NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Thơ > Thơ Quán
Nạp lại trang này Chuyện Đông - Chuyện Tây (An Chi)

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 15-12-10, 03:25 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

27. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Con dâu của vua gọi là ǵ? Tại sao con rể của vua lại gọi là “pḥ mă”?

AN CHI: Con dâu của vua gọi là hoàng tức. Hoàng là một thành tố chỉ những ǵ thuộc về vua, liên quan đến vua. Tức là dạng tắt của tức phụ đă trở nên thông dụng, có nghĩa là con dâu. Con rể của vua vốn được gọi là hoàng tế (tế là rể). Từ đời Ngụy, đời Tấn, chàng rể được phong làm phụ mă đô úy, gọi tắt là phụ mă, âm xưa là pḥ mă. Đây là một chức quan chuyên trách việc ngựa xe cho vua, anh chàng hoàng tế được cái tên pḥ mă là nhờ ở chức này.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (15-12-10)
  #2  
Cũ 16-12-10, 09:21 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

28. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Tứ hỉ" là ǵ? Có phải đó cũng là "tứ khoái" hay không?

AN CHI: Tứ khoái là quan niệm của người Việt Nam gồm có: ăn, ngủ, đ. và ị. Đây là bốn cái thú có tính chất sinh lư. C̣n tứ hỉ là một quan niệm của người Trung Hoa, có nghĩa là bốn điều mừng, bốn điều tốt lành. Quan niệm này bắt nguồn từ một bài thơ dân gian, tục gọi là Tứ hỉ thi (bài thơ về bốn điều vui mừng). Đây là một bài thơ mà các trường học ở thôn quê Trung Hoa ngày xưa vẫn dạy cho học sinh. Nó đă được chép trong Dung trai tùy bút của Hồng Mại đời Tống, Nguyên văn (phiên âm Hán Việt) như sau:

Đại hạn phùng cam vũ;
Tha hương ngộ cố tri;
Động pḥng hoa chúc dạ;
Kim bảng quải danh th́.


Dịch nghĩa:

Nắng hạn lâu ngày gặp mưa nhuần
Nơi xứ người gặp được bạn cũ
Đêm đuốc hoa trong pḥng cô dâu
Lúc thi đỗ bảng vàng treo tên.

Mỗi câu thơ nói lên một điều vui mừng. Tuy câu thứ ba nói lên điều vui mừng về đêm tân hôn, có phần nào trùng với cái khoái thứ ba, nhưng rơ ràng tứ khoái và tứ hỉ là hai quan niệm riêng biệt.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
  #3  
Cũ 16-12-10, 09:22 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

29. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Xin cho biết tên nước ta qua các thời kỳ lịch sử.

AN CHI: Sau đây là quốc hiệu qua các đời:
1. Xích Quỷ (thời Kinh Dương Vương),
2. Văn Lang (thời HùngVương),
3. Âu Lạc (đời An Dương Vương),
4. Vạn Xuân (đời Lư Nam Đế, 541-547),
5. Đại Cồ Việt (đời ĐinhTiên hoàng, 968-979),
6. Đại Việt từ đời Lư ThánhTông, 1055-1072),
7. Đại Ngu (đời Hồ Quí Ly, 1400),
8. Đại Việt (từ đời Lê Thái Tổ, 1428-1433),
9. Việt Nam (từ đời Gia Long, 1802-1819),
10. Đại Nam (từ đời MinhMạng, 1820-1840),
11. Việt Nam (Dân chủ Cộng ḥa) từ 2.9.1945.
Sau khi An Dương Vương mất Cổ Loa và tự tử th́ nước Âu Lạc bị Triệu Đà sát nhập vào quận Nam Hải để lập thành nước Nam Việt. Nước này lại bị nhà Hán chiếm rồi đặt thành Giao Chỉ bộ chia làm 9 quận trong đó 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, chủ yếu là Giao Chỉ, rồi đến Cửu Chân, có những phần đất cũ của Âu Lạc. Năm 203, Hán Hiến Đế cải gọi là Giao Châu. Năm 679, Đường Cao Tông đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Thời pháp thuộc, nước ta bị chia làm Tonkin, Annam và Cochinchine. Trước năm 1945, vẫn dịch thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Từ năm 1945, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa gọi là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Sau đó, chính quyền thân Pháp gọi là Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần, rồi Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Trước 1945, tên Việt Nam vẫn có được dùng nhưng đó chỉ là ngôn từ của sách báo hoặc là yếu tố trong tên của tổ chức (như: Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, v.v. ) mà thôi.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
  #4  
Cũ 16-12-10, 09:24 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

30. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Ba hồn bảy vía" là những hồn nào, vía nào? Tại sao có người c̣n cho rằng đàn ông có bảy vía mà đàn bà lại có tới chín vía?

AN CHI: Ba hồn bảy vía là một quan niệm xuất phát từ Trung Hoa. Đây là một quan niệm của Đạo giáo. Tiếng Hán là tam hồn thất phách. Sách Bảo Phác Tử của Cát Hồng đời Tấn có viết: "Muốn trở nên thần thông th́ phải luyện phép chia ḿnh bằng nước, lửa. Chia ḿnh được th́ thấy được ba hồn bảy vía của bản thân". Sách Vân cập thất tiêm của Trương Quân Pḥng đời Tống nói rơ ba hồn là: thai quang, sàng linh và u tinh c̣n bảy vía là: thi cẩu, phục thỉ, tước âm, thôn tặc, phi độc, trừ uế và xú phế. Sự phân biệt bảy vía của đàn ông với chín vía của đàn bà có thể chỉ là do một số người Việt Nam đặt ra. Họ giải thích rằng sở dĩ như thế là v́ đàn ông có bảy lỗ mà đàn bà th́ có tới chín lỗ. Bảy lỗ th́ bảy vía c̣n chín lỗ th́ chín vía. Bảy lỗ ứng với bảy vía th́ đúng với quan niệm của dân gian cho rằng đó là bảy hồn bóng: bóng nh́n, bóng nghe, bóng thở và bóng nói. Hai lỗ mắt để nh́n, hai lỗ tai để nghe, hai lỗ mũi để thở và lỗ miệng để nói th́ đúng là bảy lỗ. Bảy lỗ này th́ đàn ông và đàn bà đều có. C̣n chín lỗ là những lỗ nào? Là bảy lỗ trên cộng với lỗ tiểu tiện và lỗ đại tiện. Vậy chẳng có lẽ đàn ông th́ không có hai lỗ sau này chăng? Rơ ràng cách phân biệt đàn ông bảy lỗ với đàn bà chín lỗ là điều vô lư: về phương diện này th́ nam nữ "tuyệt đối b́nh đẳng".

Nhưng do đâu mà lại có quan niệm trên đây? Có thể là do một sự hiểu nhầm. Tiếng Hán gọi bảy lỗ là thất khiếu và chín lỗ là cửu khiếu. Trong cửu khiếu th́ bảy lỗ trên gọi là thượng khiếu c̣n hai lỗ dưới gọi là hạ khiếu. Thượng khiếu cũng gọi là dương khiếu c̣n hạ khiếu cũng gọi là âm khiếu. Chúng tôi ngờ rằng người ta đă hiểu nhầm âm khiếu là lỗ... riêng của phụ nữ, nên mới cho rằng đàn bà hơn đàn ông hai lỗ. Có lẽ v́ thế mà sinh ra chuyện "nam thất nữ cửu” chăng?
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
  #5  
Cũ 16-12-10, 09:25 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

31. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Tiền cheo" là tiền ǵ?

AN CHI: Trong Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh đă liên hệ lệ nộp cheo Ở Việt Nam với tục lan nhai (chặn đường) của Trung Hoa. C̣n Phan Kế Bính th́ đă nói rơ như sau: "Lệ cưới xin phải nộp tiền lan nhai cho làng, thể gọi là nộp cheo. Người trong làng lấy nhau th́ nộp độ một vài đồng bạc, gọi là cheo nội, người ngoài lấy gái làng th́ bao giờ cũng phải nộp nặng hơn, hoặc năm sáu đồng hoặc mươi đồng hoặc một vài chục, tùy tục riêng từng làng, gọi là cheo ngoại. Có nơi không lấy tiền, bắt nộp bằng gạch bát tràng, hoặc nơi th́ bắt nộp bằng mâm đồng, bát sứ, tùy làng cần dùng thức ǵ th́ nộp thức ấy chớ không nộp tiền, nhưng chiếu giá tiền th́ cũng tương đương nhau. Ngoài lệ cheo làng, lại có lệ cheo hàng xóm, cheo bản tộc, cheo bản thôn, hoặc năm ba tiền kẽm hoặc một vài quan hay một hai đồng bạc, v.v.. Hễ có cheo rồi mới thành gia thất. Cheo tức là ư phân bua với làng nước. Lấy nhau đă có cưới cheo là sự hôn thú phân minh, về sau vợ chồng có điều ǵ không dễ mà ly dị được nhau và người ngoài cũng không có phép mà tranh cạnh được nữa (Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp, 1990, tr.180-181).

Thế là Phan Kế Bính đă nói rất rơ về khái niệm cheo. Nhưng việc cả ông lẫn Đào Đây Anh liên hệ lệ nộp cheo với tục lan nhai th́ lại là một việc không đúng. Lan nhai (chặn đường) là một tục lệ khác mà chính Phan Kế Bính cũng có nói đến khi ông mô tả lệ giăng dây: "Trong lúc đi đường th́ những kẻ hèn hạ hoặc lấy sợi chỉ đỏ, hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang giữa đường, đám cưới đi đến phải nói tử tế mà cho chúng nó vài hào th́ chúng nó mới cởi dây cho đi. Chỗ th́ chúng nó bày hương án, chờ đi đến, đốt một bánh pháo ăn mừng, chỗ ấy phải đăi họ một vài đồng mới xuôi. Nếu bủn xỉn mà không cho chúng nó tiền, th́ chúng cắt chỉ, cắt dây nói bậy nói bạ, chẳng xứng đáng cho việc vui mừng, v́ vậy đám nào cũng phải chọ” (Sđd, tr.59). Đây mới đích thị là tục lan nhai.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
  #6  
Cũ 16-12-10, 09:26 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

32. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)
“Chữ D.C. sau chữ Washington (Washington D.C.) là chữ ǵ ?

AN CHI : D.C. là 2 chữ đầu của District (of) Columbia. District of Columbia là một hạt liên bang, khác với Columbia là thủ phủ của bang South Carolina. V́ Washington, thủ đô Hoa Kỳ, nằm trong hạt liên bang Columbia nên người ta thường viết Washington D.C. để phân biệt nó với Washington là tên một bang ờ miền tây bắc Hoa Kỳ mà thủ phủ là Olympia.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
  #7  
Cũ 16-12-10, 09:27 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

33. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)
“Tại sao lại nói “con gái con đứa” để chỉ con gái và “đàn ông đàn ang” để chỉ đàn ông ?

AN CHI : Từ điển tiếng Việt 1992 giảng rằng con gái con đứa, là một lối nói của khẩu ngữ hàm ư chê bai để chỉ gọi con gái nói chung. Đây chỉ là cách giảng theo nghĩa hiện đại. C̣n xét về lịch đại th́ con gái con đứa lại có nghĩa là con gái con trai. “Trai” là nghĩa xưa của đứa. Nghĩa này biến mất khỏi tiếng Việt hiện đại nhưng trong tiếng Mường – một ngôn ngữ cùng gốc với tiếng Việt – th́ đứa vẫn c̣n có nghĩa là “trai” (Xem, chẳng hạn, N.K. Skolovskaja, Nguyễn Văn Tài, Jazưk mương, Moskva, 1987, tr. 189, từ 1830). V́ không c̣n biết được nghĩa của đứa nữa nên người ta mới dùng cụm từ con gái con đứa để chỉ con gái một cách khái quát.

Trường hợp của đàn ông đàng ang cũng tương tự. Ang là biến thể ngữ âm của áng trong áng ná mà Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes và Đại Nam quấc âm tự vị của Húnh-Tịnh Paulus Của đều giảng là “cha mẹ”. Vậy ang là cha và đàn ông đàn ang là bậc ông bậc cha (so sánh với đàn anh đàn chị, chẳng hạn). V́ không c̣n biết nghĩa của ang là ǵ nữa, nên người ta mới dùng cụm từ trên đây mà chỉ đàn ông nói chung, có hàm ư đùa cợt, tưởng rằng ở đây đàn ông đối nghĩa với đàn bà và cụm từ đang xét là kiểu từ lấp láy (mà không ngờ rằng ở đây đàn ông là “bậc ông”, cũng như đàn anh là “bậc anh” và đàn chị là “bậc chị”.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (05-01-11)
Trả lời


Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 05:18 AM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.