|
#1
|
|||
|
|||
Chùm thơ Xuân -2013
Chùm thơ dự thi của Nguyên Xuân bắt đầu bằng bài thơ tặng cho một người, chỉ viết để tặng và Nguyên Xuân nghĩ rằng tốt nhất nên treo vào trang dự thi chắc được nhiều người đọc hơn và Nguyên ước Xuân sẽ ứng nghiệm. Nhưng lại hẹn với người đó đi chơi Đường hoa Nguyễn Huệ nên viết thêm Đường Xuân và thế là không dừng lại được đến khi BTC Moon thổi c̣i th́ bắt buộc phải top lại. Tiếc ngẩn ... Cô Quỳnh nói tranh thủ chế bom, vậy mà Nguyên Xuân không biết quả bom nào của Cô Quỳnh để tháo ra xem bí kíp nên cuối cùng th́ tự chế vậy. May quá trời ... Giờ đem treo vào trang cho dễ t́m. TX 2013 - 07 NGUYỆN ƯỚC XUÂN (Tặng TN với lời chúc hạnh phúc) Bất chợt mùa sang … bỗng một ngày Xuân trào khúc nhạc thả nồng say Đào xinh hé nụ bung đài trổ Én nhỏ chao ḿnh vỗ cánh bay Nhớ thuở trăng thề nương cội liễu Mơ thời biển hẹn nắm bàn tay Em nào muốn thốt lời chia biệt Chỉ ước cùng anh trọn kiếp này. 14/1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 10 ĐƯỜNG XUÂN Vẳng tiếng nàng xuân hát dịu dàng Mây hồng nhẹ lướt nhạc dồn vang Mưa quàng hạnh phúc nhành tươi mượt Nắng dệt niềm tin nụ óng vàng Gửi bạn bùa yêu say chất ngất Dâng đời nhựa sống trỗi mênh mang Vầng dương rực rỡ soi ngày mới Thả mộng đường hoa bước ngỡ ngàng. 17/1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 12 EM LÀ MẮT BĂO Em là mắt băo giữa trùng khơi Đă được b́nh yên suốt một thời Đậu bến sông xuân thuyền ngóng đợi Căng buồm mạng ảo gió rong chơi T́nh yêu dữ dội như ḷng biển Hạnh phúc long lanh tựa ánh trời Cuộn chảy qua tim ngàn đợt sóng Nên trào giông tố mộng đầy vơi. 20/1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 15 MÙA XUÂN CỦA TÔI Ủ giữa tim tôi một đóa hồng Xuân bừng nắng gội hết sầu đông Chiều thu rạo rực chờ hương ngát Sớm hạ nôn nao đợi tóc vồng Những tưởng thuyền trôi đời lặng lẽ Đâu ngờ sóng cuộn biển mênh mông Bài thơ gói trọn niềm nhung nhớ Ngọn lửa em trao thật ấm nồng. 20/1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 16 DUYÊN QUÊ Xuân hồng rải ngọc khắp quê hương Áo trắng tung bay ửng nụ hường Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt Mây sà đậu xuống dáng đào thương T́nh thơ dệt mộng ngời khuôn lá Nắng lụa ươm hoa rực nẻo đường Thiếu nữ cười duyên nghiêng nón thẹn Trăng vành bất chợt níu tơ vương. 22/1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 21 NẮNG XUÂN Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời Nắng ḥa xuân gội sóng đầy vơi Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời X̣a nước rải xuân trao nắng ngọt Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười. Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải Ngọt nắng trao xuân rải nước x̣a Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa Vơi đầy sóng gội xuân ḥa nắng Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà. Tháng 1/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 35 NÀNG XUÂN Trước ngơ nàng mai khoác lụa vàng Nghiêng ḍng thác đổ đón mùa sang Hoa x̣e cánh điệp chồi duyên dáng Nụ khép t́nh thơ lá điệu đàng Tạo thế cầu mong nhà phúc thịnh Vươn cành ước nguyện nước an khang Nồng nàn tỏa sắc dâng hương đượm Hiến trọn hồn xuân nắng rỡ ràng. 10/2/2013 Nguyên Xuân TX 2013 - 37 DU XUÂN Xuân về rạo rực cả trời xanh Én nhỏ nghiêng chao, vượng khí lành Đào bích ươm hoa chờ nắng đượm Mai vàng ướp nụ đợi trăng thanh Qua hồ Lục Thủy nh́n Thê Húc Lội biển Lăng Cô nhớ Ngũ Hành Xúc động Hàng Dương, vui chợ Nổi Hạ Long, Yên Tử ... Lỡ sao đành? 20/2/2013 Nguyên Xuân Lần sửa cuối bởi nguyenxuan; 08-04-13 lúc 09:37 AM |
#2
|
|||
|
|||
Xin chúc mừng trùm của “trùm khủng bố”!
|
The Following 5 Users Say Thank You to kiều thành For This Useful Post: | ||
#3
|
|||
|
|||
CẢM NHẬN BAN ĐẦU
VỀ 3 BÀI THƠ THUẬN NGHỊCH ĐỘC Có lẽ đây là kỷ lục lần đầu tiên trong một cuộc thi thơ đường luật trên NET lại có đến xấp xỉ 10% bài dự thi là viết Thuận nghịch độc, một trong vài thể thơ khó, kén người chơi, người đọc nhất hạng. Trong 4/43 bài thơ dự thi viết TNĐ đă nói trên có tới 3 bài được chọn vô Chung khảo với số phiếu tuyệt đối 3/3. Sự thật này gây cho tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng cũng có phần e ngại, bởi tŕnh độ của bạn thơ lên cao đến thế không biết ḿnh có đủ khả năng thẩm định hay chưa? Cũng may, trong những ngày đầu phát động cũng có một vài tranh luận nho nhỏ và chúng tôi, những thành viên được vinh hạnh mời tham gia BGK đành vừa bào chữa vừa tự trấn an ḿnh bằng cách nh́n nhận rằng với "thời gian có hạn", bằng "tŕnh độ có hạn" cố gắng hết sức để đánh giá "cái vô hạn của kiến thức" trong các bài dự thi một cách công tâm. Thật sự khó khăn cho chúng tôi ngay từ ban đầu bởi các bài dự thi năm nay đều viết khá nhuyễn. Hầu hết các tác giả đều nắm được lư thuyết khá vững cũng như hiểu rơ gu của đường luật Cổ Mộ phái. Phần lớn các bài viết đều phối thanh tốt, tṛn vận, đảo thanh vần rất ít điệp thanh, điệp vần và hiếm gặp một số lỗi hay bệnh. Việc chọn 10 bài vô Chung khảo phải trải qua sự đắn đo cân nhắc hết sức kỹ lưỡng và rất may là sự lựa chọn của 3 thành viên trong BGK không sai khác nhiều lắm. Thực tế ngoài một bài thất luật 1 chiều nghịch (do t/g vô t́nh quên để ư rà soát lại) có thể nói hầu hết bài thơ dự thi đều khá hay, chọn bài này hay bài khác vào chung khảo cũng chỉ chênh nhau một 10 một 8. Dù sao kết quả đă công bố cũng là mực thước tương đối được thừa nhận. Kết quả cuối cùng vẫn c̣n ở phía trước, v́ vậy tôi xin chia sẻ với bạn đọc vài cảm nhận của tôi lần lượt về 3 bài TNĐ đă nói trên theo đúng thứ tự mà BTC đă đánh số (chưa hề có ngụ ư xếp hạng ở đây). Tôi xin được phép nhận xét chung v́ cả 3 bài đều thiên về cảnh sắc, đều có sự đầu tư công phu trong việc chắt lọc ngôn ngữ chắc hẳn tác giả của chúng phải là những người có năng lực viết bẩm sinh, có chiều sâu suy nghĩ và vốn sống khá dày dạn. Những năm gần đây, số lượng các tác giả viết TNĐ, họa thơ TNĐ cũng như số lượng bài thơ viết theo lối TNĐ ngày càng nhiều thể hiện trào lưu t́m ṭi, khám phá khá phát triển nhưng cũng mang lại nỗi buồn cho các nhà thơ, nhà phê b́nh và người đọc bởi đa số viết chưa tới. Phần lớn các bài thơ TNĐ trên NET bị gượng ép câu chữ, g̣ uốn nghĩa đến mức gây khó chịu cho người đọc. Nhẹ nhất th́ cũng khổ độc hoặc lỗi phách... NẮNG XUÂN Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời Nắng ḥa xuân gội sóng đầy vơi Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời X̣a nước rải xuân trao nắng ngọt Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười. Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải Ngọt nắng trao xuân rải nước x̣a Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa Vơi đầy sóng gội xuân ḥa nắng Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà. Bài NẮNG XUÂN có không gian trải rộng, một bức tranh xuân với toàn cảnh thiên nhiên từ hương vườn cỏ nội lá hoa đến biển trời sóng nước... Tất cả cùng ḥa quyện trong làn nắng ấm chan ḥa làm lay động ḷng người "Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng". Đó chính là điểm nhấn của bài thơ, nó thoát hẳn ra khỏi sự miêu tả cảnh vật thông thường. Ngoài ra một số từ nhân cách hóa rất gợi như: nà nuột, gội, bừng, trổ, trải, rải, ươm... dù đâu đó đă nhiều t/g vận dụng, nhưng t/g đưa vào bài thơ rất khéo léo, ư vị và không trùng lắp nhằm tạo dựng một phong cách riêng. Cặp từ láy "vời vợi", "ngời ngợi", được đảo ngữ một cách sáng tạo, ít thấy nhưng quả thực vẫn rất sáng nghĩa chứ không gượng ép như một số từ của nhiều bài viết khác trên NET. Ba dấu nặng ở cuối các câu 3, 5, 7 (một kiểu thượng vỹ, theo một số tài liệu) chiều thuận và một lỗi thanh ở câu 2 chiều nghịch tạo một nét duyên như chiếc răng khểnh của cô gái xuân th́. SẮC XUÂN Vàng rực sắc mai nắng ngập đầy Ngát thơm nồng ấm má hây hây Vang âm trống hội vào thôn xóm Rạng ánh xuân th́ đến đó đây Nhang khói quyện ḥa hương tỏa cuộn Rượu trà nâng chúc ư mê say Tràn dâng chữ nghĩa t́nh ngây ngất Làng bản kết thân măi tháng ngày. Ngày tháng măi thân kết bản làng Ngất ngây t́nh nghĩa chữ dâng tràn Say mê ư chúc nâng trà rượu Cuộn toả hương hoà quyện khói nhang Đây đó đến th́ xuân ánh rạng Xóm thôn vào hội trống ấm vang Hây hây má ấm nồng thơm ngát Đầy ngập nắng mai sắc rực vàng. Bài SẮC XUÂN cũng là một bài thơ rất hay dưới ng̣i bút có vốn sống phong phú và mang đậm bản sắc vùng miền. Nổi bật là có sự ḥa trộn, giao lưu văn hóa Kinh–Thượng (thôn xóm–bản làng). Độc giả dễ dàng đoán biết tác giả đến từ Tây Nguyên và không phải là môn sinh CM phái chính thống bởi sự phối âm và đảo vần chưa được chú ư. Nhiều lỗi "lưng ong" (theo lư thuyết của Cổ Mộ phái) và chiều nghịch có hai vần "trầm b́nh thanh" (dấu huyền) liền kề ở câu 1 và câu 2 phạm một trong những điều kỵ. Tuy vậy, những lỗi này luôn nhận được sự cảm thông của bạn thơ và cả độc giả bởi sự khó thể hiện của một bài thơ TNĐ. Đặc biệt, phách thơ truyền thống (4/3 hoặc 2/2/3) không bị phá vỡ đă làm tăng hiệu quả nhịp điệu của bài thơ. Nội dung bài thơ cũng rất có giá trị khi thơ gắn liền với cuộc sống buôn làng, mùa xuân, lễ hội. Chỉ tiếc là ché rượu cần, nhịp chiêng, tiếng đàn T'rưng và bóng dáng của các cô sơn nữ... bị giới hạn bởi khuôn khổ ngôn ngữ mà người đọc chỉ có thể kết nối đến bằng sự liên tưởng. XUÂN Xuân hoà nghĩa quyện thắm đời xuân Toả sắc thêm hồng rạng nét xuân Xuân đến cảnh ngời bông hé nhụy Gió lồng hương dịu vẻ tràn xuân Xuân dào dạt ư khơi nồng rượu Mắt chứa chan t́nh ngấm đượm xuân Xuân ánh trải đều soi sáng măi Xuân đầy nguyện ước mộng tṛn xuân. Xuân tṛn mộng ước nguyện đầy xuân Măi sáng soi đều trải ánh xuân Xuân đượm ngấm t́nh chan chứa mắt Rượu nồng khơi ư dạt dào xuân Xuân tràn vẻ diụ hương lồng gió Nhụy hé bông ngời cảnh đến xuân Xuân nét rạng hồng thêm sắc toả Xuân đời thắm quyện nghĩa hoà xuân. Bài XUÂN có sự khác biệt bởi kết hợp nhiều h́nh thức nghệ thuật. Có thể nói đến nay, TNĐ một vần duy nhất chưa xuất hiện hay chí ít th́ cá nhân tôi chưa từng bắt gặp. Điệp từ "XUÂN" được lặp đi, lặp lại khá nhiều, có câu đến 2 lần, nhưng không nhàm. Sự phối thanh, chắt lọc ngôn ngữ được đầu tư khá công phu, không hề vướng thi bệnh. Về mặt nội dung, bài thơ rất đạt khi biết liên kết giữa xuân với đời, xuân t́nh, xuân nghĩa, cùng với nét xuân, sắc xuân, vẻ xuân, ư xuân... khắc họa thành một mùa xuân mộng ước. Xuân được cảm nhận bằng mắt, ngấm như men rượu, thấm đượm và lan tỏa... Khuyết duy nhất của bài XUÂN là chưa khai thác hết vẻ đẹp toàn bích của các yếu tố tạo nên cảnh xuân, ngoài hương, hoa, gió vẫn thiếu màu xanh của lá, sự lung linh của nước, sức lan tỏa của nắng, phong thái nhàn hạ của mây... Tất nhiên, đ̣i hỏi th́ luôn "vô hạn" và sự thể hiện bao giờ cũng dừng ở mức "hữu hạn" và tôi rất bằng ḷng với mức "hữu hạn" này. Cần Thơ, ngày 23 tháng 3 năm 2013 Nắng Xuân |
The Following User Says Thank You to nguyenxuan For This Useful Post: | ||
Phidiep5 (09-04-13)
|
#4
|
|||
|
|||
CẢM NHẬN VỀ CÁC BÀI CHUNG KHẢO Bài 1: TX 2013 - 01 XUÂN MƠ ... Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi Hạnh phúc giao thoa giữa đất trời Vạn cánh hoa xinh ngào ngạt nở Muôn làn gió mát nhẹ nhàng rơi Tim hồng hóa chữ t́nh lên tiếng Ư đẹp thành thơ nghĩa kết lời Nắng tỏa ngàn phương đời rộn bước Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi. Có người cho rằng viết Thủ vĩ ngâm (TVN) dễ hơn TNBC thông thường bởi không những ít hơn một câu mà c̣n ít hơn hẳn 1 vần v́ câu đầu và câu cuối hoàn toàn lặp lại. Tôi không đồng t́nh với quan điểm này bởi lẽ, câu lặp lại ấy phải đạt được độ khéo léo để vừa gợi mở (ở câu mở đề) lại phải mang ư nghĩa tổng kết hay chốt lại ư toàn bài (ở câu kết). Nếu chỉ nghĩ đơn giản là câu 8 lặp lại câu 1 là coi như thành TVN th́ quả là một sai lầm. Sự thật là trên thi đàn hiện nay nhan nhản các bài Thủ vĩ ngâm sơ sài như vậy. Thừa nhận rằng tôi ít viết TVN (trừ khi xướng họa với các bạn gần xa), bởi làm biếng suy nghĩ. Nhiều năm giao lưu ngoài đời, trên mạng, hay những lúc nhận lời tham gia BGK vài ba lần trên một số Diễn đàn tôi cũng ít được đọc các bài TVN ưng ư. Tuy nhiên, lần này bài "XUÂN MƠ..." đă thực sự chinh phục tôi ngay từ những ngày đầu khi nó được post lên Diễn đàn. Ban đầu, tôi bị ám ảnh hoài trong suy nghĩ về câu "Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi" có đạt nghĩa khi ở cả hai vị trí hay không? Khi ở phá đề, t/g như cảm thấy ḷng xuân lay động trước cảnh đất trời vào xuân khi mới nh́n thấy, nh́n bằng mắt th́ chưa đă thèm, nên không cầm ḷng được t/g phải "vin cành xuống" để được chạm vào "mùa xuân" để tận hưởng hương vị xuân. Thật tuyệt! Người thơ được thỏa măn và tôi, người đọc cũng được thỏa măn. "Vin cành" nhưng có hái lộc xuân không th́ chỉ chính t/g mới biết được, c̣n người đọc th́ cứ tự do thả hồn bay bổng theo hướng nghĩ của mỗi người. Cái chất nhân văn, cái chất lăng mạn c̣n để mở là một trong những nét độc đáo của các tác phẩm văn chương hiện đại. Khi ở vị trí kết bài, sự lặp lại không c̣n mang tính gợi mở mà đă đúc kết thành triết lư sống, khẳng định cho mọi người thấy trong cuộc đời, đôi khi thông qua hành động, việc làm cụ thể mà chúng ta có thể t́m thấy hạnh phúc không định trước. Lộc biếc không chỉ đại diện cho mùa xuân của đất trời, cỏ cây hoa lá mà c̣n là một niềm vui thầm kín, hạnh phúc to lớn hoạc b́nh dị mà tác giả ư nhị giấu vào thơ. Khi tâm hồn ḥa quyện với thiên nhiên th́ những tưởng hạnh phúc càng được nhân lên gấp bội. Ngay ở câu thừa đề, ư tưởng ấy đă được t/g nhắc đến "Hạnh phúc giao thoa giữa đất trời". "Vạn cánh hoa xinh ngào ngạt nở Muôn làn gió mát nhẹ nhàng rơi" T/g sử dụng từ láy "nhẹ nhàng" làm cho lỗi tiểu vận ở câu 4 như bị che khuất. Thiên nhiên mở cửa xuân ra đón tâm hồn, có chồi biếc, hoa đẹp, hương thơm và gió nhẹ. Ḷng xuân cũng v́ vậy mà ḥa quyện để chữ gửi t́nh người, ư kết thành thơ, nghĩa giục cho "ngọc thốt" (Nguyễn Du): "Tim hồng hóa chữ t́nh lên tiếng Ư đẹp thành thơ nghĩa kết lời". Bố cục chặt chẽ, ư tưởng tinh tế, câu chữ chắt lọc và sự phối thanh nhuần nhuyễn làm tăng tính nhạc trong thơ chứng tỏ t/g đă thầm kín gửi gắm rất nhiều tâm sức trong bài thơ. "Nắng tỏa ngàn phương đời rộn bước Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi" Khi đất trời đang tràn ngập ư xuân, làn nắng xuân dịu dàng trải thảm lụa vừa đủ tỏa ánh lung linh, trang điểm cho mùa xuân diễm lệ. Vẻ đẹp bên ngoài qua nghĩa đen dù có lộng lẫy cũng không thể lấn át được vẻ đẹp tiềm ẩn trong nghĩa bóng. "Nắng tỏa ngàn phương" trong bài thơ chắc hẳn không chỉ là nắng thông thường. Đó phải chăng là bao niềm vui tràn ngập, xúc cảm chan ḥa đang đến không chỉ với một người mà cho mọi người (ngàn phương). Và khi hạnh phúc vừa t́m thấy được chia sẻ th́ nỗi riêng đă trở thành hạnh phúc chung, sự giản đơn b́nh dị đă trở nên lớn lao. Cái tựa đề "XUÂN MƠ..." cũng đă đặt cho độc giả một sự suy luận. Phải chăng hạnh phúc kia thật sự c̣n đợi chờ đâu đó? Một điểm khác khiến tôi rất có cảm t́nh với bài thơ là tác giả dùng từ ngữ rất b́nh dị, ai đọc cũng hiểu, chứ không cầu kỳ lên gân bởi các từ cổ, từ Hán Việt kêu như chuông mà nghĩa th́ sáo rỗng. Chúc tác giả thành công trong cuộc thi này nói riêng và trong sự nghiệp nói chung. Bài 2: TX 2013 – 02 MƯỢN... Mượn cảnh giao mùa tỏ ư thơ Mượn xuân cánh nhạn nối đôi bờ Mượn hoa thắm đỏ tô vườn mộng Mượn nắng tươi hồng trải bến mơ Mượn khúc đ̣ đưa da diết gọi Mượn câu ví dặm xốn xang chờ Mượn đời cái kén tơ ḷng nhả Mượn kiếp dương trần chữ vẩn vơ. Vừa đọc bài thơ là có ngay cảm giác "khó chịu" và phản ứng tự nhiên của tôi là rờ lại bóp v́ rất ngại bị "mượn tiền"... Không phải thế, t/g không phải là "Chúa Chổm" thời hiện đại mà là một thi sĩ đang muốn mượn cảnh diễn tả nỗi ḷng. Thật vậy, ngay câu mở đầu và cả hai câu kết đều cho thấy rơ điều này. Phải chăng đó là điểm nhấn của bài thơ, là sự trăn trở đắng cay, chua xót trước bao khó khăn, nghịch cảnh trầm luân trong bể khổ? Cái "kiếp dương trần" này cũng chỉ là "cơi tạm" mà ta "vay mượn" chứ nào phải của ta, bởi biết bao cố gắng, nỗ lực, khát khao vươn lên (nối đôi bờ, tô vườn mộng, trải bến mơ), nhưng cuối cùng cũng chỉ c̣n biết mượn con chữ, vần thơ, trải tâm sự với đời để mong t́m được người tri kỷ (tơ ḷng nhả, chữ vẩn vơ). Nếu không bị giới hạn bởi khuôn khổ của bài TNBC chắc t/g c̣n muốn "mượn" nhiều thêm nữa bởi chẳng biết chừng nào mới đủ! Rất thông cảm và hiểu t/g là một cây viết thơ TNBC ĐL cứng cựa, nhưng v́ đang trong một mớ tâm sự ngổn ngang, nên sự sắp xếp ư tưởng chưa đạt hiệu quả tối ưu. Có vẻ như, nếu đổi chỗ câu 1 và câu 8 th́ bài thơ thuận ư hơn? Việc trùng lắp ư ở câu mở và 2 câu kết cũng làm hạn chế một phần giá trị của bài. Cấu trúc thơ cũng không tránh khỏi lỗi b́nh đầu mặc dù t/g khéo léo sử dụng tính danh từ (đ̣ đưa, ví dặm) ở cặp luận cho khác với tính từ (thắm đỏ, tươi hồng) ở cặp thực, nhưng lại quên sự trùng thanh ở 3 vị trí đầu các câu 2, 3 và 6. Đây là điểm khó trong các bài sử dụng nghệ thuật "thủ nhất thanh". Nh́n chung bài viết khá, giàu nhạc điệu, ư thơ thanh thoát, từ ngữ khá đẹp, đại chúng, ít dùng từ cổ, sáo ngữ. Sự thành công nhất của bài là sự dẫn dắt bố cục ngoại cảnh: từ bối cảnh chung (cảnh giao mùa), đến những thực thể (xuân, cánh nhạn, hoa, nắng), rồi nếp sống văn hóa tinh thần (khúc đ̣ đưa, câu ví dặm), cuối cùng là cuộc đời. Cám ơn t/g đă tham gia cuộc thi. Chúc t/g ngày càng có thêm những đóng góp giá trị về học thuật. Bài 3: TX 2013 – 05 THƯ GỬI MẸ Mẹ hỡi con đang đợi Tết về Theo tàu lối cũ ngược thăm quê.. Nh́n hoa đất khách ḷng hơ hải Nhấp rượu người dưng dạ bộn bề Bếp vẫn mùi xưa? mong mỏi quá! Tường c̣n sắc cũ? nhớ nhung ghê! Em chờ áo mới nh́n ra cửa Gởi cánh thư đi chữ lệ đề. Mẹ là h́nh ảnh đại diện là biểu tượng của quê hương. Chủ đề nhớ mẹ, nhớ quê là một trong những mảng chủ đề được lựa chọn nhiều nhất của văn nghệ sĩ từ cổ chí kim, nhất là với những đứa con xa xứ. THƯ GỬI MẸ là một trong những bài thơ khá sâu lắng viết về mảng này. T/g chọn lối tự sự thông qua h́nh thức viết thư tay. Tâm trạng nhớ nhung được diễn tả khi ở nơi đất khách xa lạ, cảnh vật không phù hợp với ḷng người: hoa đẹp, rượu ngon nhưng ḷng ngổn ngang nỗi nhớ th́ cũng chẳng c̣n tâm trạng đẻ ngắm hoa, thưởng rượu. Hương vị những món ăn quê hương, nếp nhà đơn sơ, nghèo nàn, b́nh dị mà thân thuộc như hiện ra mồn một trước mắt, đau đáu trong tâm hồn. Cảnh em thơ đợi anh (chị) về mua quà. may áo mới để được ngẩng mặt nh́n đời trong mỗi dịp đầu xuân thật cảm động xiết bao. Đọc bài thơ mà tôi bất chợt hoài tưởng lại thời thơ ấu ở quê, tưởng đâu ḿnh đang có mặt trong bầy trẻ tíu tít chờ mong... Câu kết là cao trào của xúc cảm, dù bức thư nḥe lệ hay viết bằng lệ đă được gửi đi, nhưng lệ trong ḷng t/g vẫn chảy hơn thế nữa c̣n lây nhiễm cả sang người đọc. Bài thơ sử dụng nhiều dấu chấm câu không cần thiết (như dấu chấm lửng mà t/g lại gơ ẩu thành 2 chấm ngang, không có trong văn viết). Khi dùng các dấu chấm hỏi th́ sau đó phải viết hoa. Cám ơn t/g đă cho thưởng thức một bài thơ đầy xúc cảm, dù c̣n hơi bị "nứa bổ", nhưng giá trị nội dung và nghệ thuật không thể phủ nhận. Bài 4: TX 2013 - 10 ĐƯỜNG XUÂN Vẳng tiếng nàng xuân hát dịu dàng Mây hồng nhẹ lướt nhạc dồn vang Mưa quàng hạnh phúc nhành tươi mượt Nắng dệt niềm tin nụ óng vàng Gửi bạn bùa yêu say chất ngất Dâng đời nhựa sống trỗi mênh mang Vầng dương rực rỡ soi ngày mới Thả mộng đường hoa bước ngỡ ngàng. Bài ĐƯỜNG XUÂN là một trong những bài thơ hay, tṛn trịa về nội dung. Bài thơ có sự đầu tư khá tốt như chọn vần ngọt, từ ngữ đắt, phối thanh nhuyễn, đối ngẫu chỉnh, bố cục chắc chắn. Trên đường xuân, t/g được ḥa ḿnh với thanh âm, màu sắc, nắng, mây, mưa,...; t/g đă có đầy đủ hạnh phúc, niềm tin, t́nh yêu, lẽ sống... và cả tương lai rực rỡ đầy hoa mộng không chỉ cho riêng ḿnh mà cho cả cuộc đời (Vầng dương rực rỡ soi ngày mới). Chính niềm tin về một tương lai rạng rỡ, tươi đẹp thi nhân mới thả mộng, mơ tưởng, bước ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của mùa xuân, trên con đường mà ḿnh tin yêu bằng tất cả tấm ḷng. Trong khung cảnh hạnh phúc chung ấy, tâm hồn phơi phới yêu đời, tác giả không muốn giữ cho riêng ḿnh mà mong muốn chia sẻ (gởi bạn, dâng đời) với tất cả mọi người chung quanh. Cũng chính bởi sự đầy đủ sung túc ấy mà tác giả đă để mặc cảm xúc dâng tràn vượt ra khỏi sự kiềm chế, cất cánh thăng hoa... Bài thơ là tiếng reo vui của một cuộc đời thành đạt, thỏa măn và đó chính là tiền đề giải thích cho việc sử dụng đến mức lạm dụng tính từ trong bài, đặc biệt, có đến 7/8 tính từ ở vị trí cuối câu, trong đó có đến 4 tính từ láy, mặc dù, t/g đă có ư sáng tạo tránh 3 từ cuối không cùng từ loại theo lư thuyết sơ cấp. Đây là một ví dụ điển h́nh cho bệnh "thượng vỹ" ở tŕnh độ nâng cao. Có lẽ ngoài nhược điểm duy nhất đáng tiếc này th́ bài thơ xứng đáng được chiêm ngưỡng. Bài 5: TX 2013 - 16 DUYÊN QUÊ Xuân hồng rải ngọc khắp quê hương Áo trắng tung bay ửng nụ hường Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt Mây sà đậu xuống dáng đào thương T́nh thơ dệt mộng ngời khuôn lá Nắng lụa ươm hoa rực nẻo đường Thiếu nữ cười duyên nghiêng nón thẹn Trăng vành bất chợt níu tơ vương. Vẻ đẹp hương đồng gió nội (hay của non sông gấm vóc), là một trong những chủ đề nóng trong nhịp sống hiện đại và cũng là mảng đề tài được văn nghệ sỹ khai thác nhiều. Những người sinh ra ở quê, lớn lên muốn t́m cơ hội, phấn đấu cho công danh, sự nghiệp ở nơi đô thị phố hội, khi thành đạt muốn t́m về nguồn cội, hay về già lại muốn quay về sống ở chính nơi chôn nhau cắt rún đầy những trang kỷ niệm xưa (1). Những người sinh ra ở nơi phồn hoa đô hội (hay ở nđát khách quê người) đầy rẫy sự bon chen, cạnh tranh, náo nhiệt t́m về quê (hay quê hương) để cảm nhận sự b́nh yên (2)... Dù nguyên nhân có khác nhau, nhưng sự níu kéo đều bắt nguồn từ nét DUYÊN QUÊ mộc mạc, b́nh dị nhưng rất gần gũi, thân thuộc. T/g bài thơ DUYÊN QUÊ có cái nh́n của dạng người thứ nhất (Xuân hồng rải ngọc khắp quê hương). Quê hương có thể hiểu là đồng quê, hoặc đất nước con Lạc cháu Hồng. Nếu là tôi, tôi sẽ dùng "Mai hồng" (ban mai) dấu chữ "Xuân" đi để "Xuân" tự hiện ra trong nội dung bài thơ. "Ngọc" ở đây không phải ngọc ngà châu báu mà chính là cái "duyên". "Duyên" từ tà áo trắng học sinh, "duyên" đem đến sự e thẹn dịu dàng và ư nhị (ửng nụ hường); "duyên" có trong làn gió, áng mây, "duyên" truyền qua nhành trúc, gốc đào; "duyên" lẫn trong sắc non xanh trên chồi lá dệt mộng t́nh thơ, "duyên" ḥa vào màu nắng mai óng ả trên đường làng. Đặc biệt nụ cười duyên dưới vành nón nghiêng nghiêng của cô gái quê quyến rũ. Cái "duyên" kết hợp, ḥa quyện rồi cô đọng làm "tơ vương" cả vầng trăng sớm. Cũng đâu biết được "Trăng vành" lại là h́nh ảnh ẩn dụ về gương mặt với nụ cười duyên của cô gái Việt tuổi trăng tṛn, đẹp như vầng trăng nghiêng trong vành nón đă bất chợt gieo vào ḷng người t́nh cảm xúc động vấn vương không thể quên được về h́nh ảnh người con gái Việt Nam duyên dáng, rạng rỡ trong tà áo dài và chiếc nón bài thơ trong khung cảnh mùa xuân? Sự quan sát rất tinh tế thể hiện bề dầy vốn sống và bề sâu suy nghĩ đáng nể của t/g. Bài thơ có lỗi "b́nh đầu" về cấu trúc khi cả 8 câu đều mở đầu bằng danh từ làm chủ từ và tiếp sau là 7/8 câu được tiếp nối bằng động từ. "T́nh thơ" và "nắng lụa" chưa thật sự đối chuẩn nếu xét kỹ lưỡng v́ thực chất là "T́nh trong thơ" hay "T́nh nên thơ" với "Nắng như lụa". Hai khuyết điểm này như mờ nhạt dần đi trong cách "làm xiếc" với ngôn ngữ rất dễ thương của t/g. Đặc biệt hai câu thơ duyên nhất, bay bướm nhất là hai câu thực: "Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt / Mây sà đậu xuống dáng đào thương". Những động từ nhân hóa rất h́nh tượng (thoảng hôn lên, sà đậu xuống) gắn kết cảnh vật có chọn lọc (trúc, đào), có câu dùng tới 3 động từ làm rung lên cảm xúc (mượt, thương) sống động khiến người đọc ngẩn ngơ như lạc vào chốn đào nguyên. Có lẽ đây sẽ là một trong những bài thơ gây nhiều tranh luận tốn giấy mực và sẽ thường được bạn đọc nhắc đến. Bài 6: TX 2013 - 18 HUẾ XUÂN Dạ khúc bây chừ gợi Huế xưa Xuân quê đậm sắc kể răng vừa Trên ni tấu nhạc ḥa bông trổ Dưới nớ bơi thuyền dậy sóng đưa Áo tím tươi ri… nh́n phải thích Trời xanh đẹp rứa… thấy mà ưa Đi mô chẳng thể quên thời đă… Sợi nắng em tề! Quyện dưới mưa. HUẾ XUÂN là một trong những bài tạo được ấn tượng ngay cho người đọc bởi nó mang dấu ấn vùng sông Hương núi Ngự rất rơ nét. Không kể câu mở th́ không hề có một địa danh nào khác của Cố Đô được nhắc đến, cũng chẳng hề có một nét văn hóa, hay kiến trúc nào của Huế được trực tiếp phô bày, nhưng bài thơ toát lên vẻ Huế chính ở việc sử dụng phương ngữ Huế dễ thương, dễ mến rất đặc sắc. Qua khúc nhạc đêm xuân t/g hồi tưởng rồi dẫn dắt người đọc về thăm cảnh xuân quê của Huế xưa đậm sắc màu văn hóa. Ta tưởng như đang lắng nghe bản ḥa tấu của đất trời, sông nước vào xuân với muôn vàn thanh âm của các loại nhạc cụ dân gian như thúc đẩy cây trổ nụ đơm bông. Ta tưởng như dạo thuyền trên sông Hương lắng nghe giọng ḥ ngọt lịm. Với những ai đă từng gắn bó với Huế hẳn không thể nào quên một miền đất thanh b́nh, non xanh nước biếc, những tà áo tím mộng mơ và kỷ niệm những chiều mưa quay quắt... Dễ dàng đoán biết t/g là một trong những người con của Huế xa quê bởi sự am hiểu phương ngữ rành rẽ để mỗi câu được lồng ghép một từ rất tự nhiên nhưng lại có dụng ư và rất rơ nghĩa. Có thể ai đó chưa từng tới Huế, hoặc ít gặp những phương ngữ đặc trưng của miền Bắc Trung bộ, nhưng vẫn hiểu cặn kẽ nội dung của bài thơ. Bài thơ chọn bộ chính vận, gồm 4 phù b́nh thanh và 1 trầm b́nh thanh, 1 lỗi đại vận (câu 1), 2 lỗi lưng ong (câu 5, câu 6 theo Lư thuyết CM), 2 câu điệp thanh , điệp điệu (4 và 5) và một câu triệt hạ (không thật sự cần thiết) đă phần nào ảnh hưởng đến giá trị của bài thơ. Bài 7: TX 2013 - 20 MAI Cánh mỏng lung linh gọi nắng về Ánh vàng nhuộm thắm cả trời quê Chào xuân lộc trẩy muôn hàng nối Đón tết chồi bung những lớp kề Sắc lá tưng bừng nuôi khát vọng Màu hoa rạng rỡ cháy đam mê Tiền nhân khéo đặt tên mai nhỉ Thắp sáng niềm tin giữa bộn bề. Dẫu biết MAI là biểu tượng của mùa xuân, nhưng ban đầu tôi không khỏi ngạc nhiên khi có một tác giả chọn đề tài dự thi xuân cho ḿnh ở một chủ đề hẹp như vậy. Càng đọc tôi càng thấy bị lôi cuốn bởi khả năng quan sát, vốn từ ngữ phong phú và khả năng biểu cảm của một hồn thơ đang độ sung măn. Bài thơ như một bức tranh hiện thực về một loài hoa với tổ hợp màu sắc là những gam từ đắt giá giàu h́nh tượng, đường nét là những thủ pháp nghệ thuật. Mai không chỉ là hoa, là kiểng, mai c̣n có cả linh hồn, xúc cảm và hơn hẳn thế, nó c̣n ẩn chứa cả tâm trạng người trồng mai gửi gắm (Sắc lá tưng bừng nuôi khát vọng/ Màu hoa rạng rỡ cháy đam mê). Cả cái tên MAI là sự biểu trưng của tương lai, của may mắn, của người con gái đẹp mà tạo hóa ưu ái ban tặng cho loài người cũng được t/g đưa vào thơ. Trong những ngày tất bật đón xuân, cúng kiếng ông bà, tổ tiên, thăm hỏi, chúc tụng người thân, ngắm săc mai vàng người ta sẽ cảm thấy b́nh tâm, ấm cúng và hạnh phúc. Bài thơ gieo chính vận, đảo dấu thanh vần xen kẽ nhau, phối thanh, đối ngấu nhuần nhuyễn, bố cục chặt chẽ, mở và kết xuất thần. Chỉ tiếc hai câu thực hơi bị "nứa bổ"; nội dung có sự trùng lắp (ánh vàng, màu hoa); nhắc quá nhiều đến lộc, chồi, lá, hoa mà quên cội, dáng mới là cốt cách, tinh thần của mai (Mai cốt cách, tuyết tinh thần_Nguyễn Du). Bài 11: TX 2013 - 30 ĐÓN XUÂN TÂY NGUYÊN Hăy nhớ về đây uống rượu cần Ngắm cà phê nở đón mùa xuân Trong chiều gió lộng mùi thơm ngát Giữa chốn đồi cao sắc trắng ngần Tấu nhạc chiêng rền vang núi thẳm Nghe lời khan đẹp kết t́nh thân Men nồng quyện toả hồn ngây ngất Cảm xúc trào tuôn thắm đượm vần. Bài thơ ĐÓN XUÂN TÂY NGUYÊN mang đến Diễn đàn sắc thái văn hóa đặc sắc của Cao nguyên. Khác với phố thị hay đồng bằng, đồng bào Tây Nguyên gắn bó với rừng núi và cây Cà-fê, loài hoa mang màu sắc trắng sữa và mùi hương ngan ngát để trang điểm cho mùa xuân của họ chính là Cà-fê. Đối với người Thượng, trồng Cà-fê chính là đă xóa đi nếp sống du canh, du cư. Như vậy, Cà-fê chính là biểu tượng của cuộc sống ổn định. Khi Cà-fê nở trắng núi đồi chính là sự hứa hẹn của cuộc sống no đủ sung túc. Và tất nhiên bất cứ ngày vui hay dịp lễ hội nào th́ dưới mái nhà rông, quanh ngọn lửa, ché rượu cần, tiếng chiêng cồng ḥa theo điệu múa và lời khan (trường ca Tây Nguyên) hùng tráng cất lên khiến ḷng người và cả đất trời cũng như rạo rực. Khi ấy nhà thơ bỗng chốc thấy tâm hồn bay bổng, ngất ngây và xúc cảm cứ thế trào tuôn tự nhiên kết lại thành vần. Ư thơ hay, tứ lạ, từ ngữ tự nhiên nhưng vẫn rất giàu chất thơ mang lại thành công cho bài thơ. Tuy vậy, đôi chỗ tả quá thực (mùi thơm ngát / sắc trắng ngần) cũng không hẳn là ưu điểm. "HỒN thơm ngát/ MỘNG trắng ngần" có thể gợi cảm hơn? Ngoài ra, nếu phải góp ư để bài thơ đạt hiệu quả cao hơn, tôi xin mạn phép đề xuất thay hai chữ như sau: "Tấu nhạc chiêng rền SAY núi thẳm/ Nghe lời khan đẹp THẮM t́nh thân" => để nâng cao ư và tuân thủ "luận" đúng với bố cục truyền thống hơn. Khi ấy ở câu cuối sẽ thay bằng "Cảm xúc trào tuôn LẮNG ĐỌNG vần". Cám ơn t/g cho thưởng thức bài thơ này. NẮNG XUÂN ACE có CHÉM CHUỐI th́ CHÉM nhè nhẹ. |
#5
|
|||
|
|||
PHẦN NHẬN XÉT CỦA NC TX 2013 - 01 XUÂN MƠ … Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi Hạnh phúc giao thoa giữa đất trời Vạn cánh hoa xinh ngào ngạt nở Muôn làn gió mát nhẹ nhàng rơi Tim hồng hóa chữ t́nh lên tiếng Ư đẹp thành thơ nghĩa kết lời Nắng tỏa ngàn phương đời rộn bước Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi Tác giả sử dụng thủ vĩ ngâm với một bố cục chặt chẽ, ư thơ và âm điệu hay, từ ngữ trau chuốt, gợi cảm, giàu h́nh ảnh. Tác giả không dùng một chữ “xuân” nào trong 56 chữ từ đầu đến cuối nhưng bài thơ lại tràn ngập nét xuân. Ngay câu mở đầu đă tạo ấn tượng - “Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi” - và từng bước dẫn người đọc như lạc vào mùa xuân có hoa xinh, gió nhẹ, nắng tỏa... với một cảm giác phấn chấn, vững bước tới tương lai. Lỗi duy nhất mắc phải trong bài thơ này là “chánh nữu” ở câu 5, nếu không th́ có nhiều khả năng tổng điểm sẽ c̣n cao hơn. Xin cảm ơn và chúc mừng tác giả ! TX 2013 - 02 MƯỢN... Mượn cảnh giao mùa tỏ ư thơ Mượn xuân cánh nhạn nối đôi bờ Mượn hoa thắm đỏ tô vườn mộng Mượn nắng tươi hồng trải bến mơ Mượn khúc đ̣ đưa da diết gọi Mượn câu ví dặm xốn xang chờ Mượn đời cái kén tơ ḷng nhả Mượn kiếp dương trần chữ vẩn vơ Tác giả sử dụng thủ nhất thanh bằng một từ “mượn” gây sự ṭ ṃ cho người đọc, th́ ra là tác giả “mượn” cảnh xuân với cánh nhạn, hoa đỏ, nắng hồng, với "khúc đ̣ đưa", "câu ví dặm"... những từ ngữ, h́nh ảnh rất đời thực gợi lên t́nh người, t́nh đời. Và cuối cùng là “Mượn đời cái kén tơ ḷng nhả”, “Mượn kiếp dương trần chữ vẩn vơ”... tạo một cảm giác bâng khuâng trong phút giao mùa. Một tác phẩm giàu nghệ thuật và thực sự rất hay, chỉ tiếc là đă mắc phải “b́nh đầu” (một lỗi dễ gặp trong thể loại thủ nhất thanh), “thượng vỹ” và “bàng nữu” ở 2 câu thực, điều đó đă làm giảm giá trị của bài thơ. TX 2013 - 05 THƯ GỞI MẸ Mẹ hỡi con đang đợi Tết về Theo tàu lối cũ ngược thăm quê.. Nh́n hoa đất khách ḷng hơ hải Nhấp rượu người dưng dạ bộn bề Bếp vẫn mùi xưa? mong mỏi quá! Tường c̣n sắc cũ? nhớ nhung ghê! Em chờ áo mới nh́n ra cửa Gởi cánh thư đi chữ lệ đề NC thực sự xúc động khi đọc bài thơ này, từ “Mẹ” luôn mang một ư nghĩa cao quư, thiêng liêng trong ḷng mỗi chúng ta... Tác giả đă gửi gắm tâm tư, nỗi ḷng của một người con nơi đất khách quê người trong “thư gửi mẹ” khi mùa xuân đang về. Bằng những từ ngữ rất mộc mạc, tràn đầy cảm xúc, chứa chan t́nh cảm, tác giả đă mang đến cho người đọc sự bồi hồi, xao xuyến, gợi nhớ về quê hương. Đáng lẽ như thông thường th́ NC đă không chọn bài thơ này vào chung khảo bởi lỗi điệp từ, có đến 2 từ “cũ” và 2 từ “nh́n”, chính v́ vậy mà “Thư gởi Mẹ” bị trừ khá nhiều điểm. Ngoài ra, điệp thanh đă làm giảm âm điệu của bài thơ. Dù sao cũng xin cảm ơn tác giả đă cho NC được đọc một tác phẩm hay ! TX 2013 - 10 ĐƯỜNG XUÂN Vẳng tiếng nàng xuân hát dịu dàng Mây hồng nhẹ lướt nhạc dồn vang Mưa quàng hạnh phúc nhành tươi mượt Nắng dệt niềm tin nụ óng vàng Gửi bạn bùa yêu say chất ngất Dâng đời nhựa sống trỗi mênh mang Vầng dương rực rỡ soi ngày mới Thả mộng đường hoa bước ngỡ ngàng. Một bài thơ nhẹ nhàng, giàu tính nhạc, phong phú về h́nh ảnh, dường như mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh tươi vui, tràn đầy sức sống. Tác giả đă vẽ “nàng xuân” rất đẹp bằng những từ ngữ khá đắt : “mưa quàng”, “nắng dệt” - NC thích bài thơ chính là ở điểm này. Một lỗi bị trừ điểm - “chánh nữu” ở câu 4, ngoài ra c̣n một chút điệp thanh. Nhưng nói chung, “Đường xuân” hoàn toàn xứng đáng vào chung khảo. TX 2013 - 16 DUYÊN QUÊ Xuân hồng rải ngọc khắp quê hương Áo trắng tung bay ửng nụ hường Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt Mây sà đậu xuống dáng đào thương T́nh thơ dệt mộng ngời khuôn lá Nắng lụa ươm hoa rực nẻo đường Thiếu nữ cười duyên nghiêng nón thẹn Trăng vành bất chợt níu tơ vương. “Duyên quê” được tác giả thể hiện qua những từ ngữ mượt mà, “xuân hồng rải ngọc” cho “áo trắng tung bay ửng nụ hường”, rồi “t́nh thơ dệt mộng”, “nắng lụa ươm hoa” - những h́nh ảnh rất đẹp, nhưng NC thích nhất là 2 câu thực : “Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt”, “Mây sà đậu xuống sáng đào thương”... Nếu như ở câu 7, tác giả chọn từ khác thay cho “cười duyên” để ẩn đi cái “duyên” của người “thiếu nữ” th́ có lẽ sẽ c̣n hay hơn nữa. Bài thơ mắc thi bệnh “bàng nữu” ở 2 câu đề và 2 câu kết, ngoài ra có một số câu bị điệp thanh. TX 2013 - 18 HUẾ XUÂN Dạ khúc bây chừ gợi Huế xưa Xuân quê đậm sắc kể răng vừa Trên ni tấu nhạc ḥa bông trổ Dưới nớ bơi thuyền dậy sóng đưa Áo tím tươi ri… nh́n phải thích Trời xanh đẹp rứa… thấy mà ưa Đi mô chẳng thể quên thời đă… Sợi nắng em tề! quyện dưới mưa. Tác giả đă sử dụng khá nhiều từ ngữ địa phương làm cho bài thơ mang đậm chất Huế. Một khung cảnh xuân tưng bừng, náo nhiệt như hiện ra trước mắt người đọc với “tấu nhạc”, “bơi thuyền”, “áo tím”, “trời xanh”... NC mới chỉ có một lần được đến Huế, một nơi rất đẹp và thanh b́nh, điều đó càng rơ nét hơn khi đọc bài thơ này. Rất tiếc bài thơ bị lỗi “đại vận” ở câu 1, “phong yêu” ở câu 5 và câu 6, ngoài ra có khá nhiều điệp thanh. TX 2013 - 20 MAI Cánh mỏng lung linh gọi nắng về Ánh vàng nhuộm thắm cả trời quê Chào xuân lộc trẩy muôn hàng nối Đón tết chồi bung những lớp kề Sắc lá tưng bừng nuôi khát vọng Màu hoa rạng rỡ cháy đam mê Tiền nhân khéo đặt tên mai nhỉ Thắp sáng niềm tin giữa bộn bề Tượng trưng cho mùa xuân ở miền Bắc là màu hồng của đào, c̣n ở miền Nam là màu vàng của mai. Có lẽ tác giả ở trong Nam, c̣n NC th́ sinh ra và lớn lên ở ngoài Bắc nên chưa được chiêm ngưỡng và cảm nhận hết vẻ đẹp của mai. Tác giả đă khéo léo dùng những h́nh ảnh rất tuyệt vời : “cánh mỏng lung linh”, “ánh vàng nhuộm thắm” cùng với một sức sống mănh liệt : “lộc trẩy”, “chồi bung”, “sắc lá tưng bừng nuôi khát vọng”, “màu hoa rạng rỡ cháy đam mê” - thắp lên ngọn lửa tin yêu giữa một cuộc sống bộn bề. Bài thơ mắc lỗi “phong yêu” ở câu 6, “bàng nữu” ở 2 câu kết và có một số câu điệp thanh. TX 2013 - 21 NẮNG XUÂN Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời Nắng ḥa xuân gội sóng đầy vơi Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời X̣a nước rải xuân trao nắng ngọt Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười. Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải Ngọt nắng trao xuân rải nước x̣a Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa Vơi đầy sóng gội xuân ḥa nắng Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà. Thuận nghịch độc luôn là một trong số thể loại khó làm nhất, công phu nhất. Không những thế, tác giả c̣n khéo léo sử dụng điệp ngữ pháp với mỗi câu đều có từ “nắng” và “xuân” để khắc họa rơ nét hơn "nắng xuân" đẹp đến nhường nào : “ngọc ngà”, “nuột nà”, “vời vợi”, “ngời ngợi”. Quả là một bức tranh xuân tuyệt vời. Tuy nhiên, NC vẫn có cảm giác hơi bị gượng ép khi tác giả dùng đảo ngữ “nà nuột”, “ngợi ngời”, “vợi vời”. Ngoài ra, rất tiếc là bài thơ mắc phải “khổ độc” - một bệnh thường gặp trong những bài thuận nghịch độc luật trắc, lỗi “phong yêu” ở câu 2 bài nghịch và một chút điệp thanh. TX 2013 - 29 SẮC XUÂN Vàng rực sắc mai nắng ngập đầy Ngát thơm nồng ấm má hây hây Vang âm trống hội vào thôn xóm Rạng ánh xuân th́ đến đó đây Nhang khói quyện ḥa hương tỏa cuộn Rượu trà nâng chúc ư mê say Tràn dâng chữ nghĩa t́nh ngây ngất Làng bản kết thân măi tháng ngày. Ngày tháng măi thân kết bản làng Ngất ngây t́nh nghĩa chữ dâng tràn Say mê ư chúc nâng trà rượu Cuộn toả hương hoà quyện khói nhang Đây đó đến th́ xuân ánh rạng Xóm thôn vào hội trống ấm vang Hây hây má ấm nồng thơm ngát Đầy ngập nắng mai sắc rực vàng. “Sắc xuân” là bài thơ thuận nghịch độc thứ 2 được chọn vào chung khảo. Tác giả đă vẽ lên một “sắc xuân” ở vùng cao với “mai vàng”, “trống hội”, “khói nhang”, “trà rượu”... ngập tràn t́nh thân bản làng, thôn xóm. Cũng tương tự như bài “Nắng xuân”, tác giả làm theo luật trắc nên không tránh khỏi “khổ độc”. Ngoài ra, c̣n bị “phong yêu”, “hạc tất” và “cưỡng vận” ở bài nghịch, âm điệu cũng chưa được hay lắm do cách hạ vận sử dụng 2 thanh trầm liên tiếp. Đó là chưa kể đến lỗi sai chính tả ở chữ thứ 6 câu 6 bài nghịch, nếu không có bài thuận th́ đă coi như bị sai luật. NC đánh giá cao bài thơ này nhưng rất tiếc cho tác giả có lẽ đă không đủ thời gian để có thể hoàn thiện hơn. TX 2013 - 30 ĐÓN XUÂN TÂY NGUYÊN Hăy nhớ về đây uống rượu cần Ngắm cà phê nở đón mùa xuân Trong chiều gió lộng mùi thơm ngát Giữa chốn đồi cao sắc trắng ngần Tấu nhạc chiêng rền vang núi thẳm Nghe lời khan đẹp kết t́nh thân Men nồng quyện toả hồn ngây ngất Cảm xúc trào tuôn thắm đượm vần. Một bài thơ đậm sắc Tây Nguyên với “cà phê”, “rượu cần”, với tiếng chiêng, lời khan,... đúng là tác giả đă mang đến cho người đọc một “cảm xúc trào tuôn” thông qua những câu thơ rất b́nh dị, không văn hoa, bay bướm nhưng nồng ấm, thiết tha. Ngoài điệp thanh th́ bài thơ không mắc phải một thi bệnh nào bị trừ điểm. Giá như có thể toát lên được rơ hơn cái t́nh của người Tây Nguyên th́ bài thơ sẽ c̣n đạt kết quả cao hơn. TX 2013 - 36 XUÂN Xuân hoà nghĩa quyện thắm đời xuân Toả sắc thêm hồng rạng nét xuân Xuân đến cảnh ngời bông hé nhụy Gió lồng hương dịu vẻ tràn xuân Xuân dào dạt ư khơi nồng rượu Mắt chứa chan t́nh ngấm đượm xuân Xuân ánh trải đều soi sáng măi Xuân đầy nguyện ước mộng tṛn xuân. Xuân tṛn mộng ước nguyện đầy xuân Măi sáng soi đều trải ánh xuân Xuân đượm ngấm t́nh chan chứa mắt Rượu nồng khơi ư dạt dào xuân Xuân tràn vẻ diụ hương lồng gió Nhụy hé bông ngời cảnh đến xuân Xuân nét rạng hồng thêm sắc toả Xuân đời thắm quyện nghĩa hoà xuân. Điều đầu tiên NC muốn nói là NC thực sự khâm phục tác giả !... Tác giả đă đồng thời áp dụng thuận nghịch độc và độc vận, đặc biệt là rất tinh ư khi chọn theo luật bằng để tránh “khổ độc”, khéo léo trong việc sắp xếp từ một cách hợp lư để cả bài thuận và bài nghịch không có những đảo ngữ gượng ép. “Xuân” tràn ngập trong các câu thơ nhưng không nhàm chán mà ngược lại, người đọc c̣n muốn đọc nữa để cảm nhận hết hồn xuân ở trong đó. Không có thi bệnh nào ngoài một chút điệp thanh. NC không biết b́nh thơ nên không thể nói ǵ nhiều hơn về bài thơ này. Tóm lại đây là một tác phẩm tuyệt vời, một bài thuận nghịch độc khá hoàn chỉnh và có lẽ là một trong số ít bài thuận nghịch độc đă được đọc mà NC cảm thấy thích. Xin cảm ơn và chúc mừng tác giả ! |
#6
|
|||
|
|||
Chấm chung khảo thơ dự thi "Thơ Xuân - 2013" (Phần nhận xét của Quân Tấn) Bài 1: TX 2013 - 01 XUÂN MƠ ... Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi Hạnh phúc giao thoa giữa đất trời Vạn cánh hoa xinh ngào ngạt nở Muôn làn gió mát nhẹ nhàng rơi Tim hồng hóa chữ t́nh lên tiếng Ư đẹp thành thơ nghĩa kết lời Nắng tỏa ngàn phương đời rộn bước Vin cành lộc biếc mộng ḷng khơi. Chấm bài: Ngay từ khi bắt đầu chọn bài vào chung khảo, bài thơ đầu tiên được đánh số thứ tự 01 này đă làm tôi ấn tượng. Không chỉ v́ đây là một bài thủ vĩ ngâm mà c̣n v́ câu thơ được tác giả chọn làm câu mở và kết bài đầy sức gợi, nhiều chất thơ, hứa hẹn nhiều lư thú. Tiếc rằng sau khi đọc trọn cả bài tôi cảm giác bị hụt hẫng. Bài thơ bố cục hoàn chỉnh, phối thanh tốt, về mặt h́nh thức gần như hoàn hảo. Nhưng ngoài câu thơ dùng để mở và kết, những câu c̣n lại làm tôi có cảm giác như đọc những câu thơ kiểu: “đường quê ta hôm nay điện sáng lên rồi, đường trải nhựa bao trẻ em đến lớp” hay: “Ôi thành phố đang gồng ḿnh thay đổi, bao công tŕnh bao nhà máy mọc lên”. Bởi nó sáo và nông, nhiều thêm một phần hô hào, lại kém đi một ư vị. Thiếu hẳn nội hàm. Nhưng tác giả cũng tốn nhiều công phu, về h́nh thức xứng đáng được chiêm ngưỡng. Bài 2: TX 2013 – 02 MƯỢN... Mượn cảnh giao mùa tỏ ư thơ Mượn xuân cánh nhạn nối đôi bờ Mượn hoa thắm đỏ tô vườn mộng Mượn nắng tươi hồng trải bến mơ Mượn khúc đ̣ đưa da diết gọi Mượn câu ví dặm xốn xang chờ Mượn đời cái kén tơ ḷng nhả Mượn kiếp dương trần chữ vẩn vơ. Chấm bài: Tôi chọn bài thơ này vào chung khảo không v́ tôi đánh giá quá cao tính nghệ thuật của nó. Dù ở bài thơ này tác giả sử dụng nghệ thuật “thủ nhất thanh”. Và tôi cũng không nghĩ nó sẽ được sự chọn lựa của hai vị giám khảo khác nên khi thấy “Mượn” nằm trong danh sách những bài vào chung khảo tôi có phần bất ngờ. Bài thơ tương đối lưu loát, mượt mà, dẫn dắt bố cục khéo léo nhưng cái làm nên giá trị cho bài thơ chính là sự ám ảnh. ở hai câu đề và hai câu thực tác giả sử dụng những sáo từ khá cũ: ư thơ, vườn mộng, bến mơ không có nhiều chất thơ nhưng có tác dụng khơi gợi liên tưởng một giai đoạn, một phần đời xinh tươi nhiều ước mơ, nhiều hy vọng lấp lánh một màu hồng. Trong tất cả chúng ta có lẽ ai cũng có một phần đời như vậy nhỉ! Đến hai câu luận th́ đă qua một phần đời khác. Mơ mộng đă qua rồi, hành nhân “gọi” và “chờ” một cách xốn xang, da diết. Gọi có ai nghe và chờ có ai đến không th́ tơ ḷng vẫn nhả. Không trách phiền, không giận dỗi, không ai oán. B́nh lặng mà đi qua kiếp dương trần. Đây là một “tâm cảnh” không dễ đạt của kiếp người. Lúc mới đọc tôi tiếc cho hai chữ cuối của bài thơ. “Vẩn vơ” có cảm giác như tác giả bí từ phải dùng vậy. Nhưng đọc thêm vài lần, lại càng thấy nó hợp với chữ “Mượn” làm sao, ám ảnh làm sao. Tác giả ắt là một người từng trải lắm! Bài 3: TX 2013 – 05 THƯ GỬI MẸ Mẹ hỡi con đang đợi Tết về Theo tàu lối cũ ngược thăm quê.. Nh́n hoa đất khách ḷng hơ hải Nhấp rượu người dưng dạ bộn bề Bếp vẫn mùi xưa? mong mỏi quá! Tường c̣n sắc cũ? nhớ nhung ghê! Em chờ áo mới nh́n ra cửa Gởi cánh thư đi chữ lệ đề. Chấm bài: Có bài thơ đọc xong ta phải đọc đi đọc lại ngẫm ngợi v́ tính triết lư ẩn chứa nhiều tầng ư nghĩa. Có bài thơ đọc xong ta cảm thấy thích thú lâng lâng v́ câu chữ đẹp mượt mà. Có bài thơ không triết lư cao xa, không tài hoa bay bướm nhưng ngay khi vừa đọc xong ta cảm thấy ḷng ḿnh run rẩy, hai ḍng lệ không biết từ lúc nào đă rơi trên giấy. Thư Gửi Mẹ là bài thơ thuộc loại này. Đơn giản không thể đơn giản hơn là những ǵ chân thật nhất tự đáy ḷng lan tỏa và cộng hưởng những tấm ḷng đồng điệu khác. Không cần phải phân tích dài ḍng, không cần phải viện dẫn lư luận này khác. Chỉ một từ: “Cảm” mà thôi! Bài 4: TX 2013 - 10 ĐƯỜNG XUÂN Vẳng tiếng nàng xuân hát dịu dàng Mây hồng nhẹ lướt nhạc dồn vang Mưa quàng hạnh phúc nhành tươi mượt Nắng dệt niềm tin nụ óng vàng Gửi bạn bùa yêu say chất ngất Dâng đời nhựa sống trỗi mênh mang Vầng dương rực rỡ soi ngày mới Thả mộng đường hoa bước ngỡ ngàng. Chấm bài: Bài thơ nhẹ nhàng. Đọc xong cảm giác vô cùng thanh thoát dễ chịu. Bố cục hoàn chỉnh. Đối tốt. Tôi rất thích hai câu luận, tràn đầy sức sống, niềm tin yêu cuộc đời. Rất phù hợp với “Tâm t́nh mùa xuân”. Tiếc một chút ở hai chữ “ngỡ ngàng” ở cuối bài làm tứ thơ bị hẫng đi. Bài 5: TX 2013 - 16 DUYÊN QUÊ Xuân hồng rải ngọc khắp quê hương Áo trắng tung bay ửng nụ hường Gió thoảng hôn lên nhành trúc mượt Mây sà đậu xuống dáng đào thương T́nh thơ dệt mộng ngời khuôn lá Nắng lụa ươm hoa rực nẻo đường Thiếu nữ cười duyên nghiêng nón thẹn Trăng vành bất chợt níu tơ vương. Chấm bài: Chọn tựa bài cho phù hợp, khái quát được nội dung bài thơ là việc mà mỗi tác giả phải làm nhưng không phải ai cũng làm tốt. Ở đây tác giả của Duyên Quê đă làm tốt được điều này. Cả tám câu thơ mỗi câu là một nét “duyên”. Mỗi câu có một nhăn tự làm nên cái “duyên”. Ở câu đầu có một nhăn tự “Ngọc” làm một cái duyên chung. Sau đó là: ửng; hôn; đậu; ngời; rực; nghiêng; níu, hàng loạt những nét duyên tạo nên một bức tranh duyên quê vừa quen, vừa lạ. Quen mà không quê mùa. Lạ mà không trơ trẽn. Đặt biệt, hai câu thực không chỉ duyên dáng mà thêm phần t́nh tứ. Tiếc là ở câu 7, cái cười duyên của thiếu nữ lộ ra ngoài làm bài thơ bớt duyên đi. Bài 6: TX 2013 - 18 HUẾ XUÂN Dạ khúc bây chừ gợi Huế xưa Xuân quê đậm sắc kể răng vừa Trên ni tấu nhạc ḥa bông trổ Dưới nớ bơi thuyền dậy sóng đưa Áo tím tươi ri… nh́n phải thích Trời xanh đẹp rứa… thấy mà ưa Đi mô chẳng thể quên thời đă… Sợi nắng em tề! Quyện dưới mưa. Chấm bài: Bài thơ đậm chất Huế nhờ… phương ngữ. Những: Bây chừ; răng; ni; nớ; ri; rứa; mô; tề giúp cho bài thơ không lẫn được vào những địa phương khác. Nhưng “tấu nhạc”, “bơi thuyền”, “áo tím”, “trời xanh” th́ e không chỉ có ở mùa xuân nơi xứ Huế. Và cũng e, những thứ này chưa đủ miêu tả trời đất Huế vào xuân. Tuy nhiên sử dụng thuần thục phương ngữ cũng đă tạo nên một nét riêng về Huế. Bài 7: TX 2013 - 20 MAI Cánh mỏng lung linh gọi nắng về Ánh vàng nhuộm thắm cả trời quê Chào xuân lộc trẩy muôn hàng nối Đón tết chồi bung những lớp kề Sắc lá tưng bừng nuôi khát vọng Màu hoa rạng rỡ cháy đam mê Tiền nhân khéo đặt tên mai nhỉ Thắp sáng niềm tin giữa bộn bề. Chấm bài: Thật khó cho tác giả khi chọn một đối tượng miêu tả mùa xuân quá quen thuộc và xưa nay đă có nhiều người viết: Mai. Hơn nữa c̣n là một đối tượng duy nhất. Nhưng không sao. Tác giả không có ư t́m sự khác lạ hay miêu tả vẻ đẹp thông qua việc miêu tả h́nh dáng cây Mai, mà hướng tới ư nghĩa biểu trưng của loài hoa xuân này và lư giải nó. Ngay hai câu đề dù miêu tả một chút để giới thiệu Mai tác giả cũng không miêu tả một cách sao chép đơn điệu bằng cách sử dụng hai động từ “gọi” và “nhuộm”. Hai câu thực là hướng tới ư nghĩa biểu trưng: tuần hoàn - gắn bó - bất diệt: “muôn hàng nối” và “những lớp kề”. Đến hai câu luận là lư giải biểu trưng đó theo kiểu của tác giả: “nuôi khát vọng”, “cháy đam mê”. Cuối cùng hai câu kết mượn việc đặt tên của tiền nhân để làm chỗ dựa cho lập luận thêm vững chắc. Lần cuối cùng khẳng định nét đẹp, giá trị cốt lơi của Mai là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần, là hy vọng tương lai giúp cho ta đứng vững và không lạc lối giữa cuộc sống bộn bề. Bài 8: TX 2013 - 21 NẮNG XUÂN Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời Nắng ḥa xuân gội sóng đầy vơi Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời X̣a nước rải xuân trao nắng ngọt Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười. Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải Ngọt nắng trao xuân rải nước x̣a Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa Vơi đầy sóng gội xuân ḥa nắng Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà. Chấm bài: Tôi luôn kính nể các tác giả làm thơ Thuận nghịch độc. Ngoài tài năng ra đ̣i hỏi sự kiên nhẫn rất lớn mới đáp ứng được sự t́m ṭi, sửa chữa công phu. Tác giả của bài Nắng Xuân đă đem cái “Nắng Xuân” lột tả đến tận cùng khả năng có thể cho phép của khuôn khổ bài thơ Thất ngôn bát cú. Tám câu thơ là 8 vẻ khác nhau của cái nắng mùa xuân thể hiện sức quan sát mạnh của tác giả. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy ở cặp câu thực tạo nên một nét lạ. Tuy nhiên, có lẽ v́ để đáp ứng yêu cầu khắc nghiệt về mặt h́nh thức của một bài Thuận nghịch độc th́ ngoài việc đă tạo nên một bài thuận nghịch độc hoàn chỉnh về h́nh thức th́ bài thơ chưa nhiều chất thơ. Câu thơ nhiều chất thơ nhất của bài này làm tôi thích là câu 7 của chiều thuận. Bài 9: TX 2013 - 29 SẮC XUÂN Vàng rực sắc mai nắng ngập đầy Ngát thơm nồng ấm má hây hây Vang âm trống hội vào thôn xóm Rạng ánh xuân th́ đến đó đây Nhang khói quyện ḥa hương tỏa cuộn Rượu trà nâng chúc ư mê say Tràn dâng chữ nghĩa t́nh ngây ngất Làng bản kết thân măi tháng ngày. Ngày tháng măi thân kết bản làng Ngất ngây t́nh nghĩa chữ dâng tràn Say mê ư chúc nâng trà rượu Cuộn toả hương hoà quyện khói nhang Đây đó đến th́ xuân ánh rạng Xóm thôn vào hội trống ấm vang Hây hây má ấm nồng thơm ngát Đầy ngập nắng mai sắc rực vàng. Chấm bài: Tác giả đă đem đến cho chúng ta một Sắc Xuân b́nh dị, phong phú. Ngôn ngữ thơ khá thuần phác, đơn giản. Ngoài việc là một bài thơ Thuận nghịch độc, tác giả đă tương đối thành công tạo ra một không gian xuân của người dân vùng cao. Thế nhưng chất thơ vẫn c̣n khiêm tốn. Bài 10: TX 2013 - 30 ĐÓN XUÂN TÂY NGUYÊN Hăy nhớ về đây uống rượu cần Ngắm cà phê nở đón mùa xuân Trong chiều gió lộng mùi thơm ngát Giữa chốn đồi cao sắc trắng ngần Tấu nhạc chiêng rền vang núi thẳm Nghe lời khan đẹp kết t́nh thân Men nồng quyện toả hồn ngây ngất Cảm xúc trào tuôn thắm đượm vần. Chấm bài: Không phải “Mời bạn về đây” hay “Anh hăy về đây” mà “Hăy nhớ về đây uống rượu cần”. Câu thơ không phải là một lời mời mà là một lời nhắc làm cho ta cảm giác như ta đă là người thân, người trong gia đ́nh, là người con của rừng núi Tây Nguyên rồi vậy. Hăy nhớ về để uống rượu cần, giữa đồi cà phê nở trắng ngần thơm ngát cho say bờ môi, cho no con mắt rồi thả hồn vào tiếng nhạc lời khan. Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp núi rừng Tây Nguyên mà c̣n t́nh người Tây Nguyên nữa. Lời thơ giản dị mà nồng hậu. Chỉ tiếc là hai câu luận c̣n “thực” quá chưa đạt được “luận”, nên bài thơ khó thăng hoa. Bài 11: TX 2013 - 36 XUÂN Xuân hoà nghĩa quyện thắm đời xuân Toả sắc thêm hồng rạng nét xuân Xuân đến cảnh ngời bông hé nhụy Gió lồng hương dịu vẻ tràn xuân Xuân dào dạt ư khơi nồng rượu Mắt chứa chan t́nh ngấm đượm xuân Xuân ánh trải đều soi sáng măi Xuân đầy nguyện ước mộng tṛn xuân. Xuân tṛn mộng ước nguyện đầy xuân Măi sáng soi đều trải ánh xuân Xuân đượm ngấm t́nh chan chứa mắt Rượu nồng khơi ư dạt dào xuân Xuân tràn vẻ diụ hương lồng gió Nhụy hé bông ngời cảnh đến xuân Xuân nét rạng hồng thêm sắc toả Xuân đời thắm quyện nghĩa hoà xuân. Chấm bài: Trong 3 bài thơ Thuận nghịch độc vào chung khảo tôi thích nhất bài “Xuân” này. Ca ngợi Xuân nhưng không quá hô hào. Vẫn sử dụng những ước lệ để miêu tả mùa xuân nhưng nhờ kỹ thuật khéo léo nên không thấy sáo rỗng. Đặt biệt, đảm bảo được h́nh thức Thuận nghịch độc nhưng không quá gượng ép để câu thơ thiếu chất thơ như những trường hợp khác. Khi miêu tả xuân, tác giả lồng vào một số h́nh ảnh mang tính ẩn dụ làm cho câu thơ có chiều sâu. Và lạ hơn, Tôi cảm giác bài nghịch lại hay hơn bài thuận! |
The Following User Says Thank You to nguyenxuan For This Useful Post: | ||
Phidiep5 (09-04-13)
|
|
|