![]() |
|
![]() |
|
#1
|
|||
|
|||
![]()
7- (KTNN 96, ngày 15-11-1992)
Tại sao lại gọi những người bán nam bán nữ (lại cái) là "pê-đê”. AN CHI: Cái tên pê-đê dùng để chỉ những người bán nam bán nữ là kết quả của một lối hiểu sai lệch nay đă trở thành thông dụng. Đó là do tiếng Pháp pédé, dạng tắt của pédéraste. Đây là một danh từ gồm hai từ căn gốc Hy Lạp: péd- (<paidos = trẻ con) và -éraste(<erastês = si mê). Vậy pédéraste là người si mê trẻ con. C̣n cái nghĩa đích thực của từ này là: kẻ đàn ông hành dâm vào hậu môn của một bé trai. Nghĩa này đă cho ra nghĩa rộng thông dụng hiện nay là: kẻ loạn dâm hậu môn. Vậy pédé trong tiếng Pháp không hề có nghĩa là "lại cái". |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#2
|
|||
|
|||
![]()
8- (KTNN 96, ngày 15-11-1992)
Một ông bạn của tôi có thắc mắc không biết tại sao thư tịch xưa (bằng chữ Hán) không ở đâu có nói đến tên Hồng Hà mà chỉ ghi có tên Nhị Hà. Xin t́m giúp xem sách xưa có ghi tên Hồng Hà là những sách nào? AN CHI: Xin thưa, sở dĩ sách xưa không có tên Hồng Hà v́ đây là một cái tên rất mới do chính người Việt chúng ta dịch từ tiếng Pháp, gọi nôm na hơn một chút là sông Hồng. Sông Hồng có đặc điểm nổi bật là nước của nó về mùa lũ th́ rất đỏ, nên người Pháp dựa vào đó mà gọi nó là fleuve Rouge (sông Đỏ). Cũng cùng một cách đặt tên như thế họ đă gọi sông Đà là rivière Noire (sông Đen) c̣n sông Lô th́ lại là rivière Claire (sông Trong). Họ cũng dịch tên sông Hoàng Hà của Trung Hoa sang tiếng Pháp là fleuve Jaune (sông Vàng) rồi lại dựa theo cách diễn này mà dịch tên con sông Dương Tử (Dương Tử Giang) thành fleuve Bleu (sông Xanh) mặc dù họ cũng đă có một tên phiên âm từ Dương Tử Giang thành Yang-tseu-kiang (trước thường viết là Yang-tsé-kiang). Vậy Hồng Hà hay sông Hồng chỉ là những "bản dịch" sang tiếng Việt của tiếng Pháp fleuve Rouge mà thôi. Xin phân biệt với Hồng Giang, một chi lưu xưa của sông Hồng, chảy qua tỉnh Hải Dương. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#3
|
|||
|
|||
![]()
9. (KTNN 97, ngày 01-12-1992)
Tại sao từ tập 1 đến tập 5, Đài truyền h́nh Thành phố Hồ Chí Minh không gọi luôn bộ phim dài của Mexico bằng cái tên "Người giàu cũng khóc" mà gọi là "Nước mắt người giàu" để sau đó lại phải thay đổi tên gọi từ tập 6 trở đi? Hai cách gọi đó có ǵ khác nhau không? AN CHI: Tên gốc của bộ phim này đúng ra là Người giàu cũng khóc. Tên phim bằng tiếng Tây Ban Nha (Người Mexico nói tiếng Tây Ban Nha) là Los ricostambien lloran. Sở dĩ 5 tập đầu của bộ phim được gọi là Nước mắt người giàu có lẽ v́ đă theo bản dịch của Đào Minh Hiệp, người đă dịch lời phim (từ tiếng Nga) cho Đài truyền h́nh Phú Yên (X. Tuổi trẻ chủ nhật, số 40-92, tr.17). Hai cách gọi trên đây có khác nhau hay không? Sau đây là lời của Đào Minh Hiệp: "Quả thật tôi đă phải suy nghĩ rất lâu trước khi quyết định dịch là Nước mắt người giàu mà vẫn bảo đảm chuyển tải được ư nghĩa chính xác của tên phim (...), đồng thời nghe hay hơn(…) Tôi nghĩ không có ǵ khác nhau giữa hai tên phim (Tuổi trẻ chủ nhật, số 40-92). Sự thật th́ quả là có khác nhau. Nước mắt người giàu là một cấu trúc phi vị ngữ tính (non-prédicativ) c̣n Người giàu cũng khóc th́ đă là một câu. Hai cấu trúc đă khác nhau đến như thế th́ không thể nói rằng hàm nghĩa của chúng hoàn toàn như nhau được. Nếu cần th́ các tác giả đă nói Las Ingrimas de los ricos (Nước mắt người giàu) rồi. Nhưng họ lại nói Los ricos tambien lloran. Vậy tưởng cứ nên dịch thành Người giàu cũng khóc cho sát với nguyên văn. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#4
|
|||
|
|||
![]()
10 (KTNN 97, ngày 01-12-1992)
Tại sao Colomb có công t́m ra châu Mỹ mà tên ông lại không được dùng để gọi châu này? Tên nước Colombia cóliên quan ǵ đến tên của Colomb hay không? AN CHI: Chính Christophe Colomb đă gọi châu Mỹ là Tây ấn Độ (Indes occidentales) v́ đă nhầm tưởng rằng đó là nước ấn Độ. Do cách đặt tên này của Colomb mà thổ dân da đỏ châu Mỹ đă được gọi là Indien (tiếng Pháp), Indian (tiếng Anh), nghĩa là người Ấn Độ. Sau khi biết rơ sự thật, người ta mới dần dần gọi châu Mỹ bằng cái tên Amerique (tiếng Pháp), America (tiếng Anh) như hiện nay. Đúng là trong tên nước Colombia có tên của Colomb. Ông đă đến miền đất này năm 1502 nhưng trước đó th́ Alonso de Hojeda đă phát hiện ra nó từ 1499. Sau khi hoàn thành việc chinh phục đất này vào năm 1539 th́ Gonzalo Jiménez de Quesada đă gọi nó là Nueva Granada; măi về sau nó mới được gọi là Colombia. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#5
|
|||
|
|||
![]()
11. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tam tộc trong "tru di tam tộc" là những tộc nào? AN CHI: Hai tiếng tam tộc có ít nhất là bốn cách hiểu mà Từ nguyên (một bộ từ điển tiếng Hán ra mắt năm 1915) đă cho như sau: 1. Cha mẹ, anh em, vợ con là tam tộc (Phụ mẫu, huynh đệ, thê tử vi tam tộc). 2. Họ cha, họ mẹ, họ vợ là tam tộc (Phụ tộc, mẫu tộc, thê tộc vi tam tộc). 3. Cha, con, cháu (= con của con) là tam tộc (Phụ, tử, tôn vi tam tộc). 4. Anh em của cha, anh em của ḿnh, anh em của con là tam tộc (Phụ côn đệ, kỷ côn đệ, tử côn đệ vi tam tộc). V́ có nhiều cách hiểu như trên cho nên ngay vụ án Nguyễn Trăi cách đây 555 năm (1442) cũng được người thời nay hiểu khác nhau. Cao Huy Giá dịch Đại Việt sử kư toàn thư đă viết như sau:"Ngày 16 (tháng 8 năm Nhâm Tuất - AC), giết hành khiển Nguyễn Trăi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời" (t.III, Hà Nội, 1972, ti.131). Ba đời đương nhiên chỉ có thể là đời cha, đời con và đời cháu (ứng với nghĩa 3 của Từ nguyên) mà thôi. Nhưng Phan Huy Lê th́ lạiviết: "(…) Nguyễn Trăi bị ghen ghét gièm pha, có lần bị hạ ngục và cuối cùng bị tru di ba họ" (Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trăi (tập kỷ yếu), Hà Nội, 1982, tr.75). Ba họ, theo cách hiểu thông thường là họ cha, họ mẹ và họ vợ (ứng với nghĩa 2 của Từ nguyên), đương nhiên phải nhiều và nặng hơn ba đời v́ ba đời chỉ thuộc có một họ mà thôi. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#6
|
|||
|
|||
![]()
12- (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao lại nói "ruột đau chín chiều'? Đó là những chiều nào, hướng nào? Hay đó là chín buổi chiều? AN CHI: Chữ chiều ở đây chính là chữ mà Húnh-Tịnh Paulus Của viết ch́u và giảng là "chỗ uất khúc, vạy ṿ", (Đại Nam quấc âm tự vị, tập I, Sài G̣n, 1895,tr. 145). Đây chính là cái nghĩa gốc đă cho ra nghĩa thông dụng hiện đại của chiều trong chiều hướng, đường một chiều, v.v. Ruột đau chín chiều là dịch ư của mấy tiếng Hán cửu hồi trường nghĩa là "chín (lần) quặn ruột". Giản Văn Đế nhà Lương có viết: "Bi dao dạ hề, cửu hồi trường" (Đêm buồn dài dặc hề, chín lần ruột quặn). Tư Mă Thiên cũng viết: "Trường nhất nhật nhi cửu hồi" (Một ngày mà ruột quặn chín lần). Cái nét nghĩa "uất khúc, vạy ṿ" của từ ch́u, mà Húnh-tịnh Paulus Của đă ghi, rất ăn khớp với cái nghĩa của tiếng hồi là "quanh", là "quặn". Vậy chín chiều là "bản dịch" rất sát của cửu hồi (cửu = chín, hồi = chiều, nghĩa là quặn) nhưng do cấu trúc của nó về mặt thuần túy h́nh thức rất giống với cấu trúc của "(đường) một chiều hoặc" (một sớm) một chiều nên mới dẫn đến hai cách hiểu nhầm đă được ghi nhận trong câu hỏi. Cuối cùng, cũng phải nhắc lại rằng nếu theo đúng chính tả hiện nay th́ chữ ch́u của Húnh-tịnh Paulus Của phải được viết là chiều (Những chữ chiều trong chiều theo, chiều ḷng, trăm chiều, v.v. đều được ông nhất loạt viết thành ch́u). Lần sửa cuối bởi phale; 15-12-10 lúc 12:10 PM |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
#7
|
|||
|
|||
![]()
13. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao có người lại cho rằng câu "Mũi dại lái phải chịu đ̣n" đúng ra phải là "Mũi vạy lái phải chịu đ̣n"? AN CHI: H́nh thức gốc và đúng là Mũi vạy lái phải chịu đ̣n. Câu tục ngữ này bắt nguồn từ đặc điểm của nghề ghe thuyền. Mũi vạy là mũi lệch, mũi không đi đúng hướng cần thiết, có thể do nước xoáy hoặc nước xiết. Trong điều kiện này người cầm lái đương nhiên phải vất vả và phải vững tay v́ anh ta là người chịu đ̣n. Chịu đ̣n ngon lành th́ thuyền sẽ ngon lành vượt qua ḍng nước xiết hoặc cơn nước xoáy. Chịu đ̣n kém cỏi th́ thuyền sẽ chông chênh, thậm chí có thể bị lật. Vậy chịu đ̣n là ǵ? Là dùng sức của ḿnh mà gh́ cây đ̣n lái cho vững, không để cho cái bánh lái bị ḍng nước làm chao đảo, quặt quẹo gây nguy hiểm cho con thuyền. Câu tục ngữ muốn nói đến vai tṛ và tráchnhiệm của người chỉ huy trong t́nh thế khó khăn, nguy hiểm. Từ nguyên dân gian đă biến nó thành "Mũi dại lái phải chịu đ̣n" đưa đến cách hiểu hiện nay rằng dại là từ trái nghĩa với khôn c̣n chịu đ̣n là bị đánh bằng roi vọt. Tuy nhiên, cái nghĩa ví von của câu này th́ lại không khác lắm so với cái nghĩa của câu gốc. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (15-12-10)
|
![]() |
|
|
![]() |
![]() |