NguyetVien


Trở lại   Nguyệt Viên > Vườn Thơ > Thơ Quán
Nạp lại trang này Việt Nam Văn Học Sử Yếu - Dương Quảng Hàm

Thông Báo
Hướng dẫn cách đăng kư nick tham gia Nguyệt Viên
Cuộc thi thơ Đường Luật "T́nh yêu 2020""
Lời cảm ơn và h́nh ảnh của chuyến đi "Thương về Miền Trung 2010"

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 18-03-11, 11:20 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Chương 6


Trong hai chương thứ ba và thứ tư, ta đă xét qua hai bộ Tứ thư và Ngũ kinh nói về học thuyết Nho giáo là cái đạo giáo được Việt Nam tôn sùng nhất. Nhưng trừ Nho giáo ra, người nước ta c̣n chịu ảnh hưởng của hai tôn giáo khác nữa là Phật giáo và Đạo giáo, mà cả hai tôn giáo ấy cũng từ nước Tàu, hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp, truyền sang ta. Vậy ta phải xét quả chủ nghĩa hai tôn giáo và sự truyền bá hai tôn giáo ấy trong nước ta như thế nào ?

Phật giáo.

Phật tổ. Người sáng lập ra Phật giáo (hoặc Thích giáo là Tất Đạt Đa, họ Cồ Đàm (Gotama), thuộc ḍng Thích ca hoặc Thích già (Sakya); bởi thế ta thường gọi ngài là Thích ca mâu ni (Sakya Muni) (mâuni: tịch mịch, lặng lẽ). Ngài sinh ở thành Ca-tỳ-la (Kapilavastu) ở phía bắc Ấn độ, vào thế kỷ thứ VI và mất vào khoảng năm 480 tr.T.L nghĩa là ở đồng thời với Đức Khổng tử. Ngài là con một nhà quí tộc, có vợ con, nhưng thấy sự khổ sở của người đời, bỏ cả quyền vị phú quí, đi tu trong sáu năm, sau ngài tỉnh ngộ, tự xưng là Như lai (1), rồi đi thuyết pháp các nơi để truyền đạo giáo của ngài. Đời sau gọi ngài là Phật (2) và tôn ngài là ông tổ Phật giáo.
--
(1) Như lai: Bậc giác vi như, kim giác vi lại, nghĩa là: vốn biết là như, nay biết là lai (đạo viên tập)
(2) Phật , hoặc Phật đà hoặc Bồ đề (chữ Phạn là Bouddha) nghĩa là giác (biết): một là tự giác (tự ḿnh tỉnh ngộ), hai là giác tha (thuyết pháp để cứu độ người khác), ba là giác hành viên măn (sự biết và làm đều trọn vẹn) --
Chủ nghĩa của đức Thích ca.
A) Đức Thích ca nhận thấy cuộc đời là khổ ải tức là biển khổ (sinh, lăo, bệnh, tử, v.v.) mà người ta bị trầm luân nghĩa là ch́m đắm trong đó. Sự khổ ấy, không phải một kiếp nầy phải chịu mà hết kiếp nầy sang kiếp khác, cứ sinh tử, tử sinh măi mà chịu nỗi khổ ấy không bao giờ thôi: tức là người ta phải ở trong ṿng luân hồi nghĩa là cái bánh xe xoay hết ṿng lại trở lại măi. Cái nghiệp ta chịu kiếp nầy là cái quả của công việc ta về kiếp trước mà những công việc của ta về kiếp nầy lại là cái nhân của nghiệp ta về kiếp sau, thế là ta cứ phải chịu sự nghiệp báo (karma) ấy măi.
B) Cái nguyên nhân của sự khổ là ǵ?
Chính là ḷng tham muốn của người ta: tham sống, tham sướng, tham mạnh.
C) Vậy muốn diệt khổ nghĩa là dứt hết nổi khổ năo th́ phải tiêu trừ ḷng ham muốn không để cho c̣n một chút nào. Muốn thế, phải dốc chí tu hành, chánh tâm theo đạo để cắt đứt những cái nhân duyên nó ràng buộc ḿnh ở trần thế. Khi đă diệt được sự khổ rồi, tức là được giải thoát, nghĩa là ra khỏi ṿng luân hồi, nghiệp báo, không sinh không tử nữa mà tới cơi Niết bàn (Nirvana).
Tóm lại, đức Phật cho đời người là khổ và mục đích lập giáo của ngài là cứu độ chúng sinh cho thoát nỗi khổ năo (Xem bài đọc thêm số 1 và số 2)
Sự bành trướng của Phật giáo. – Sau khi Phật tổ mất, Phật giáo dần dần lan rộng:
A) Trong nước Ấn độ, thoạt tiên ở khu vực sông Hằng Hà (Gange) là nơi sinh trưởng của Phật tổ rồi đến khắp cả nước Ấn Độ (thế kỷ thứ III tr.T.L)
B) Ra các nước ngoài do hai đường:
1) Do đường bộ, sang các nước Trung hoa (thế kỷ thứ I, về đời nhà Hán), Cao ly (thế kỷ thứ IV), Nhật Bản (thế kỷ thứ VI), các xứ ở Trung Á như Tây Tạng, Mông Cổ (thế kỷ thứ VII).
2) Do đường thủy sang đảo Tích Lan (Sri Lanka), Nam dương quần đảo (Indes Néerlandaises)v.v.

Sự truyền bá Phật giáo ở nước Nam.

- Phật giáo truyền sang nước ta do hai cách:
A) Nhờ các vị sư Tàu sang tránh nạn ở Bắc kỳ, sau khi vua Hán Linh đế mất (189) trong khi nước Tàu có nội loạn (cuối thế kỷ thứ II và đầu thế kỷ thứ III):
B) Nhờ các vị sư người Thiên trúc : Khang cư, Nguyệt thị, Indoseythe (4) sang ở nước ta, hoặc đi qua nước ta để sang Tàu trong thế kỷ thứ III.
Xem thế th́ biết Phật giáo sang ta hoặc theo cách trực tiếp từ Ấn độ sang, hoặc theo cách gián tiếp tự bên Tàu sang. Nhưng về sau cái ảnh hưởng Phật giáo Tàu mạnh hơn nên nay Phật giáo ở bên ta cũng theo phái Đại thừa (5) như ở bên Tàu vậy.
Lịch sử Phật giáo ở nước Nam.
Có thể chia ra làm ba thời kỳ:
A) Thời kỳ truyền bá (từ cuối thế kỷ thứ II đến cuối thế kỷ thứ VI, tự lúc nội thuộc nhà Hán đến hết đời Nam Bắc triều): nhờ các vị sư Tàu và thứ nhất là các vị sư Ấn độ mà Phật giáo dần dần truyền trong dân gian, nhưng chưa có tổ chức ǵ.
B) Thời kỳ phát đạt: (tự thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XIV , từ lúc nội thuộc nhà Tùy đến cuối đời nhà Trần): trong thời kỳ này, có ba Thiền phái (6) kế tiếp nhau thịnh đạt ở nước ta.
1) Tự năm 580, vị sư người Tây trúc tên là TiniĐaLưuChi, đến ở chùa Pháp vân (nay thuộc tỉnh Bắc ninh) lập một Thiền phái thứ nhất ở nước Nam truyền được 19 đời (680-1216) trong các vị Pháp Hiền (+626), Đỗ Pháp Thuận (+990+, Vạn Hạnh (+1018), Từ Đạo Hạnh (+1122).
2) Tự năm 820, vị sư người Tàu tên là Vô Ngôn Thông đến ở chùa Kiến sơ (ở làng PHù đổng, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh) lập một Thiền phái thứ hai truyền được 14 đời (820-1221) trong có các vị sư Ngô Chân Lưu (+1011) và vua Lư Thái Tôn (1000-1054) .
3) Đến thế kỷ thứ XI, vị sư Tàu tên là Thảo Đường được phong làm quốc sư lập một Thiền phái thứ ba truyền được 5 đời (1069-1205), trong các vị vua nhà Lư: Thánh tôn (1023-1072), Anh Tôn (1136-1175), Cao tôn (1173-1210)
Trong thời kỳ nầy, đạo Phật ở nước ta rất thịnh, hầu được coi như quốc giáo: triểu đ́nh đặt chức quốc sư, mở khoa thi tam giáo (Nho, Phật, Lăo); nhiêù ông vua nhà Lư, nhà Trần đi tu sau khi thoái vị và chùa chiền dựng lên ở trong nước rất nhiều.
C) Thời kỳ suy đồi (từ thế kỷ thứ XV tức là tự đời Hậu Lê trở về sau): Phật giáo bị phái Nho công kích không được nhà vua săn sóc đến nữa, lâu dần thành một tôn giáo của dân chúng, không có tổ chức thống hệ ǵ nữa. Các tăng ni phần nhiều là người vô học thức bày ra các mối dị đoạn, các lễ nghi phiền phức để cho bọn hạ lưu (thứ nhất là đàn bà) dua theo c̣n các giáo lư cao thâm của đạo Phật ít người hiểu nữa.
--
(3) Khang cư (Sogdiane): tên cũ một xứ ở Châu Á, nay là xứ Boukhara thuộc Turkestan russe.
(4) Nguyệt thị (Indescythe): giống người ở phía bắc Ấn độ, phía trên sông Indus bây giờ.
(5) Vào khoảng thế kỷ thứ II sau T.L, Phật giáo chia làm hai phái: một là Tiểu thừa (nghĩa đen là xe nhỏ: chữ phạn là Hinayâna) về giáo lư th́ Tiểu thừa được giữ chính truyền của Phật tổ hơn. Về sau các nước thuộc về Nam tôn (như Tích lan, Xiêm la, Miến điện, Cao Miên) theo phái Tiểu thừa, cón các nước htuộc về Bắc tôn (như Tây tạng, Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam ) theo phái đại thừa.
(6) Thiền phái hoặc thiền tôn: Một phái của Phật giáo do ông tổ thứ 28 là Bồ đề đạt ma (Bodhidharma - mất năm 528) người Thiên trúc, sang đất Quảng Châu bên tàu về đời nhà Lương lập ra. Thiền nghĩa là thanh tĩnh; phái này cốt đem ḷng thanh tĩnh để tu luyện cho thành Phật, không cần văn tự nên cơng bọi là “tâm tôn”. --

2. Đạo giáo


Lăo tử.- Người sáng lập ra Đạo giáo là Lăo Tử (hai chữ này chỉ là danh hiệu và nghĩa là “ông thầy già”, nhưng thân thế của ông ,ta không biết rơ. Theo sách Sử kư của Tư mă Thiên (7) th́ ông họ là Lư, tên là Nhĩ tự là Bá dương thụy là Đam người huyện Hỗ thuộc nước Sở (nay thuộc tỉnh Anh huy) không rơ sinh và mất năm nào (có sách cho là sinh năm 570 và mất năm 490 tr.TL(nhưng cũng ở đồng thời với đức Khổng tử, nghĩa là vào thế kỷ thứ VI tr.T.L v́ sử chép rằng năm 522, Khổng tử có một lần đến hỏi lễ ở ông. Ông có làm quan trụ hạ sử (quan giữa công văn) nhà Chu. Sau ông bỏ đi về phía tây (Cam túc), không biết rồi ra thế nào. Nhưng có người lại bác cái thuyết ấy, cho rằng Lăo tử chính tên là Dương Bá Phú ở vào thế kỷ thứ VIII tr.TL chứ không phải là Lăo Đam ở đời Xuân thu nói trên.
Dù sao chăng nữa, ông có viết ra Đạo đức kinh (hai thiên, 81 chương, hơn năm ngàn lời nói) để bày tỏ cái tôn chỉ của ông, bởi thế mới gọi cái đạo của ông sáng lập là đạo giáo.
Về sau lại có Liệt tử và Trang Tử cũng làm sách để diễn giải và truyền bá cái tôn chỉ của ông và bài bác các học thuyết khác, thứ nhất là Nho giáo.
--
(7) Tư Mă Thiên: Một đại sử gia nước Tàu vào thế kỷ thứ I tr. T.L về đời nhà Hán.
(8) Liệt tử: Họ Liệt, tên là Ngự Khấu người nước trịnh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) ở về đời Chiến Quốc, vào quảng thế kỷ thứ V, thứ IV tr. TL . Các môn đệ của ông chép những lời ông dạy thành chữ Liệt Tử gồm có 8 thiên.
(9) Trang Tử: tên là Chu, người đất Mông (nay thuộc tỉnh An Huy) ở về đời Chiến quốc, vào thế kỷ thứ IV tr. TL soạn ra sách Trang tử gồm hơn mươi vạn lời nói.
--
Tôn chỉ của Lăo tử

A) Về triết lư.- Lăo tử cho Đạo là một nguyên lư rất huyền diệu do đấy mà sinh ra trời đất và vạn vật. Đạo vốn là đơn nhất, sinh ra âm dương; âm dương sinh ra trời, đất và khí; trời, đất và khi sinh ra muôn vật, muôn vật sinh ra khắp cả thế gian, rồi quay trở về Đạo. Trở về Đạo,rồi lại hóa ra vạn vất, cứ đi đi về về măi thế, tức là cái cuộc biến cải sống chết ở đời, mà là cái cuộc tuần hoàn theo lẽ tự nhiên.
B) Về Luân lư.- Người ta muốn theo đạo th́ nên thanh tĩnh vô vi. Nghĩa là phải tuyệt hết cái bụng nghĩ ngợi, ham muốn và quên cả h́nh hài đi để được trong sạch yên lặng mà không hành động ǵ cả, cứ phó mặc tự nhiên không phải nhọc trí nhọc sức. Sở dĩ người ta phải khổ sở, lo nghĩ là v́ phải hành động mà nguồn gốc của sự hành động là dục t́nh; bởi thế, nếu dứt hết dục t́nh th́ không hải hành động, không phải lo nghĩ khổ sở mà ḷng được thư thái, thân được an nhàn. Cho nên trong nhân loại kẻ gần Đạo nhất là đứa anh nhi mà người có nhiều đức cũng hồn nhiên như đứa bé con vậy.
Đạo giáo biến đổi thế nào? – tư tưởng của Lăo tử là một nền triết học cao thâm quá, người thường không hiểu, nên không bao lâu đạo ấy biến đổi đi mà thành một tôn giáo có nhiều dị đoan và ảo thuật. Người ta tôn Lăo tử làm Thái thượng Lăo quân và bày ra thuật tu tiên, luyện đan (luyện thuốc tràng sinh bất tử), thuật số, phù thủy v.v. ..
Sự truyền bá Đạo giáo sang nước ta.
Đạo giáo truyền sang ta từ đời Bắc thuộc, những không có môn phái thống hệ ǵ.
Bậc thượng lưu học thức xem sách của Lăo tử và của các môn đồ Đạo giáo như Liệt tử, Trang tử th́ nhiễm những tư tưởng tiêu diêu phóng khoáng, chán đường công danh phú quư, cần sự an nhàn tự do.
C̣n thường dân th́ tin các dị đoan về thần tiên, về phù thủy và theo các ảo thuật như bùa bèn, ấn quyết v.v..
Ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo đối với văn chương của ta.- Không kể phương diện tín ngưỡng và dị đoan, Phật giáo và Đạo giáo rất có ảnh hưởng đến văn chương nước ta. Trong tác phẩm cũ của ta, bao nhiêu những tư tưởng phóng khoáng, nhàn tản, yếm thế là do ở đạo giáo mà ra. Thí dụ, trong tập thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong tập hát nói của Nguyễn Công Trứ, những bài vịnh cảnh nhàn đêù là chịu ảnh hưởng của Đạo giáo cả.
C̣n những tư tưởng về khổ ải, trầm luân, nhân quả, nghiệp báo, là do Phật giáo mà ra cả.
Ta cứ xem khúc Cung oán (đoạn nói về cuộc đời khổ sở) và Truyện Kiều th́ thấy nhiều ư tưởng đă thoát thai ở Phật giáo mà ra.

Các bài đọc thêm.

1) Phật thuyết pháp lần thứ nhất về “tứ diệu đề”

“Nầy các thầy sa môn, ở đời có hai sự thái quá, người tu đạo phải lánh xa. Hai sự thái quá là ǵ? Một là đam mê trong ṿng sắc dục : như thế th́ hèn xâú, trái với đạo lư, uổng công không đáng. Này các thầy sa môn, hai sự thái quá ấy , Như lai đều phải lánh xa cả.
Như lai đă t́m được con đường đi giữa, để mở mặt, mở trí cho người ta, khiến cho tinh thần được b́nh tĩnh, được thông tỏ, được sáng suốt, được tới cơi nát bàn. Vậy các thấy có biết con đường giữa mà như lai đă t́m được ấy, con đường đểm ở mắt mở trí cho người ta, khiến cho tinh thần được b́nh tĩnh, được thông tỏ, được sáng suốt, đươc tới cơi nát bàn ấy, là ǵ không?
Con đường thần diệu ấy gọi là đường bát chính: 1) Chính kiến (samyaksadrsti), nghĩa là thành thực mà tin đạo; 2) Chính tư duy (samyaksankalpa) , nghĩa là thành thực mà suy xét; 3) chính ngữ (samyaksarmaunta), nghĩa là thành thực mà làm việc; 5) Chính mệnh (samyabjvara), nghĩa là thành thực mà mưu sinh; 6) Chính tinh tiến ( sayakvyâma), nghĩa là thành thực mà mong tới; 7) Chính niệm (samyaksmarti) nghĩa là thành thực mà tưởng nhớ ; 8) Chính định (samyaksamạdhi) , nghĩa là thành thực mà ngẫm nghĩ. Nầy các thầy sa môn, ấy đó là con đường trung đạo. Như Lai đă phát minh ra được, để mở mắt mở trí cho người ta, khiến cho tinh thần được b́nh tĩnh, được sáng suốt, được tới cơi niết bàn.
“ Nầy các thầy sa môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái ǵ không ưa mà phải hợp là khổ, cái ǵ ưa mà phải dời là khổ, cái ǵ muốn mà không được là khổ, nói tóm lại triền miên trong ngũ trọc là khổ (10) .
“Nầy các thầy sa môn, đây là phép mầu về nguyên nhân sự khổ: nguyên nhân sự khổ là ḷng tham sống, v́ tham sống mà phải luân hồi sinh tử, càng tham càng muốn, càng được càng tham, tham sống, tham sưóng, tham mạnh (11)
“Nầy các thầy sa môn, đây là phép mầu về sự diệt khổ, diệt khổ phải tiêu trừ ḷng tham dục, phải giải thoát chi hết ḷng tham dục, không để cho c̣n một chút nào. (12)
“Nầy các thầy sa môn, đây là phép mầu về sự diệt khổ, đạo diệt khổ tức là đạo bát chính: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định (13)”

Phạm Quỳnh
Phật giáo lược khảo
(Nam phong tạp chí, t.VII số 40, tháng 10-1920)


--
(10) Đây tức là đệ nhất diệu đề.- “Ngũ trọc” hay là “ngũ uẩn” (panchaskandha) là năm cái nguyên tố họp lại làm thành ra thân thể tâm thần người ta: 1: sắc uẩn (rupaskhandha) là h́nh thể người; 2. thụ uẫn (vedaskandha), là sự cảm giác; 3 tưởng uẩn (sanjnaskandha), là sự tưởng tượng; 4: hành uẩn (sanskaraskandha) là sự hành vi, 5: thức uẩn (vijnânaskandha, là sự ư thức.
(11) đệ nhị diệu đề
(12) đệ tam diệu đề.
(13) Đệ tứ diệu đề - Bốn diệu đề trong sách Tàu thường nói tóm lại bốn chữ là khổ tập, diệt đạo
--

2. Nát bàn là ǵ?
Thuộc về Nát bàn, các học giả Âu châu nghị luận cũng đă nhiều, nhiều người lấy cái lư tưởng riêng của Âu châu mà b́nh phẩm, đại khái trách đạo Phật rằng lấy sự hư vô tịch diệt làm cứu cánh cho đời, một tôn giáo như thế thời không những không bổ ích ǵ cho quần sinh, mà lại có thể di hại cho xă hội. Nay không muốn nối gót các học giả Âu châu mà phẩm b́nh bao biếm đạo Phật, nhưng phải biết rằng đạo Phật đă lấy sự “khổ” làm tiền để thời phải lấy sự “diệt” làm hậu kết, đă cho rằng người ta có thên là có khổ thời muốn hết khổ tất phải diệt thân, trước sau thật là duy nhất, lư luận không có mâu thuẫn. Vậy rút lại vấn đề chỉ ở một câu, ở đời có khổ hay không? Câu hỏi đó , thiết tưởng không ai là không trả lời rằng có, không ai là không cùng phật công nhận rằng sống là khổ, và nước ở đời ví đem tích lại thời sánh với nước mặn bể khơi cũng chưa thấm vào đâu.Sự khổ đă có, th́ phải t́m đường thoát khổ, muốn thoát khổ thời phải diệt khổ, nhưng khổ là liền với thân, khổ là một với sống, diệt khổ tức là diệt thân, diệt sống, tự diệt vậy.
Song người đời vẫn lấy sự hư vô làm sợ; nếu măn kiếp tu hành, hết sức học đạo mà cứu cánh chỉ đến tiêu nhập vào chốn hư vô, thời kinh hải biết dường nào ! Phật cũng biết thế, nên Phật đối với vấn đề cứu cánh cũng giữ một thái độ như khổng phu tử đối với qủy thần vậy; không hề nói rơ bao giờ, mỗi khi đề cập đến, vẫn có ư thoái thác. Khổng tử thời môn đệ hỏi đến việc qủy thần, đến sự chết, trả lời rằng: “Các anh chưa biết việc đời người đă hỏi việc qủy thần làm chi, các anh chưa biết sự sống đă hỏi sự chết làm ǵ?” Phật tổ thời đệ tử hỏi cứu cánh có phải là cơi hư vô không, và khi linh hồn đến khi nhập nát bàn c̣n ǵ nữa không, bèn dùng cách tỉ dụ mà hỏi lạirằng: “Ta hỏi : nay có một người bệnh thập tử nhất sinh, có kẻ đem thuốc lại cứu cho khỏi chết, người ấy có chịu uống ngay không, hay là c̣n hỏi thuốc kia ở đâu mà lại, thuốc kia làm bằng vật ǵ? Như lai thấy chúng sinh trầm luân trong bể khổn, muốn ra tay tế độ cho siêu thoát, khác nào như kẻ cho thuốc người bệnhh bệnh nặng, thuốc ẳsn, cứ việc uống c̣n hỏi ǵ?” – Xưa nay những bậc triết nhân quân tử đă sáng suốt muôn lẽ, đă thấu hiểu mọi sự, muốn ra tay tế độ cho quần sinh thường có nhiều điều tự ḿnh biết mà không thể truyền bá ra được cũng tức như ông thầy thuốc biết là bệnh trạng nguy mà không dám nói rơ cho bệnh nhân biết vậy. Phật tổ cũng vậy; chắc trong ư riêng vẫn biết rằng linh hồn sau khi tịch diệt rồi là vào cơi tịch mịch hư vô, chớ chẳng phải nơi thiên đàng cực lạc ǵ; nhưng không hề thuyết minh cho ai biết bao giờ, là sự có kẻ chưa thoát sạch trần tục, nhân thế mà ngă ḷng tu đạo chăng? V́ những sự biết như thế là sự biết “chết người” vậy. Bởi thế nên dầu các nhà bác học t́m khắp trong kinh sách, cũng không hề giải được nát bàn là thế nào. Ông Oldengerg đă phải chịu thú thật rằng: “Chúng tôi đă hết sức nghiên cứu mà kết quả cũng lạ thay: chỉ có hai thuyết, không ra ngoài được, một rằng nát bàn là cơi hư vô, hai rằng nát bàn là nơi cực lạc, thời rút cục lại chẳng thuyết nào đúng hẳn” (14)
Phạm Quỳnh
Phật giáo lược khảo.


--
(14) “Le résultar deces recherches est d’ailleurs assez singulier; les deux alternatives qui formaient, semble-t-il, un véritable dilemme, à savoir que dans ;’ancienne communauté, le nirvâna devait être concu soit comme le néant, soit comme la beatitude suprême, it s’est trouvé que ni l’une ni l’autre n’avait tout à fait raison” Oldengerg, P.274, Tự số 910 đến 14): (Lời chú thích của tác giả)
--
3. Đạo là ǵ?
Đạo là ǵ mà tự đâu sinh ra? Lăo tử cho là thoạt kỳ thủy th́ không có ǵ cả (15), bởi cái không mà thành ra cái có, rồi do cái có đó mà thành ra muôn vật, nghĩa là trước hết là không, rồi tự nhiên thành ra một vật độc nhất trong khoảng không gian: do vật độc nhất ấy mà sinh muôn vật trong thiên hạ.
Vật độc nhất đó gọi là ǵ? Không biết gọi tên là ǵ, nhưng ta đặt tên là chữ đạo (16). Đạo là một chữ đặt ra để có tên mà gọi cho dễ, chứ kỳ thực th́ không sao mà tả rơ ra được, v́ rằng: (17) cái đạo mà đă nói rơ ra được th́ không phải cái thuờng bao giờ cũng có nữa mà một vật đă có thể gọi tên ra được th́ cũng không phải cái vật thường vẫn có ấy nữa.
Đạo là một vật tự nhiên hỗn thành ra trước khi có trời đất, mờ mờ mịt mịt, im lặng một ḿnh trong khoảng không gian ở đâu cũng có, mà bao giờ cũng thế, không suy suyển chút nào mà muôn vật trong vũ trụ cũng bởi đó mà sinh ra cả.
Đạo lại là một giống rất to, mà không có h́nh thể ǵ cả. (19) Trông không trông thấy được, nghe không nghe thấy được, sờ không sờ thấy được, mênh mông, lờ mờ, dẫu muốn suy diễn đến đâu cũng không xiết được, mà bao giờ các toàn thể của Đạo vẫn là đơn nhất, nghĩa là chỉ có một mà thôi, chứ không có hai ba nào cả. Nhân có cái tính đơn nhất ấy mà thành ra có trời đất và muôn vật, nghĩa là do cái tính đơn nhất của Đạo mà sinh ra âm dương , tức là trời đất, trời đất cùng với khí sinh ra vạn vật. Với tính đơn nhất ấy thực là linh hoạt. Trời có được cái tính đơn nhất ấy mới sáng, đất có nó mới vững, thần có nó mới thiêng, muôn vật có nó mới sinh sản măi măi. (22)
Trần Trọng Kim
Đạo giáo
(Nam Phong tạp chí t.XII, số 57 tháng giêng 1923)



4. Lẽ sinh tử theo Trang tử.
Người ta sinh ra ở trong khoảng trời đất này chẳng khác ǵ cái bóng mặt trời thoáng qua trước cái khe cửa. Đường sin htử là cái lối đi ra đi vào của vạn vật. Sự đi lại ấy thật là nhẹ nhàng, dễ dàng, ai ai cũng thế, chứ không ai khác ai. V́ sự hóa mà sinh, rồi lại v́ sự hóa mà tử, vậy th́ việc ǵ mà ta lo, ta buồn. Những người lấy sự sống chết làm lo làm buồn là người không biết ǵ, khác nào như muốn đem cất cai cung của trời, thắt cái túi áo của trời, làm trái với mệnh trời th́ làm sao được. Ta nên để mặc cái cung trời lúc dương lúc trùng, cái túi áo trời lúc mở lúc xếp, cứ biết rằng cái lẽ sống chết là một lẽ thay đổi, vừa liên tiếp, vừa thong thả, khi hồn phách ở th́ thân ḿnh ở, khi hồn phách đi th́ thân ḿnh đi theo, cũng về cả trong quăng thái hư mà thôi (23)
Sự sống chết là thế th́ việc ǵ mà lo sợ. Chẳng qua ḿnh lo sợ cái ḿnh chưa biết ra thế nào, chứ biết đâu sự thay đổi của tạo hóa là một sự hay. “Ngày xưa, người con gái đẹp đất Lệ sang lấy vua nước Tấn, lúc ở nhà đi ra th́ kêu khóc. Đến lúc về ở với vua được đủ mọi điều sung sướng, lúc ấy mới hối sự ḿnh kêu khóc”. Thế th́ biết đâu người chết rồi lại không hối lúc trước ḿnh đă cầu sống. thường đêm nằm chiêm bao uống rượu thấy sáng dây có sự buồn rầu, hoặc đêm nằm chiêm bao thấy sự buồn rầu, sáng dậy có sự vui vẻ, nghĩa là sự chiêm và sự thực không giống nhau. Đương lúc ḿnh chiêm bao ḿnh không biết là chiêm bao, mà trong lúc chiêm bao ḿnh vẫn đoán việc chiêm bao, măi đến khi tỉnh dậy mới biết là chiêm bao thật. Chỉ có bậc đại giác th́ mới biết được cuộc đời là một giấc chiêm bao lớn mà thôi, con người ngu th́ chiêm bao vẫn cho là tỉnh, rồi tưởng ḿnh chủ tể được cái tâm trí ấy (24)
Thường giấc mộng mơ màng là cuộc sống ở đời, mà lúc tỉnh dậy là sự chết đó thôi. Bởi vậy cho nên những bậc “chân nhân” cứ tự nhiên nhi nhiên, hễ gặp vào lúc sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh, hợp thời và thuận cảnh, th́ c̣n có việc ǵ mà buồn hay vui? Người ta lúc sống chẳng qua cũng như bị cái dây nó treo ḿnh ở trong khoảng không gian, lúc chết cổi cái dây ấy mà xuống. Cũng thí dụ như củi với lửa: Củi là h́nh hài, lửa lái tinh thần, lửa bén vào củi, rồi củi hết là lửa tắt. nhưng kỳ thực là ta biết thế nào là lửa hết được: lửa tắt là v́ hết củi đó thôi (25)

Trần Trọng Kim
Đạo giáo II
(Nam phong tạp chí t.XII, số 58, tháng hai 1923)


--
(15) Đạo đức kinh chương thứ 40
(16) Đạo đức kinh chương thứ 25
(17) Đạo đức kinh chương thứ1
(18) Đạo đức kinh chương thứ 25
(19) Đạo đức kinh chương thứ 41
(20) Đạo đức kinh chương thứ 14
(21) Đạo đức kinh chương thứ 42
(22) Đạo đức kinh chương thứ 39
(23) Trang tử: Trí bắc du
24) Trang tử: Tế vật.
--.(
Các tác Phẩm để kê cứu



1. Phạm Quỳnh Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, Hà Nội, Đông kinh ấn quán x.b
2. Trần Trọng Kim, Đạo giáo, Nam Phong tạp chí t.XII tr.12-32 và 103-113; tXIII, tr.113-127 và 197-209; Phật lục, Hanoi, Imp, du Nord 1940.
3. Đại nam cao tăng truyện , Nam phong tạp chí, t.XXI, Phần chữ Hán, trang 27-30, 41-44, 54-57.
4. Phật giáo nam lai khảo, Nam phong tạp chí t. XXII , Phần chữ Hán tr.45-48.
5. Trần văn Giáp , Le Bouddhisme en Annam, des origines au XIIIè siècle BEFEO. T.XXXII fase. L.pp.191.268
6. Oldengerg. Le Bouddha.Sa vie, sa doctrine, sa communauté, traduit de l’1allemand par A.Fourcher, Bibliothèque de philosophie contemporainee 3è édition francaise, Paris, Félix Alcan 1921.
7. Tené Grousset. Histoire de la philosophie orientale. Inde Chine Japon, Bibliothéque francaise de philosophie, Paris, Nouvelle Librair nationale, 1923.
8. Le P.Léon Qieger. Histoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine depui l’origine jusqu’à nos jours. Hokien fou Imp. De la Misision catholique, 1917.
9. Le P. Léon Wieger, Textes philoshophiques. Sommaire des notions chinoises depuis ; l’origine jusqu’à nos jours. Hokien fou. Imp de la Mission catholique, 1906.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (19-03-11)
  #2  
Cũ 18-03-11, 11:24 AM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.805
Thanks: 45.833
Thanked 83.832 Times in 21.719 Posts
Mặc định

Chương 7



1. Việc dùng chữ Nho làm quốc gia văn tự


Dân tộc ta, trước khi nội thuộc nước Tàu có thứ chữ riêng để viết tiếng ta hay không? Đó là một vấn đề hiện nay không thể giải quyết được, v́ không có di tích, tài liệu mà khảo cứu.
Duy từ khi nước ta tự chủ (939) cho đến khi nước Pháp sang bảo hộ, th́ trong khoảng hơn chín thế thể kỷ ấy, triều đ́nh vẫn lấy chữ Nho làm quốc gia văn tự: các luật lệ, dụ chỉ của nhà vua, công văn, án từ của các quan, việc học, việc thi, đều dùng chữ Nho cả. Trong dân gian, các khế ước, chúc thư, khoán lệ, sổ sách cũng dùng chữ nho.
Chỉ có hồi đức Nguyễn Ánh c̣n xưng vương, chưa b́nh định xong Nam Bắc, là có dùng tiếng Nôm làm các dụ sắc và công văn, v́ bấy giờ trong nước loạn lạc, việc học, việc thi chữ nho khoáng phế đă lâu, không có người văn học để dùng; vả các tướng tá, quân nhân cũng ít người biết chữ nên phải dùng tiếng Nôm cho tiện. Hiện nay c̣n truyền lại một tập công văn viết bằng tiếng Nôm về hồi ấy (Xem bài đọc số 1)
Vậy ta phải xét cách tổ chức việc chọc chữ nho ở nước ta trong các triều vua thế nào.

2) Cách tổ chức việc học chữ Nho

Xét về vấn đề này, ta có thể phân biệt ra hai thời kỳ:

Việc học chữ Nho trong các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lư sơ (từ đầu thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ thứ XI)- Mấy triều Ngô, Đinh và Tiền Lê, phần v́ ngắn ngủi, phần v́ các vua c̣n phải lo việc chống nhau với nước Tàu để làm cho nền tự chủ được vững, nên chưa có th́ giờ tổ chức việc học chữ Nho. Trong thời kỳ ấy, việc dạy chữ Nho phần nhiều do các nhà sư đảm nhận, v́ Phật giáo bâư giờ đương thịnh và các vị sư đều thâm Hán học cả. Xem như năm 986 (Thiên Phúc thứ 7), có xứ nhà Tống sang, vua Lê Đại Hành sai ông sư Đỗ PHáp Thuận đi đón, lại sai ông sư Ngô Chân Lưu làm bài từ để tiển sứ Taù; lại xen như Sử chép vua Lư Thái Tổ thuở nhỏ học ông Sư Vạn Hạnh th́ đủ biết các vị sư bấy giờ nhiêù người giỏi chữ Nho và dự một phần lớn trong việc truyền bá Hán học.
Việc học chữ Nho trong các triều Lư, Trnần, Kê, Nguyễn (từ giữa thế kỷ thứ XI đến cuối thế kỷ XX) – Trong thời kỳ này, việc học chữ Nho đă được triều đ́nh tổ chức để các sỹ phu có nơi học tập.
A) Lư- Năm 1070, vua Lư Thánh Tôn dựng văn miếu ở Thăng Long (nay là văn miếu Hà Nội để thờ đức Khổng tử và các vị tiên hiền ,tỏ ra rằng nhà vua tôn sùng Nho giáo. Ngài lại sai Hoàng tử đến học ở đấy.
Năm 1076, vua Lư Nhân Tôn đặt ra Quốc Tử giám chọn các quan có văn học bổ vào đấy coi việc giảng dạy.
B) Trần- Năm 1236, vua Trần Thánh Tôn đặt ra Để điệu Quốc tử viện để cho con em các quan văn vào đấy học. Năm 1243, ngài sai làm lại Quốc tử giám. Năm 1252, ngài cho con thường dân người nào tuấn tú được theo học với con các quan ở Quốc tử giám.
Năm 1253, ngài lập Quốc học viện để giảng Tứ thu, Ngũ kinh.
Năm 1237, về đời vưa Trần Thuận Tôn, Hồ Qúi Ly thấy việc học trong nước, trừ kinh đô ra, c̣n ngoài chưa hề tổ chức, bèn hạ lệnh đặt ở các lộ, phủ, châu các học quan coi việc dạy dỗ và cấp ruộng cho các viên ấy.
C)Lê – Vua Lê Thái tổ, sau khi ngài lên ngôi, liền lưu ư đến việc học. Năm 1428, ngài lập Quốc tử giám ở kinh đô để dạy con cháu các quan và các người tuấn tú trong dân gian; c̣n ở ngoại th́ đặt nhà Lộ học chọn con em các lương gia trong dân sung làm Lộ hiệu sinh và bổ thày để dạy dỗ.
Năm 1483. vua Lê Thánh tôn mở rộng thêm nhà Thái học (tức là Quốc tử giám), làm các pḥng cho các sinh viên ở và kho Bí thư để chứa sách.
Sau khi nhà Lê trung hưng, th́ việc cũng phỏng theo đời Tiền Lê. Ở Quốc tử giám th́ đặt quan tế tửu và quan tư nghiệp để làm giảng quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Năm 1734, đời vua Thuận Tôn, Trịnh Giang lại sai khắc in các sách Kinh Truyện phát ra mọi nơi để khỏi phải mua sách in ở bên Tàu.
D) Nguyễn. – Năm 1803, vua Gia Long dựng nhà Quốc học ở kinh đô (Huế). Ngài lại đặt chức đốc học ở các trấn , giáo thụ, huấn đạo ở các phủ, huyện để coi việc dạy học .
Năm 1821, vua Minh Mệnh đổi tên nhà Quốc học gọi là Quốc tử giám, dựng thêm một giảng đường, một Di luân đường cùng hai học xá ở bên tả, bên hữu. Năm 1826, lại dựng thêm học pḥng bên tả, bên hữu mỗi bên mười chính gian để làm chỗ sinh viên học tập.

Cách học tập ở các trường công hồi xưa.-

Cách học tập ở các trường công ngày xưa thường tổ chức như sau:
A) Sự giảng sách.- Mỗi tháng định mấy kỳ giảng sách. Những hôm ấy, các học tṛ tề tựu ở học đường, rồi các quan đốc học, giáo huấn giảng nghĩa các kinh truyện cho học tṛ nghe.
B) Sự tập văn.- Mỗi tháng lại định những kỳ làm văn. Đến hôm ấy, các giáo quan ra đầu bài cho học tṛ đem về nhà làm; cũng có khi làm ở trường trong một ngày phải xong (cách ấy gọi là làm văn nhật khắc). Học tṛ làm xong văn nộp quyển; học quan, khi đă điểm duyệt xong, họp các sinh viên lại mà b́nh các quyển văn hay. Một đôi khi cũng phát ra những giải thưởng nữa (1)

Kết luận:- Trong cách tổ chức việc học ở nước ta hồi xưa. Triều đ́nh chỉ chú trọng đến một trường đại học ở kinh đô và đặt các giáo chức ở lộ, phủ để cho các học tṛ lớn cố chỗ học tập mà dự khoa thi. C̣n việc học ở dân gian như nay gọi là bậc “tiểu học” th́ Triều đ́nh không tổ chức, cứ để các tư gia đón thầy dạy lấy con cháu. Tuy vậy, việc học của b́nh dân cũng được phồ cập, v́ các trường tư mở ra rất nhiều và các “ông đồ” trong có các bậc hưu quan, các nhà khoa mục, được người trong nước một ḷng tôn trọng.
--
(1) Trên đây là nói về việc học chữ Hán ở nước ta trước khi nước Pháp can thiệp. Sau khi nước Pháp lấy xứ Nam kỳ (1892 và 1867) th́ băi việc học việc thi chữ Nho ở trong ấy mà tổ chức nền học Pháp Việt. C̣n ở Trung, Bắc kỳ th́ chính phủ bảo hộ trước vẫn để nguyên như cũ, sau mới thương lượng với Nam triều lập ra Hội đồng cải lương học vụ để sửa đổi lại phép học, phép thi. Ngày 31 tháng năm năm 1906, chính phủ ban hành một đạo vụ về việc ấy. Về phép học th́ chia làm ba bậc: 1) Ấu học: dạy ở các trường tổng sư và lấy bằng tuyển sinh làm tốt nghiệp; 2) Tiểu học dạy ở các trường phủ, huyện (giáo thụ, huấn đạo) và các trường qui thức ở tỉnh lỵ, lấy bằng khoá sinh làm tốt nghiệp. 3) Trung học dạy ở các trường tỉnh (đốc học) để luyện học tṛ thi Hương. Chương tŕnh học vẫn lấy chữ Nho làm gốc, nhưng có học thêm các khoa cách trí, sử kư, địa dư, toán pháp bằng chữ quốc ngữ và một ít chữ Pháp.

CÁC BÀI ĐỌC THÊM

1. Một đạo dụ viết bằng quốc văn về đời đức Nguyễn Ánh.

Lời dụ ban cho tướng sĩ trong khi duyệt binh ở Gia Định ngày 26 tháng ba năm Canh thân (1800)
“Cơn bát loạn chẳng lo sao đặng, năm sáu phen đăng định , dễ muốn chi qua giáp biền đê; hội trung hưng phải quyết mới xong, muốn ngh́n dặm thu công, bao nỡ để sinh linh đồ thán.
“thời dĩ chí, khá rằng vội tưởng: cơ khá thừa, vậy phải sớm toan.
Ta nay: gặp hội trung vi, dựng nền tái tạo. Tám chín phủ gian sơn đồ sộ, đặng chỗ này lo chỗ khác, thù tổ tôn đâu dám nguôi ḷng, mười ba thu tướng sĩ nhọc nhằn, đánh trận nọ qua trận kia, đạo thần tử trước đà gắng sức . Vậy năm ngoái thu thành B́nh định, rất đỗi cần lao; tưởng năm nay nghỉ chốn Đồng nai, yên bề hưu tức. song liệu chừng thế nó, tướng phẫn binh tàn, hạ lăng, thượng phế, dù chẳng đánh cũng hư; nhân tính lại việc ta đồn quân , tích tướng, trữ súng, tăng thuyền, phải sắm thêm mới mạnh.
“Nên nỗi: theo đường phú liễn, nặng việc công sưu. Dân thời cung cống lương tiền, nhịn mặc, nhịn ăn, tật khổ ta đâu không rơ; quân thời tân cần chinh địch, gắng công gắng sức huân lao ta vốn không quên.
“Trước tuy nhật xúc kinh doanh, rày đă sẵn rồi chiến cụ. Cũng muốn dưỡng uy súc nhuệ, trời Gia định nghỉ nhơi cho khoẻ, ngơ chư hầu đều được lạc sinh; nào ngờ cùng khấu xương cuồng, lũy Bàn xà đến rấn vào vậy, bởi nghịctặc tư lai tống tử.
“Huống nó, em phản anh, tôi phản chúa, lại thêm ngoại viện tàng sư, trường thành thất hiểm, tai phần sào đă quyết từ nay; mà ta lương th́ đủ, quân th́ ṛng, sẳn có tướng tài quy phụ, chư quốc liên binh, thế phà trúc chờ bao thuở nữa.
“Cứ ấy: vội vàng trục bắc, hăm hở b́nh tây. Trước là lo tôn xă mà phục thù, kẻo lăng tẩm một trời man mác; sau là bị thần dân mà tiếc phẫn, kẻo thương sanh khắp chốn than van. Cơ hội này ai nỡ đặng thôi; công danh ấy người âu phải gắng.
“Rày mới vui ḷng sư lữ, mở tiệc cảo lao. Muốn cho đặng tấm ḷng chung, tôn ti nhất thể; vậy phải phô bày lời thật, minh thệ tam quân. Quân thời nợ nước lo đền, khoán thiết thơ son đành tạc đó; quân th́ thù trai dóc trả, cung dâu tên cỏ phỉ nguyện xưa (Liễn (những) người tiến kiến hướng minh, chót đă lập công, chớ đển Trần B́nh riêng thuở Hán; những kẻ hậu lại qui thuận đều cho báo hiệu, mữa nhường Kính Đức ngợi đời Đường. Phép vô tư chẳng khuất một ai, dầu bộ khúc thiên ty, có công ắt thưởng ; quyền tất phạt không riêng nửa mảy, tuy huân thần qui thích, phạm tội nào dung. Trên dưới tua dọc chí cần vương; tướng hiệu cũng một ḷng địch khái. Thành Quy nhơn chỉ bắc, đạp phá trùng vi: đô Thuận hóa rung cờ ,dẹp yên đảng nguỵ. Công tru bạo gắng rố một thuở, phúc thái b́nh đều hưởng ngh́n năm. Ai tưởng câu chủ qui thần vinh mà phụng tại triều, quan ắt đặt tên đề trúc bạch, ai muốn chữ công thành thân tạo mà qui hưu tại dă, quân thời xá thuế lính chinh diêu. Trên đă bày lời, dưới tua tỏ ư.
“Khâm tai sắc dụ”
An Khê sao lục
(Nam phong tạp chí, t XIV số 80, Février 1924)

2) Vua Lê Thánh tôn sử lại nhà Thái học:

Lúc buổi đâù Quốc triều (tức là nhà Lê) nhà Thái học vẫn theo phép cũ của nhà Trần, qui chế c̣n nhiêù điều thiếu thốn. Đến khi ấy (tháng giêng năm Hồng Đức thứ 14, 1483), vua sai mở rộng ra; trước nhà Đại học, dựng điện Đại thành của văn miếu để thờ tiên thánh, đông vu, tây vu để chia thờ các bậc tiên hiền, tiên nho, điện Canh phục (thay đồ mặc) để làm chỗ túc trực, một kho chứa đồ tế và một buồng bếp. Đằng sau, dựng cửa nhà Thái học, Minh luân đường, Đông Tây giảng đường để dạy học tṛ. Lại đặt thêm kho Bí Thư để chứa các ván in sách. Phiá đông, phía tây đều có 3 dăy nhà ở có 3 hạng “xá sinh (2), mỗi dăy có 25 gian. Phía đông, phía tây đêù có một cái nhà bia. Qui mô thực là to tát rộng răi.
Dương Quảng Hàm dịch
(Theo Khâm định Việt sử thông giám chương mục, q.23, tr.38b-39a)
--
(2) Xá sinh : Về đời vua Lê Thánh Tôn, các giám sinh ở Quốc tử giám họp lại thi. Ai trúng tam trường được sung “thượng xá sinh”, ai trúng nhị trường được sung “trung xá sinh, ai trúng nhất trường được sung “hạ xá sinh”, mỗi xá lấy 100 tên, tiền lương tháng th́ thượng xá sinh được cấp một quan, trung xá sinh được 9 tiền, hạ xá sinh được 8 tiền (theo C.M 23, tr.39h-40a)
--
Các Tác Phẩm kê cứu

1) Nguyễn Bá Trác, Bàn về Hán học N.P, tvII số 40, tr. 324-336
2) Lê Thước, L’enseignement des caractères chinois, Ext. de la Revue Indochinoise; 1921, Hanoi, Imp. D’Extrème Orient.
3) Aurousseau. Le Temple de la littérature de Hanoi, Revue Indochinoise, nouvelle série; t.XX, juillet – Decebrre 1913, pp.1.12.
4) Quốc tử giám khảo, N.P,t.X.số 39, phần chữ Hán tr.172-176.
Trả lời với trích dẫn
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post:
hoatigon208410 (19-03-11)
Trả lời


Quyền viết bài
Bạn không thể gửi chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi file đính kèm
Bạn không thể sửa bài viết của ḿnh

BB code đang Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 05:56 PM

© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.