuy. Sang đến đông tuyết, cụ cài hết một hàng khuy nơi áo, thế là vừa. Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý.


Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết.


Mợ ấm cả, mợ ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ. Thỉnh thoảng họ ngừng tay để hỏi nhau xem còn thiếu những thực phẩm gì trong cái mâm cơm cúng chiều nay. Lũ con đàn bi bô ngoài sân. Chúng đang đánh bóng ở ngoài sân những lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu. Chốc chốc, lũ trẻ lại mỉm cười, nghển những đầu thưa thớt ít sợi tóc tơ, nhìn vào phía trong nhà cầu, hỏi mẹ chúng:


- Bao giờ cậu mới về, hả mợ?


Không biết nên trả lời con trẻ thế nào cho tiện, mợ ấm cả đưa mắt cho mợ ấm hai.


Ông ấm cả và ông ấm hai, đi làm việc ở tận xa chưa thấy về ăn Tết. Cứ lời những người trong làng có người đi làm việc nhà nước thì được nghỉ những từ chiều hai mươi chín kia mà. Muốn được khuây nỗi mong, hai chị em dâu, người đã đứng tuổi, càng thái đồ nấu cỗ cho thực nhanh. Gớm, những miếng trứng tráng để bày mặt cỗ bát, thài hình miếng trám, sao mà đẹp thế. Đứng bên cạnh mẹ, đứa nhỏ nhất trong đàn con đã thủ thỉ van nài mợ ấm hai:


- Mợ cho con cái miếng mợ cắt hỏng kia nhá!


Người mẹ không nghỉ tay làm việc trên tấm thớt. Lừ mắt nhìn con. Thằng bé vội chạy ra ngoài, sán đến cạnh cụ Kép:


- Ông đang làm gì thế hở ông?


- ấy chết, cháu đừng mó vào hoa của ông. Ông đang thăm xem đúng hôm nào thì hoa của ông nở đủ.


- Ông cho cháu một cái... Cháu xin ông cái lá gẫy kia nhá!


- Cháu không nghịch được những thứ này. Thôi, đi lên trên nhà với ông. Mợ cháu mà trông thấy cháu ra nghịch cây của ông, thì cháu lại phải đòn đấy.


Nhớ đến trận đòn phất trần hôm nọ, vì trót nghịch gẫy mất mấy giò lan của ông nội, thằng bé mặt phụng phịu và hai tay đánh đai vào mình ông già, kéo trĩu cả tấm áo lông cừu. Nó làm nũng ông và quấn quít lấy ông, mong ông sẽ che chở cho, nếu mẹ nó nom thấy nó ra nghịch chậu cây cấm.


Cụ Kép cười khà khà. Rồi cụ lại vạch từng gốc rò lan, xem xét tỉ mỉ đến màng hoa, đến rò lan và thân lá. Hết chậu này đến chậu khác.


Tưởng chừng như cháu mình cũng là một người biết đến chuyện chơi cây, hiểu đến thời tiết trong một năm, có đủ những kinh nghiệm, thói tục và thông minh của người lớn, ông già đã nói với cháu bé:


- Tự nhiên, cuối năm lại nổi gió nồm. Cháu có thấy bực mình không? Ông tiếc cho mấy chục chậu lan của ông quá. Nở hết thôi!


Đứa cháu không hiểu đến ý nghĩa câu than phiền của ông già, ngửng bộ mặt ngây thơ lên, hỏi hai ba lần:


- Hoa sắp nở, sao lại tiếc hở ông?


Cụ Kép nhìn lại cái người bé tí hon đứng với mình trong vườn lan, thân cao không vượt khỏi cái lá lan uốn cầu vồng, cụ Kép đãi đứa cháu ngây thơ một nụ cười rất độ lượng, mắt nhấp nháy kính tuổi:


- Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ. Hoa sẽ nở nhằm vào ngày rằm tháng giêng. éúng vào ngày Tết Nguyên Tiêu. Ông cháu chúng ta sẽ có hoa mà thưởng xuân, cháu đã hiểu chưa? Bây giờ cháu chạy vào gọi bõ già ra đây cho ông bảo.


- Bõ đi ra bờ ao rửa đá cuội từ ban trưa kia ông ạ.


Phải, phía cầu ao trong vườn cụ Kép, một người lão bộc, đang lom khom dúng rổ đá xuống nước ao và sàng sẩy rổ đá như kiểu người ta sàng mẹt gạo. Tiếng đá bị tung lên dập vào nhau kêu sào sạo, khiến lũ cò trắng nghỉ chân trên lũy tre vội bay mất. Bõ già nghỉ tay, nhìn đàn cò sợ hãi bay cao, với nét cười của một người chịu vui sống trong sự an phận.


Bõ ở với cụ Kép đã lâu lắm. Cái hồi cụ Kép còn là một thầy khóa sinh hai mươi tuổi, bõ già đã nếm cơm ở của nhà này rồi. Chính bõ vác lều chõng cho cụ đi thi tú tài. Những việc lớn nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết. Bõ nhớ cả đến ngày giỗ giúi trong họ. Không có bõ nhắc nhỏm có lẽ nhiều lần mợ ấm cả đã bỏ mất ngày giỗ. Bõ già hình như chỉ trải cuộc sống của mình để hằng năm, nhắc nhỏm đến những ngày giỗ trọng và giỗ giúi của gia đình người khác.


- Thưa mợ, đến mười sáu tháng tư này lại là chính kỵ cụ ngoại... Thưa mợ...


Mợ ấm cả, muốn tỏ sự cảm ơn, kín đáo đãi bõ già một miếng trầu kèm miếng cau tươi mềm. Trong cái gia đình yên lặng này, bõ già được thiện cảm của mọi người, không phải vì ỏn thót mà chính vì lòng thẳng thắn. Lắm lúc trông tội nghiệp lạ. Bõ tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như một người có quyền lợi dính dấp vào đấy. Cái hoài bão to lớn của bõ, là lúc trăm tuổi nằm xuống sao được một cái "áo" gỗ vàng tâm thật dày.


Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ. Và, đến những việc nặng, mọi người đều tránh cho bõ già. Công việc thường trong một ngày, có nhiều hôm chỉ thu vào việc chuyên trà tàu và thay bã điếu cho cụ Kép. Thậm chí trong những ngày cuối năm bận rộn như hôm nay, mà bõ già cũng không phải mó tay vào việc gì cả. Làm lợn gói giò chả, vo gạo, đồ đậu xanh làm bánh chưng, làm dầu đèn, lau bàn thờ, nhất nhất không việc gì phải qua tay bõ. Mãi đến trưa hôm ba mươi Tết, cụ Kép mới bảo bõ già đi rửa mấy trăm hòn đá cuội trắng. Nghe thấy bõ già nhận lấy cái việc rất ngộ nghĩnh đó, cả nhà đều cười. Thứ nhất là lũ trẻ con. Cụ Kép vẫn nghiêm trang dặn người bõ già:


- Bõ đem đá ra bờ ao rửa cho sạch. Lấy bẹ dừa mà kỳ cho nhẵn, cho trắng tinh ra. Xong rồi, lựa những viên đá tròn bỏ vào một cái rổ. Những viên đá xù xì, không tròn trĩnh, để một rổ khác.


Bõ già tỏ ý hiểu:


- Thưa cụ, con biết rồi. Cụ lại sắp cho dọn một bữa rượu "Thạch lan hương". Nhưng sao năm nay, lại soạn đá sớm quá? Thưa cụ, con nhớ mọi năm cứ hạ cây nêu xong rồi mới đem cuội ra ngâm kia mà...


- Thế bõ không thấy giời đổi gió nồm đấy à? Thế bõ không biết năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm sao? Tôi đã cho ngâm thóc để lấy mầm nấu kẹo mạch nha từ mấy hôm nay rồi.


Bõ già gật gật...


Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng có một vườn hoa là một việc dễ dàng, những đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi hoa làm gì cho thêm tội.


Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, éại kiều, Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v.v... Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:


- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm, ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.


Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và rò đẫy, hoa có khi đậu được đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.


Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.


Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.


Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo.


Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế, mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:


- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại lợi chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lợi chậu Mặc lan thôi.


Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất vui sướng vì họ tin đã làm toại được sở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào rò lan đen, cụ Kép lại xuýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình.


Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo mới nguội.


Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa.


Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao thừa.


Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời. Năm nay, trời giao thừa lành.


Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa.


Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:


- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng, treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.


Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:


- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.


- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy nút lại không có rượu bay!


Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.


Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối. Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.


Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như có ý theo dõi luồng hương thơm đang thấm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.


- Dạ, xin rước các cụ.


Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đề úp lòng bàn tay vào nhau thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trước đi. Tiệc rượu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng thèm say lắm.


- Trời lạnh thêm chút nữa, uống Thạch lan hương mới đúng phép, chủ nhân ạ!


Đáp lời cụ Cử Lủ, cụ Kép vuốt râu cười nói:


- Chính thế. Nhưng đệ sợ chờ được lạnh đến, thì hoa vườn nhà tàn mất. Trông kẹo mạch nha không đông, còn dính vào lớp đá lót, đệ cũng biết là không được khéo lắm. Trời nồm biết làm thế nào.


- Này cụ Kép, kẹo đá thơm ngon đấy. Chỉ hiềm có mùi ung ủng pha vào hương lan. Chắc kẹo nấu bén nồi, khê và thêm không được đông nên mới có tạp vị nhiễm vào.


Sau mấy câu phê bình về tiệc rượu, tỏ ra mình là người biết thưởng thức những vị thanh lương đạm bạc, bốn cụ đều xoay câu chuyện sang phía thơ văn.


Cụ Tú người cùng làng với cụ Kép mở đầu câu chuyện làm thơ.


- Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Đệ nghĩ dược một đôi câu đối. éể các cụ chữa cho mấy chữ. Chiều nay sẽ viết luôn vào giấy hồng điều để xin phép dán thêm vào cổng nhà.


Ba cụ cùng cạn chén một lúc, cùng nói một lúc:


- Cụ Tú hãy cạn luôn ba chén rồi hãy đọc đôi câu đối mới. Câu đối của cụ còn ai mà hạch nổi chữ nào. Cụ nói gì mà khiêm tốn vậy... Chúng tôi xin nghe.


Chờ cụ Tú dặng hắng lấy giọng, mỗi cụ đều bỏ vào mồm những viên kẹo mạch nha đá cuội ướp hương lan. Những nhân đá đánh vào răng kêu lách cách. Mỗi ông già đọc một đôi câu đối.


Rồi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế cho tàn hết buổi chiều.


Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của buổi chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Bõ già, chiều mồng một Tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rượu ngâm thơ lây cả sang người bõ.


Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.


Những vò rượu vợi dần. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu.


Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Lũ cháu nhỏ, nấp sau cột nhà, muốn chạy ra xin bõ già phát cho chúng những hòn cuội đã nhắm rượu xong rồi kia.

Signature:
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to hoatigon208410 For This Useful Post:
phale (13-12-11)
Trả lời


Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của mình

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 03:44 PM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.